Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Bên cạnh chất hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn đậm đà chất lãng mạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.88 KB, 32 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
NHỮNG BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH, LÀM SÁNG
TỎ CÁC NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM”

Đề số 1: Bên cạnh chất hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn
đậm đà chất lãng mạn. Anh (chị) hãy dựa vào tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch
Lam để làm sáng tỏ vấn đề này.

“Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của
con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà
quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn
chứng. “Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ
trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day
dứt về đời sống con người. Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng
xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi
miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền
trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm
thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh
chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa
trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “Gió lạnh đầu
mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong
“Hai đứa trẻ”. Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc
sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành
được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm
sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗI người đã có


một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả
Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ.
Hiện thực không làmta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo vớI những người cần cù


lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa
trong chấ văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt
nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm.
Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồi” cất lên trong
lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban
ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại
có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi
mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ
cón tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế. Sự tài tình
chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. HIểu là nhà văn quan
sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta
thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên
vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”.
“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng
câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải
chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi
phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng
ngườI về muộn từ từ trong đêm”. Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng”
bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm.
Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những
ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng
lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh
trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng


của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật
diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức

tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật vớI hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt người
phụ nữ chân quê chất phát đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn,
manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn
như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban
đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lờI đối thoại, những
hoạt động của con ngườI nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương
vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo. Chẳng có một nét chấm phá nào
trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật
cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của
đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng”
một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng
uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc
bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp
tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất
buồn. Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ
nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tyệt vời của ông.
Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở
cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn
đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởI nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người
đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn
man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện
xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một
cảnh tượng làm chị không khỏI chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn


nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho
chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một
người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh

lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố
huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một
thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi
đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng
thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non
nớt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người
dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường
sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội.
Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống
“Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động
tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô
thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên
cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng
chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó
càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến
niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn
khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về
như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng
hơn vì hàng ngày chuýên tàu vẫn là niềm mong mỏI của chị. Có ngườI nói “chờ đợi là
một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càngkhủng khiếp hơn. Với Liên
điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay


trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợI tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại
vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi.
Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa

hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn
tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là
một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam
đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là
mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên
bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với
xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn
cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một
tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ
nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy
đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc đời” thật
nhiều sâu sắc.


Đề số 2: Trong Hai Đứa Trẻ, Thạch Lam đã làm người đọc xúc động trước tâm trạng
của hai chị em Liên và An, đêm đêm chờ đợi chuyến tàu đi qua phố huyện. Hãy phân
tích tâm trạng đó và cho biết qua đây ta có thể hiểu gì về tấm lòng của tác giả.

I. Tâm Trạng nhân vật Liên
1. Hoàn cảnh cuả nhân vật (hoàn cảnh chi phối tâm trạng)
Gia đình đang trong cảnh cha thất nghiệp, mẹ tần tảo. Liên phải phụ mẹ coi quán
hàng xén. Phải xa Hà Nội. Cảnh ngày tàn, chiều xuống và đêm đen bao trùm tác động
đến tâm trạng Liên. Nhưng ở tuổi cuả Liên, chưa có tâm trạng (như là dòng chảy cảm xúc
suy nghĩ ). Tâm trạng Liên thể hiện qua mắt nhìn cuả Liên trên cảnh vật
2. Liên buồn trước thực tại
Cảnh ngày tàn “Liên không hiểu sao , nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước
cái giờ khắc cuả ngày tàn”. Buồn nuối tiếc quá khứ, buổi tối khi còn ở Hànội, Liên được
đi chơi, được uống những cốc nuớc lạnh xanh đỏ. Buồn trước cuộc sống lam lũ, tù đọng,
nghèo đói, tăm tối:“ Mấy đưá trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi

lại tìm Tòi . Chúng nhặt nhạnh thanh nưá thanh tre..Liên trông thấy động long thương
nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”…“ Tất cả phố xá trong huyện
bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước cuả chị Tý “. Mẹ con chị Tý dọn hàng chẳng bán được
gì. Hôm nay chợ phiên mà Liên bán hàng “chẳng ăn thua gì ‘. Gia đình bác sẩm lê la ở
dưới đất , tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. “Đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng
tối “
3. Liên mơ ước một thế giới khác
Liên thức để chờ tàu là để đuợc nhìn thấy một thế giới khác: thế giới đầy ánh sáng,
chuyển động, vui vẻ khác với thế giới tăm tối tù đọng hiện tại. “Liên lặng theo mơ tưởng.
Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới


khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái quầng sáng ngọn đèn chị
Tý và ánh sáng lửa của bác Siêu. Đêm tối bao bọc xung quanh, đêm của đất quê và ngoài
kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. TL tập trung miêu tả tâm trạng chờ tàu và cái
nhìn cuả Liên lúc đoàn tàu đi qua .Đoàn tàu đến là một “ làn khói bừng sang tắng lên từ
xa “. Khi tàu qua : “các toa đèn sáng trưng.., đồng và kền lấp lánh “và các cưả kính
sáng. Khi tàu đi khổi , “ những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt “ . Màu trắng, đỏ,
vàng lấp lánh là màu cuả rực rở niềm vui. Những âm thanh nhanh, mạnh , dồn dập: tiếng
còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới tất cả tương phản với thực tại tăm tối cuả Liên
II. Tư Tưởng nhân đạo cuả Thạch lam
TL xót thương những kiếp người sống trong tăm tối tù đọng và nói lên khát vọng
về một thế giới tươi sáng cuả họ. TL miêu tả chi tiết tâm trạng Liên, dõi theo những
hướng nhìn cuả chị và nhập thân vào Liên để sống với những ước mơ. Miêu tả tinh tế
những khoảng mơ hồ trong tâm hồn Liên ( lúc sắp ngủ ..). Tuy nhiên TL không chỉ ra
nguyên nhân xã hội cuả cuộc sống nghèo khổ, không chỉ ra con đường thay đổi xã hội tù
đọng tăm tối. TT miêu tả nâng niu những nét đẹp bình dị cuả cảnh sắc quê hương , cuả
tình người (Liên đối với trẻ em nghèo, với chị Tý, với cha mẹ ) dù cuộc sống nghèo khổ.
Truyện có màu sắc lãng mạn.
TL miêu tả tình cảnh những đưa trẻ không có tuổi thơ phải lam lũ lao động và lên

tiếng nhắc nhở mọi người phải trả lại tuổi thơ cho trẻ ( chị em Liên phải bán hang chờ tới
khuya tàu về, Con chị Tý giúp mẹ khuân ghế nhóm lưả , những đưá con bác sẩm bò lê
trên đất , những đưá trẻ nhặt rác ở chợ ..)


Đề số 3: Truyện ngắn Hai Đứa Trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của
Thạch Lam. Hãy trình bày những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trên.

1.Truyện ngắn TL thường không có cốt truyện đặc biệt
Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Cốt truyệnlà một đặc điểm cấu trúc
làm nên truyện. Cốt truyện gồm những biến cố là phát triển câu truyện. Trong Hai Đưá
Trẻ, chỉ có tuyến thời gian cùng với tuyến tâm lý đợi tàu cuả Liên. Không có biến cố gì
đặc biệt. Cả truyện là tâm trạng buồn cuả Liên, vì thế Hai Đưá Trẻ nhưbài thơ trữ tình
đượm buồn
2. Yếu tố hiện thực và yếu tố thi vị trữ tình đan cài
Yếu tố hiện thực là bức tranh phố huyện buồn tẻ, nghèo nàn, tù đọng.
Yếu tô thi vị trữ tình là thiên nhiên chiều đỏ rực. Đêm muà hạ êm như nhung.
Sự đan cài hiện thực và thi vị tạo nên đặc sắc phong cách TL .Hiện thực phố huyện
tuy nghèo nàn, tù đọng, nhưng vẫn có cái đẹp, không đẫm nước mắt như truyện Nam
Cao. Thiên nhiên đẹp, tình người đẹp. ái nghèo khổ cuả nông thôn là cái ngheò từ ngàn
đời, nhưng người nông dân không ta thán, trái lại, vẫn cần cù lao động và hy vọng ngày
mai. Văn TL giàu tình tự dân tộc.
3. Trong Hai Đưá Trẻ, TL đi sâu miêu tả trạng thái cảm xúc mơ hồ, tề nhị. Đặc
biệt là tâm trạng Liên lúc nhìn bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, tâm trạng Liên lúc sắp
chìm vào giấc ngủ, với bao cảm nghĩ còn vương: hình ảnh đoàn tàu vưà qua, ngọn đèn
chị Tý… “Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại. Những
cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh của thế giới quanh mình mờ
đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn
con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu; mắt
chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong

phố, tịch mịch và đầy bóng tối. “


4. Sử dụng thành công thủ pháp tương phản
Tương phản ánh sáng và bóng tối. TL tập trung miêu tả bóng đêm dày đặc; tả ánh
sáng ngọn đèn chị Tý và ánh sáng đoàn tàu như là một biểu tượng. “Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng
ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
Tương phản quá khứ, hiện tại (cuả Liên), nhờ đó bộc lộ được chủ đề tp.
Hiện tại nghèo khổ: “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên
mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể
dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng
chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”
Quá khứ vui vẻ: ”Liên nhớ lại khi ở Hà Nội,chịđược hưởng những thức quà ngon,
lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.
Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội
nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và
em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố
chung quanh”.
5. Giọng văn đằm thắm hồn hậu
Sự phối âm bằng trắc hài hoà tạo ra câu văn giàu chất thơ. Chất thơ còn thể hiện ở
việc miêu tả đẹp thiên nhiên, con người trong tăm tối và khát vọng ánh sáng. “[1]Liên
lặng theo mơ tưởng. [2] Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. [3] Con
tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. [4] Một thế giới khác hẳn đối với Liên,
khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. [5] Đêmtối vẫn
bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên
lặng”.



Câu [1] nhiều thanh trắc, đối với câu [2] nhiều thanh bằng, nhạc điệu như thơ.Câu
[2] kết nhịp bằng thanh trắc(sáng rực/ vui vẻ/ huyên náo) đối với câu [3] kết nhịp bằng
thanh bằng (đi qua).Câu [4]dùng điệp cấu trúc tạo ra độ nhấn về nghĩa và về nhạc (khác
hẳnđối với Liên/ khác hẳn cái vầng sáng). Câu [5] phép trùng điệp và phối thanh bằng
trắc tạo ra giọng hồn hậu nhẹ nhàng. Câu văn thể hiện tình cảm nhân đạo ở sự cảm thông
với người nghèo khổ, nhất là với những đưá trẻ nghèo: ”Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở
ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre,
hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động
lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”
6. Truyện TL thể hiện một quan điểm văn chương tiến bộ
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát
ly hay sự quên; trái lại , văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng
ta có, để vưà tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vưà làm cho lòng người
thêm trong sạch và phong phú hơn” (Lời tưạ Gió Lạnh Đầu Muà).
Hai Đưá trẻ được viết để vưà làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú
hơn . Người đọc nhận ra đặc điểm con người VN: Tuy khó nghèo, tù đọng, nhưng con
người VN vẫn hướng về thế giới cuả ánh sang, vẫn quan tâm thương yêu nhau…
KL: Hai Đưá Trẻ thể hiện đầy đủ đặc điểm phong cách TL


Đề số 4: Có ý kiến cho rằng, trong truyện ngắn của Thạch Lam, hai yếu tố hiện thực
và thi vị trữ tình luôn đan cài xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc sắc khó lẫn trong
phong cách nghệ thuật của ông. Phân tích Hai Đứa Trẻ làm sáng tỏ nhận định trên.

1 Khái niệm “yếu tố” cuả tác phẩm
“Yếu tố” cuả tác phẩmlà một bộ phận cuả cấu trúc làm thành tác phẩm. Các yếu
tố của tác phẩm VH làlời văn, nhân vật, cốt truyện, nội dung, chủ đề, bút pháp. Đó là
những yếu tố tham gia vào cấu trúc tạo nên tác phẩm. Trong truyện ngắn Thạch Lam hai
yếu tố hiện thực và thi vị trữ tình đan cài nhau, tạo nên nét đặc sắc phong cách TL. Yếu tố

hiện thực và thi vị trữ tình là yếu tố chất liệu củanội dung và bút pháp thể hiện
2 Yếu tố hiện thực trong Hai Đưá Trẻ
Bức tranh sinh hoạt phố huyện nghèolúc tối và đêmtẻ nhạt, tù đọng :trẻ con nhặt
rác, chị Tý dọn hàng, Bác Siêu, gia đình bác Sẩm, những người đi đón chủ.. đoàn tàu qua
phố huyện. “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các
ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái bếp lửa
của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn
vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá trong huyện bây giờ
thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm được một gia đình bác xẩm ngồi trên manh
chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe.”
Những cảnh đời, những số phậnnghèo đáng thương: Gia cảnh Liên, gia đình bác
sẩm. Cuộc sống tăm tối, tù đọng, bế tắc: buôn bán cầu may.
“Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng.
Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên
đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo
khổ hằng ngày của họ.” Hiện thực được tả qua đôi mắt Liên, một cô bé mới lớn, chưa có
ý thức xã hội vì thế có màu sắc lãng mạn. TL không miêu tả mâu thuẫn và đấu tranh giai
cấp như Nam Cao


3. Yếu tố thi vị trữ tình trong Hai Đưá Trẻ
Thi vị là chất thơ, tức là cái đẹp gợi nhiều cảm xúc. Trữ tình là tâm trạng. Hiện
thực được nhìn qua tâm trạng buồn cuả Liên. Yếu tố thi vị trữ tình là cái đẹp gợi nhiều
xúc cảm. Đó là cảnh thiên nhiênbuổi chiều và đêm ở phố huyện đẹp, được miêu tả bằng
câu văn giàu chất thơ: “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng
một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh
hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền
trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài
đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.”…“Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như
nhung và thoảng qua gió mát...Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với

vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây. An và Liên
lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần
Nông”.
Yếu tố thi vị trữ tình thể hiện đặc biệt ở bút pháp lãng mạn. Cảnh phố huyện tuy
nghèo và tù đọng, tăm tối nhưng vẫn đẹp những tình tự dân tộc. Không gian đầy bóng tối
nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng cuả thiên nhiên và ánh sáng từ mỗi con người.Ngọn đèn chị
Tý, bếp lưả bác Siêu, ngọn đèn cuả chị em Liên, đèn từ trong các nhà chiếu ra…Ánh sáng
từ các toa tàu nhiều màu sắc (Trắng, vàng, đỏ). Bóng tối không che lấp được ánh sáng.
Cái nghèo vẫn ánh lên niềm hy vọng ở tương lai với niềm tin mơ hồ (như niền khát vọng
mơ hồ cuả Liên khi đoàn tàu đi qua ). Tuyệt nhiên không có chết chóc, máu và nuớc mắt
(như trong Lão hạc, Chí Phèo, Tắt đèn...).
“Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói
bừng sáng trắng lên đằng xa...đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả
xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của
chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.”


Nhân vật Liên với tâm trạng buồn mơ hồ, với những khát vọng mơ hồ cũng là một
yếu tố vưà hiện thực vưà thi vị trữ tình. “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen;
đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn
ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ
khắc của ngày tàn. “
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tưạ cưả nhìn xa nghĩ ngợi gì
(Xuân Diệu)
4. Sự đan cài yếu tố hiện thực và thi vị trữ tình làm nên phong cách đặc sắc ở TL
Miêu tả đan cài:
Mở đầu truyện là thiên nhiêu buổi chiều đẹp, phố xá lên đèn lấp lánh. Liên thấy

lòng buồn man mác trước cái giờ khắc cuả ngày tàn. Đó là yếu tố thi vị trữ tình. Tiếp
ngay lúc đó là yếu tố hiện thực. Liên nhìn thấy những đưá trẻ con nhà nghèo ở ven chợ
cúi lom khom trên mặt đất nhặt nhạnh bất cứ cái gì có thể dùng được, Liên động lòng
thương. Rồi hình ảnh mẹ con chị Tý xuất hiện. Chị Tý tảo tần ngày đêm nhưng chẳng
kiếm được bao nhiêu, hình ảnh bà cụ Thi làm cho Liên sợ.
Trời bắt đầu đêm, một đêm muà hạ êm như nhung. Trên bầu trời hàng ngàn ngôi
sao ganh nhau lấp lánh. Chị em Liên nhìn bầu trời đêm tìm sông Ngân Hà, tìm ông sao
Thần Nông. Rồi Liên nhớ lại kỷ niệm những buổi tối ở Hà nội được đi chơi bờ hồ, được
uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hà nội là một vùng sáng rực và lấp lánh. Đó là yếu
tố thi vị trữ tình bên cạnh yếu tố hiện thực về gia cảnh Liên, bố Liên thất nghiệp, mẹ làm
hàng sáo, chị em Liên phải coi quán mãi tới khuya, hình ảnh bác Siêu, gia đình bác sẩm..
Phong cách TL:
Sự đan cài yếu tố hiện thực và thi vị trữ tình là một nét riêng cuả phong các TL.
TL là nhà văn lãng mạn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Nhất Linh , Khái Hưng, Hoàng
Đạo chủ yếu viết tác phẩm lãng mạn như : Đoạn Tuyệt, Nưả Chừng Xuân, Hồn Bướm


Mơ Tiên, Trống Mái, trái lại, tác phẩm cuả TL nhiều yếu tố hiện thực như Nhà Mẹ Lê,
Đói, Hai Lần Chết, Gío Lạnh Đầu Muà… Nhưng so với các nhà văn hiện thực khác như
Ngô Tất Tồ (Tắt Đèn), Nam Cao (Lão hạc, Chí Phèo, Giăng Sáng, Đời Thưà...) tác phẩm
cuả TL nhiều yếu tố thi vị. TL không miêu tả bản chất mâu thuẫn giai cấp như Ngô Tất
Tố hay Nam Cao vì thế yếu tố hiện thực cuả tác phẩm TL mới chỉ là hiện tượng, thể hiện
tình cảm nhân đạo cuả nhà văn TL miêu tả cái đẹp trong cuộc sống đời thường, cái đẹp
cuả cảnh vật, cái đẹp cuả tình người, cái đẹp cuả nếp sống, cuả văn hoá Việt Nam. Chẳng
hạn một chi tiết rất nhỏ :“ một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sang nhỏ xanh
lấp lánh. Rồi hoa bang rụng xuống vai Liên khe khẽ..” Xe lưả chạy là hình ảnh đời
thường ai cũng biết và chẳng mấy khi để ý, vì chúng chẳng có gì ngoài sự ồn ào xô bồ.
Nhưng TL lại nhìn ra cái đẹp cuả đoàn tàu: “ Một làn khói bừng sáng trắng lên từ đằng
xa …các toa đèn sáng trưng… đồng và kền lấp lánh. Đoàn tàu đi vào đêm tối để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.” TL dung ba nàu rực rỡ: tắng, vàng , đỏ làm

tạo nên bức tranh vui rực rỡ. Ngô Tất Tố, Nam Cao không miêu tả cái đẹp như vậy, mà
tập trung tố cáo hiện thực xã hội TDPK.


Đề số 5: Sách Ngữ văn 11, năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam:" Mỗi
truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương (trang 148). Phân tích truyện ngắn
Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa
được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định,
Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài
năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết: “Nói đến
Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của
Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện
là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự
lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình
một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người
nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành? (Phong Lê). Thế giới nhân vật là những lớp
người nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và
tội nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi
phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của ông
chủ yếu là con người thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn
bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc
bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung
quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương ngườI, để bâng
khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng
một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.
Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót
thương. Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí

trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả.


Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ
nhiều chất trữ tình: Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài
thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một
giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên
nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu. Đó chính
là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta
vương phải. “Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ
tình đầy xót thương” .
Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của
hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga
xép. Đêm đêm những bóng người bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những
bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố
huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng
sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một
chuyến tàu đêm kéo qua ra mới chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như
thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là
biến diễn của một thời gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như
lửa cháy” đến chín giờ tối “đêm tối bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong
“tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổi tối của các thường ngày tưởng
như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng
con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian
riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà
hương vị đồng quê; nhiều bóng tốI mà chói sáng mốI tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu,
xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện
như chất chứa biết bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mạo phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh
chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổI sáng làm không khí

bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra vớI tất cả


những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng
hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổi chiều nữa lạI đến, chiều là buồn. Ấn tượng
về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả
bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần
phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên
đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố
huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của
buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con
ngườI cuốI cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế
thảI vớ vẫn “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ
trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã
yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn
quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc
trưng để nói tới sự nghèo nàn”. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởi, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi
cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung
cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụi dần.
Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng
tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trời đỏ rực như lửa cháy,
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tối hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn
tre và cuối cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tối mênh mông của nó, tín hiệu
là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng
trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tốI là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt
dần, bóng tốI chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm - màn
đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc
ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trờI hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua
khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn
lụI ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẽ

tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗI vo ve gợi cảm giác về sự


ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh
không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc
chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố
huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thời
gian của nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian
rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con
người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh
về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc
hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn
nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvớI cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh
xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho
người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh: ban ngày mò cua bắt tép, ban tối chị mớI
mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn
thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng
cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những
người trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống.
Cách chị Tí trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để
chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mới chép miệng trả lời: “Ối chao,
sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của
nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác
bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn
run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một
con người bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng. Bà là kiếp người
đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười khanh khách. Cách xưng hô với Liên
“chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con người với con người vốn nó rất cần trong hoàn
cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp người, như một



cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy
dòng truyện ít ỏi nhưng đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai
chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách
hàng là những ngườI khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ
đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay
lắt nhưng cuộc sống của Liêncũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn
cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà
không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc
hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗi hắt hiu, đơn điệu chỉ
là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua: “đó là hoạt động cuối
cùng của đêm khuya”.
Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này
cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồi vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm
khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn
ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lại”
Hà Nội, một kí ức không rõ rệt, Hà Nội là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà Nội nhiều
đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà Nội xa xăm” , “Hà Nội sáng rực vui vẻ và
huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt vớI cái tốI mịt mù
dướI gốc bàng của hiện tạI đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng
mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín
trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt
lịm và để rồi tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mông, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của người tái hiện. Và
nỗI thương cảm của Liên đối với mấ đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ
Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để
nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt
lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại, phải chăng đó là khát vọng



thoát khỏI cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về
một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông
thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát
lớn của xã hội Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thờI sự văn học buổi ấy, ta thấy
Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thờI đạI mã Nam Cao đã phải từng
thốt lên : “Cuộc đời đang cùn đi, gỉ đi, nổi váng lên”… “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn
như một bài thơ trữ tình bởi cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.
Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi
lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trời phố huyện cũng như
cảnh đờI những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu
yếu tố nghệ thuật: hình ảnh bóng tối bao trùm cảnh vật và con người mà tác giả dụng
công miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng
tốI như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con
người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dưới những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có
khác nhau : “buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều rồi” , “bóng tối
ngập đầy” , “bước của buổi chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái
khác nhau của bóng tối đến với tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tối sắp đến
vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tốI đến vớI dãy tre làng đen lại,
bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường
mấp mô, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lại, bóng tối được lặp
đi lặ lạI đầu và cuối huyện. Bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm
nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm
thâm của mọi sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian
xã hộI của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện “tối đến chị mới dọn cái hàng dưới
gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ
lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra … bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang
đi “một tiếng cười khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đời không rõ ràng nhưng rõ
ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu



gọn trên manh chiếu chật hẹp, với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng,
những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tốI: đêm tối ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích
ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng trong đêm chờ đón
đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch
mịch và đầy bóng tối…
Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác
giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng,
cấu từ như một bài thơ trữ tình. Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất
hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả
khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn
chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm
bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu
chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác. Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu
nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung
động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm
trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “
Hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì người nói muốn
nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và
ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam
được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý
kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái
nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”


Đề số 6: Tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam hướng vào thân phận của nhũng con
người nhỏ bé, đáng thương". Qua tác phẩm em hãy làm rõ nhận định trên.
1. Mở bài:

+ Giới thiệu tác giác, tác phẩm
+ Trích nhận định cần làm rõ
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn "Hai đứa trẻ"
+ Trích trong tập "Nắng trong vườn" - 1938 => cách nhìn của Thạch Lam về số
phận con người nghèo khổ, là cuộc đời có nắng, nhưng chỉ là trong vườn, chỉ được nhìn
những tia nắng le lói.
+ Truyện ngắn như tái hiện lại tuổi thơ của Thạch Lam khi còn nhỏ sống ở quê
ngoại: phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
b. Cảnh phố huyện và con người phố huyện về đêm: bút pháp hiện thực
+ Khung cảnh: miêu tả theo một kết cấu khép: chiều => tối => đêm. Nhằm gợi
bóng tối nhiều hơn ánh sáng.
Khung cảnh được miêu tả êm dịu, thanh bình ở phố huyện nghèo. Vào đêm "mùa
hạ êm như nhung" thì những ánh sáng trở nên ít ỏi và dóng diết.
Ánh sáng thiên nhiên: những vì sao trên trời => đối với chị em Liên và những
người trong phố huyện nó thật là xa xôi.
Ánh sáng con người: được miêu tả cụ thể qua "ngọn đèn của chị Tí" : ngọn đèn
được tác giả sử dụng những từ ngữ "leo lét", "đốm sáng"; "quầng sáng"; "hột sáng"...
=> Cuộc sống ở phố huyện tối tăm, tù đọng, luẩn quẩn, bế tắc, không biết làm sao
mới thoát khỏi cảnh tăm tối, cơ cực này.


+ Con người và cuộc sống sinh hoạt phố huyện:
- Chị em Liên: là 2 nhân vật trung tâm bức tranh, mới nhỏ tuổi vì cuộc sống cơ
hàn mà phải lam lũ, phải trông hàng, bán hàng để phụ mẹ kiếm tiền. Liên là nhân vật
được tác giả lựa chọn, cô không phải quá trẻ con, nhưng cũng chưa hẳn là người lớn, nhà
văn miêu tả mọi thứ qua cái nhìn của cô bé Liên. Ngày nào cũng lặp đi lặp lại cuộc sống
ấy, ngày nào cũng gặp gỡ lại những con người ấy.
Ở bức tranh buổi chiều, Liên thấy động lòng thương khi thấy lũ trẻ con nhà nghèo
trong xóm cứ đi đi lại lại ở chợ nhặt những thanh nứa, thanh tre mà người bán hàng để

lại. Chợ "phiên" nhưng vắng khách vô cùng. Và tan chợ trên mặt đất chỉ toàn "vỏ bưởi,
vỏ thị, lá nhãn và bã mía".. là những thức quà quê quen thuộc
Ở bức tranh buổi tối đầu hạ, Liên thấy những con người trong phố huyện "lặng lẽ"
làm những công việc để kiếm thêm thu nhập: chị Tí mang gánh nước ra bán hàng, bác
Phở mỹ, gia đình nhà bác sẩm,... => họ lam lũ kiếm ăn cả ngày lẫn đêm mà vẫn "chẳng
ăn thua gì"
=> Một hiện thực về cuộc sống người nông dân tăm tối, cơ cực, bế tắc. Họ cứ sống
trong những cảnh ao tù nước đọng. Sống trong bóng tối, cuộc sống họ cũng giống như
những cái bóng, dật dờ, không rõ ràng và dễ bị vùi lấp
c. Cảnh đoàn tàu: => giá trị nhân đạo + bút pháp lãng mạn
Thạch Lam là tác giả có chân trong "Tự lực văn đoàn", nhưng ngòi bút ông lại
luôn cúi xuống những con người dưới đáy cùng xã hội để am hiểu, cảm thông và sẻ chia
với họ.
+ Những con người ấy tuy nhỏ bé, tuy cuộc sống lay lắt, nhưng Thạch Lam đã trân
trọng phát hiện ra ở họ vẫn luôn có những khao khát đổi đời, tuy những khát khao ấy
chưa được định hình rõ ràng, nhưng họ luôn muốn hướng tới một cuộc sống tốt đẹp và có
ý nghĩa hơn cuộc đời mà họ đang phải sống.
+ Bằng tình yêu thương, Thạch Lam chắp cánh cho ước mơ của họ bằng đoàn tàu một hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Những người dân trong phố huyện luôn đợi con


tàu cuối cùng đi qua nơi phố huyện của họ, để dù ít ỏi nhưng họ cũng nhìn được một thứ
ánh sáng lấp lánh, đẹp đẽ, mạnh mẽ hơn ánh sáng mà họ đang phải thấy ở phố huyện
nghèo
+ Hình ảnh đoàn tàu: hình ảnh biểu trưng giàu ý nghĩa: mang ánh sáng mạnh mẽ;
cuộc sống sung túc, đủ đầy, vui vẻ, náo nhiệt.
=> những hạt mầm sự sống nảy nở ngay cả ở những vùng đất tăm tối
+ Chính hình ảnh con tàu dệt lên biết bao khát khao cho những con người nghèo
khổ, con tàu mang theo bao ước mơ hoài bão của những con người nhở bé để thắp lên hi
vọng ngày mai và những ngày sau nữa họ lại chờ tàu.
=> nghị lực của con người, ước mơ đổi đời hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn của

con người là trân trọng, là đáng quý. => Tấm lòng nhân đạo của tác giả đã cùng đau với
nỗi đau của con người và luôn trân trọng những khát khao của những con người bé nhỏ
d. Về nghệ thuật:
+ Ngòi bút viết truyện nhẹ nhàng, thấm đẫm tình người như những trang thơ tuôn
trào cảm xúc của Thạch Lam. Cách viết truyện không có cốt truyện nhưng vẫn giàu ý
nghĩa.
+ Bút pháp hiện thực + bút pháp lãng mạn đặc trưng của Văn học 1930 - 1945
+ Tạo ra những hình ảnh biểu tượng giàu triết lý nhân sinh
3. Kết bài:
+ Giá trị của truyện ngắn (thông điệp của truyện ngắn về con người, ước mơ sống
của con người).


Đề số 7: Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật của Thạch Lam. Anh chị hãy chứng minh nhận định trên.
Thạch Lam (1910 – 1942) là thành viên của “Tự lực văn đoàn”. Ông thành công
về truyện ngắn và bút kí qua các tác phẩm như: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Hà Nội
36 phô phường… Tác phẩm của Thạch Lam có “cốt cách và phẩm chất văn học”, để lại
“cái dư vị và cái nhã thủ” cho người đọc. Đó là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân trong Lời
bạt cho Tuyển tập Thạch Lam. Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn
(1938). Truyện ngắn này có những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách của
Thạch Lam.
Có thể nói rằng những truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ và Dưới bóng
hoàng lan là những truyện ngắn không có cốt truyện, mỗi truyện là một bài thơ trữ tình
đượm buồn. Gió lạnh đầu mùa nói về chuyện cho áo và trả áo, cho vay tiền để mua áo ấm
giữa ba đứa trẻ và hai người mẹ. Dưới bóng hoàng lan có bốn nhân vật: hai bà cháu, cô
thôn nữ Nga và cây hoàng lan. Mái nhà xưa và bóng bà che mát tâm hồn đứa cháu;
hương thơm và bóng hoàng lan ướp hương và ủ ấp cho một mối tình êm đẹp dịu ngọt
chăng tơ… Còn truyện Hai đứa trẻ nói về một phố huyện nghèo và tâm trạng thao thức
của hai chị em Liên và An khắc khoải đợi chờ một chuyên tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn

tàu và tiếng còi tàu đã trở thành một thói quen của cảm xúc và ước vọng. Tuy không có
cốt truyện, nhưng Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Đó là chất thơ.
Hai đứa trẻ có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa, Thạch Lam tả cảnh, tả
người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng.
Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran; trong nhà thì tiếng muỗi vo ve.
Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tôi ngập dầy dần, tâm hồn thơ ngây thấm thía cái buồn
của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười khanh khách. Tiếng đàn
bầu của bác Xấm thì bần bật. Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng cu khiêng hai cái ghế
trên lưng; mẹ nó đội cái chõng tre trên đầu… Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo khổ.


×