Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Những bài văn bài hai đứa trẻ thạch lam ngữ văn 11 (6)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.21 KB, 11 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
TỔNG HỢP BÀI VĂN MẪU “CẢNH PHỐ HUYỆN LÚC CHIỀU TÀ
TRONG “HAI ĐỨA TRẺ” CỦA THẠCH LAM”
BÀI SỐ 1:

Hẳn các bạn đã từng thả hồn mình cho bóng hoàng lan rũ xuống để thưởng thức
giọng văn tươi mát dịu ngọt “ngon lành như cánh bướm non” của Thạch Lam ? Và với
giọng văn quyến rũ ấy ông đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc khi
miêu tả bức tranh đời sống phố huyện lúc về chiều. Hai đứa trẻ xuất bản năm 1938 in
trong tập “Nắng trong vườn”. Đã gọi là nắng trong vườn thì làm sao có được những cảnh
ồn ào nhộn nhịp khẩn trương nơi đô thị?
Buổi chiều nơi phố huyện thật lặng lẽ và cô quạnh. Không gian êm ả đâu đó có
tiếng động là tiếng của côn trùng nỉ non ngoài bãi cỏ. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả
như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Nhịp
điệu câu văn như buông chùn, kéo dài gợi nỗi buồn man mác khó lí giải. Không phải tác
giả giật mình nhận ra chiều đang tới mà có lẽ hình ảnh buổi chiều đã in đậm sâu trong
tâm hồn người nên câu văn “chiều, chiều rồi” chỉ đọc ba tiếng nhưng tiết tấu của nó ngân
vang toàn tác phẩm. Âm thanh thiên nhiên biểu hiện qua tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái
bên bờ ruộng xa xa… Thạch Lam đã lấy ngày tàn làm nền bóng tối là gam màu chủ yếu,
bóng tối quê nhà như phủ đầy phố huyện, phủ lên số phận cô đơn tủi cực của một số kiếp
người, trong đôi mắt Liên thì con đường phố huyện thăm thẳm tăm tối, gian hàng phở của
Bác Siêu, manh chiếu của người xẩm mù hay hàng nước của chị Tí đầy bóng tối. Những
ánh đèn leo lét hắt ra từ những ngôi nhà phố huyện tăng thêm đêm tối mịt mù. Tuy nhiên,
dười ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương thì bức tranh quê hiện lên bình
dị và có phần nên thơ. Đó là đời sống phố huyện nghèo được miêu tả chân thực, cảm xúc
trữ tình đã gây cho ta buồn thương day dứt về số phận của con người.


Hình ảnh những đứa trẻ nghèo hèn nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn sót lại, cái người
ta vứt trên nền chợ đã làm Liên động lòng thương, Liên rất muốn giúp đỡ chúng nhưng
chính chị cũng không có tiền kia mà ! Cái nghèo cái đói đã cướp đi ba dự định tốt đẹp


vốn có tính truyền thống “lá lành đùm lá rách” của đạo lí Việt Nam. Và ở đâu đấy còn
biết bao hình ảnh thương tâm khác đang diễn ra tương tự trong âm thầm lặng lẽ.
Đó là mẹ con chị Tí dọn hàng để rồi thu xếp hàng về vì chẳng có ai buồn ghé lại
uống cho chị vài bát nước. Chị vẫn ngồi đó, ngồi để làm bạn với lũ ruồi, ngồi để hi vọng
về một điều gì. Bác phở Siêu cũng vậy, ở xứ sở mà người ta chỉ dám mua ½ bánh xà
phòng thì hàng của bác quả là 1 thứ xa xỉ chả ai dám mò đến…Họa chăng người ta chỉ
nhắc đến nó với niềm tiếc rẻ về 1 kỉ niệm xa xôi…Qua giọng văn miêu tả ta cũng thấy rõ
sự ế ẩm chán nản mòn mỏi nơi phố huyện về đêm. Có lẽ hình ảnh đau lòng hơn cả là gia
đình bác xẩm mù bên manh chiếu rách. Thời buổi người ta ko còn lòng thương để lo cho
cho chình mình thì làm sao bác xẩm có thể khơi gợi lòng thương từ người khác ? bác sờ
sẫm cuộc đời mình trong bóng tối ? có lẽ mọi bế tắc của cuộc đời đều dồn về với bác, bác
không thấy ánh sáng bình thường cuộc đời và bất hạnh hơn khi trông thấy được tương lai
phía trước. Rồi lại đột ngột xuất hiện tiếng cười trong chuyện một kiểu Chí Phèo thứ 2.
Đó là bà cụ hơi điên tên Thi, một cuộc đời vô cị ko nghĩa lí cũng tiếng cười man rợ. Đó là
cả cuộc sống bế tắc hoàn toàn ko vui buồn hờn giận. Cả phố huyện dường như bị tê liệt
hay mắc chứng bệnh tự kỉ. Chị em Liên cũng vậy hết dọn hàng rồi lại kiểm hàng mà
quanh đi quẩn lại chỉ mấy bánh xà phòng mấy món vặt cũng tạo thành “gian hàng” của
chị. Chính sự lặp lại nhàm chán ấy làm cho họ không màng suy nghĩ không màng trò
chuyện với nhau. Chợ huyện lạ thật , họ chỉ hỏi nhau và trả lời theo quán tình vì có
chuyện gì đâu để nó với nhau. Quanh đi quẩn lại thì vẫn:
- sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ?
- cô chưa dọn hàng à ?
Rồi những câu trả lời dường như được sắp xếp sẵn, có khi vừa hỏi thì nó đã bật ra
tiếng cười trả lời :


“ối chao sớm với muộn mà có ăn thua gì”.
Cuộc sống của họ như mòn đi. Mẫu đối thoại rời rạc, câu trả lời nhiều lúc giật
mình ta mới nhận thấy người ta nói để có chuyện chứng tỏ mọi người đã hiểu nhau và ko
còn gì để nó với nhau. Cuộc sống cô đọng, khép kín và nhạt nhẽo đến lạ lùng - dường

như sự băng hoại sắp sửa gặm nhắm ấy nếu họ ko có 1 thứ đó là lòng tin, niềm hi vọng.
Phải, dù trong lòng đêm heo hút hay bán buôn ế ẩm nhưng họ vẫn tin tưởng vào 1
điều gì đó dù rất mơ hồ. Khi con người ta gặp nhiều đau khổ thì cần có 1 niềm tin để
sống cần phải hi vọng dù đang thất vọng.


BÀI SỐ 2:

Trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám. Thạch Lam là một cây bút
xuất sắc đa tài năng. Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút trong tập Nắng trong vườn (1938) là
một tác phẩm tiêu biểu của ông. Với cách viết giàu chất lãng mạn, truyện như một bài thơ
trữ tình đượm buồn nhưng đầy cá tính nhân văn. Trong mỗi tác phẩm truyện kể, ngoài
yếu tố nhân vật còn phải kể đến một yếu tố khác, đó là hoàn cảnh. Xây dựng hoàn cảnh,
tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa nhân vật và môi trường xã hội mà nhân vật đó
đang sống. Sự tác hợp giữa hoàn cảnh và nhân vật sẽ tạo nên chất keo kết dính các chi
tiết và nhờ vậy nội dung tác phẩm trở nên liền mạch, nghệ thuật của tác phẩm đó sẽ hoàn
chỉnh hơn. Đó là một trong những yêu cầu bắt buộc không chì của văn học hiện thực
(Hoàn cảnh sinh tính cách).
Nhà văn Thạch Lam mở đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ bằng những hình ảnh vào
thời khắc của một ngày sắp tàn. Vào thời điểm đó cảnh vật của phố huyện nghèo hiện ra
xơ xác, tiêu điều, với những con người mỏi mệt quẩn quanh nơi phố chợ. Cùng xuất hiện
với những gì tàn tạ nhất ở phố huyện đó là nhân vật Liên và An. Qua cái cảm nhận của
hai tâm hồn ngây thơ ấy, mọi cảnh vật được hiện lên một cách chi tiết và chân thực nhất.
Nhưng trước hết, cái cảnh chiều tàn nhưng vẫn được nhà văn miêu tả đậm chất
thơ. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cất hình rõ rệt trên nền trời... Một chiều êm ả như
ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”.
Bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn ở trong đó cả một nỗi buồn mà người vẽ lên đã cố
ý che lấp bằng những mảng màu sặc sỡ. Sở dĩ phải miêu tả cảnh vật ấy. Thạch Lam như
muốn giúp người ta đi tìm chút cảm giác nhẹ nhõm sau những trăn trở của cuộc đời. Văn

Thạch Lam bao giờ cũng giàu cảm xúc để rồi khiến người đọc như chìm vào cõi mộng
của một bài thơ tình lãng mạn. Từng câu chữ cứ nhè nhẹ lan thâm vào lòng người trong
cảm giác say mê. Có người nhận xét văn Thạch Lam vừa chứa chất hiện thực vừa giàu


tính lãng mạn. Ý kiến đó rất phù hợp khi nói về truyện ngắn Hai đứa trẻ, bởi vì trong
truyện ngắn này hiện thực của cuộc sống tủi buồn, mòn mỏi luôn vây hãm lấy những con
người sống chung trong phố huyện, ở đây gọi là phố huyện nhưng thực chất mới chỉ là
cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cùng mất.
Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi
nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi
riêng của đất của quê hương này...”.
Chỉ cần nhìn vào cái chợ tiêu điều này cũng có thể thấy cuộc sống của người dân
khổ cực thế nào? Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như
thế trao lại cho nhau những nỗi buồn tẻ cuộc sống, ống kính tác giả không quên ghi lấy
hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo, đang mưu kế sinh nhai bằng những phế phẩm của
phiên chợ. Những số phận ấy “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt
nhạnh thanh nứa, thanh tre hay hất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng
để lại”. Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho
chúng nó. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn khổ. Tất cả nhưng đang cố sức để
tống hi vọng. Sự cố gắng thì đã quá sức, còn hi vọng thì vẫn mơ màng".
Ở truyện ngắn này, các nhân vật đều đang tìm cách cầm cự trong cuộc sông hiện
tại. Chị Tí với hàng nước bên cái móc gạch nhưng không biết bán cho ai. Khá hơn đôi
chút là hàng bác phở Siêu, nhưng đó cũng chỉ hé lên một mảng ánh sáng đèn dầu leo lét.
Thế mà với cuộc sống ở phố huyện nghèo này thì hàng của bác vẫn là một thứ “xa xỉ”.
Cảnh của phố huyện thật là tiêu điều xơ xác. Cuộc sống của những con người ở đó
thì mòn mỏi, nặng nề. Mọi hoạt động như để chống chọi lại với sự nghèo nàn khốn khó
nhưng tất cả chỉ lâm vào bế tắc. Hoàn cảnh đó thường sản sinh ra những con người quái
đản, đó là bà cụ Thi “hơi điên”, với tiếng cười khanh khách đi vào bóng đêm. Cụ Thi
điên là chứng tích của sự sa sút về cuộc sống, một biểu hiện tiêu biểu cho quá trình tìm

tòi lối thoát trong tuyệt vọng. Sự xuất hiện của nhân vật cụ Thi “hơi điên” càng làm cho
nhân vật truyện ngắn Hai đứa trẻ thêm cụ thể, sinh động, tạo cho bức tranh cuộc sống trở
nên ngột ngạt. Cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một


góc thu nhỏ của xã hội cũ. Ở đó những số phận con người được hiện lên rõ ràng nhất. Tất
cả tập hợp lại trong một không gian chật hẹp và tăm tối.
Thông qua phần đầu của truyện, nhà văn Thạch Lam đã tái hiện lại bối cảnh cuộc
sống của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bằng việc phác họa cảnh phố huyện
ngày tàn, truyện ngắn Hai đứa trẻ đã chứng tỏ nhà văn am hiểu sâu sắc cuộc sống tù túng
của người nông dân lao động đồng thời lên tiếng bảo vệ quyền sống và sự công bằng cho
xã hội thời bấy giờ. Với bút pháp tả cảnh đạt đến chuẩn mực truyện mang âm hưởng của
một bài thơ trữ trình nhưng gợi cảm xúc buồn man mác. Nghệ thuật miêu tả cộng với
niềm cảm hứng lãng mạn được tác giả sử dụng đã đưa truyện ngắn này xứng đáng với
những tác phẩm xuất sắc cùng thời.
Đáng quý là trong cái cảnh chiều tàn ấy, tình cảm con người vẫn còn chưa tàn tạ.
Dù không khấm khá hơn, nhưng Liên vẫn mong có tiền để đưa cho những đứa trẻ lam lũ
đang tìm kiếm những vật rơi rớt lại sau phiên chợ tiêu điều. Liên không chỉ thương mình
và An mà còn hướng đến cả bao số phận cơ cực khác. Tất cả những con người trong phố
huyện này, từ mẹ con chị Tí, ngày nào cũng như ngày nào quẩn quanh với những công
việc chẳng có gì khác là ban ngày đi bắt tép, tối về dọn quán bán nước cho mấy chú lính
tuần, cho đến hàng phở Siêu leo lét ngọn đèn dầu, bà cụ Thi “hai điên” với tiếng cười
khanh khách... Tất cả chi nói lên cái mòn mỏi của cuộc sông nơi phố huyện mà chưa phải
là những gì tha hóa, khiến con người phải độc ác.


BÀI SỐ 3:

Thạch Lam không phải là nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao hay Ngô Tất
Tố, nên ngòi bút của ông không khai thác cái trần trụi của cuộc đời lam lũ. Mặc dù thế,

trong các bài thơ rất đỗi tinh tế là truyện ngắn Hai đứa trẻ này, Thạch Lam đã gián tiếp
phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột thở, tù đọng, trong đó, cuộc sống con người đang mất
hết ý nghĩa, đang bị dồn đến chân tường bế tắc. Và từ thực tế ấy, tác giả đã chuẩn bị cho
đoạn tiếp theo miêu tả cái khát vọng được đi xa, mơ hồ, kín đáo trong hình ảnh chuyến
tàu đêm với tâm trạng háo hức của hai đứa trẻ.
Hai đứa trẻ in trong tập “Nắng trong vườn” cũng giống như một số truyện ngắn
khác của Thạch Lam, hai đứa trẻ bề ngoài như chẳng có gì đáng chú ý nhưng đi sâu vào
bên trong, nơi sâu kín của tâm hồn thì mảnh đời nào cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương
cảm. Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác. Tiếng là phố huyện
nhưng chỉ là huyện nhỏ. Cảnh phố huyện hiện ra từ cái chòi canh lẫn vào lũy tre làng
đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng “sắp tàn”, cánh đồng đầy ắp “tiếng ếch nhái
kêu ran”. Cửa hàng bé xíu của chị em Liên “muỗi bay vo ve”, chợ phố huyện đã vãn.
Bây nhiêu chi tiết đều nhằm vào cái thế giới thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban
ngày và cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng ngày càng mạnh mẽ của những cảnh đêm, trong đó
bóng tối sẽ ngự trị cảnh vật, ngự trị tâm hồn cả con người và cuộc đời.
Tác giả đã lựa chọn những âm thanh, hình ảnh, màu sắc độc đáo vẽ nên cảnh chiều
tàn ở phố huyện xa xôi, hẻo lánh, tiêu điều, xơ xác và sự sống gần như tàn lụi. Lúc còn
tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã “lên đèn” nhưng những nguồn sáng ấy không đủ xua
tan bóng tối khiến những hòn đá nhỏ vẫn còn “một bên sáng, một bên tối”. Có ánh sáng
của ngàn vì sao lấp lánh, ánh sáng của ngọn đèn, ánh sáng lập lòe của bếp lửa bác Siêu.
Những nguồn sáng này không xua tan được bóng tối mà còn làm nền tăng thêm bóng tối,
bóng tối trở nên dày thêm, làm cho phố huyện bị bao trùm ở bóng tối. Cảnh phố huyện về
đêm êm ắng, mát mẻ, đêm ngập tràn bóng tối “Đường phố và ngõ ngập tràn bóng tối và


tối cả con đường ra sông, các ngõ vào làng đen sẫm”. Chiếc đèn ghi nhà ga thì “xanh
biếc như đóm lửa ma trơi” trong khi xung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một
bóng tối dày đặc, đen nghịt, mênh mông vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ
làm cho bóng tối thêm tăm tối, âm u. Trong cảnh xơ xác, tiêu điều và ngập tràn bóng tối
ấy là những cuộc đời bóng tối. “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước

hết đó là bức tranh đời sống. Bức tranh đời sống chân thật và thấm đượm cảm xúc trữ
tình của nhà văn đã gây nên cảm giác buồn thương, day dứt trong lòng người đọc.
Ngay từ lúc ngày còn nhá nhem, phiên chợ đã vãn. Bóng tối chưa sụp xuống mà
cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ “lom khom nhặt
nhạnh những gì người ta vứt lại”. Đây là cuộc sống của những người không có tương lai,
không có hy vọng. Cuộc đời của chúng quá nghèo khổ. Mẹ con chị Tí ngày mò cua, tối
lại dọn gian hàng nước ra. Chị Tí nóng lòng trước cảnh hàng ế ẩm: “Giờ muộn thế này
mà họ chưa ra nhỉ?”. Dù rằng chị đã biết trước : “Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua
gì?” Nói ra một cách ngẫu nhiên mà lại hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị: đã
cơ cực lại còn chỉ trông chờ vào sự may rủi, một sự trông chờ cầm chắc là vô vọng. Cái
nghèo cái khổ đã đè nặng lên gia đình chị Tí mà không sao thoát được.
Gia đình bác Xẩm lại cơ cực hơ, tối tăm hơn. Bác Xẩm ngồi ngay trên chiếc chiếu
rách, thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng chổng trơ trước mặt, tất
cả im lìm, ngoài mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện rồi sau đó không khách,
không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên mặt đất. Bà cụ Thi hơi điên đi dần vào
trong bóng tối gợi lên một nỗi buồn xót xa đến tê tái trong lòng. Bếp lửa của bác Siêu chỉ
là “một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối”, mất đó rồi hiện đó, chỉ làm cho
bóng bác thêm mênh mang đen tối. Nhưng tội nghiệp nhất vẫn là Liên, An. Hai chị em đã
từ giã nơi phồn vinh, nhộn nhịp để đến nơi nghèo nàn, xơ xác, hẻo lánh. Vào ngày chợ
phiên, hai đứa bé không bán được gì.
Cuộc sống của người dân phố huyện nghèo khó buồn tẻ, héo hắt với những con
người lam lũ sống trong bế tắc, quẩn quanh trong cái nghèo túng. Thế nhưng họ không
lụi tàn. Thạch Lam vẫn để cho họ một niềm hy vọng: hằng ngày họ đều chờ đợi tàu chạy


qua phố huyện. Con tàu như con thoi ánh sáng, mang lại ánh sáng làm cho phố huyện
sáng rực lên dù chỉ một ít. Đem lại cho phố huyện một sức sống mới. Âm thanh, tiếng
cười nói của hành khách mang đến cho phố huyện một chút náo nhiệt.



BÀI SỐ 4:

Chiều xuống, “mắt Liên ngập đầy dần bóng tối” thể hiện tâm trạng buồn nhưng
không hiểu. Cảnh chiều tàn và cuộc sống tối tăm của người dân phố huyện đã gợi lên một
nỗi buồn thấm thía trong lòng Liên. Liên nhìn lũ trẻ nghèo bới rác, nhặt nhạnh mà động
lòng thương, thế nhưng chính chị cũng không có tiền để giúp cho chúng. Liên xót xa
trước cảnh nghèo, chính cái nghèo đã cướp đi một phần tuổi thơ của Liên. Liên chán
ngán trước cuộc sống hiện thực. Tâm trạng muốn trốn tránh, muốn quên đi hiện thực.
Tác giả mô tả chân dung cuộc sống thật đáng thương của hai chị em, qua đó cho ta
thấy niềm vui và khát khao cuộc sống của hai chị em vẫn chưa hoàn toàn dập tắt, vẫn còn
tồn tại dù chỉ nhỏ nhoi.
Tàu sắp đến, dường như ai cũng tỉnh hẳn dậy. Liên cũng dắt em đứng dậy để nhìn
cho rõ. Tàu lướt qua, chỉ thấy cái “toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố
nhố người, đồng và kền lấp lánh”. Rồi tàu lại đi vào đêm tối, cho đến khi “chiếc đèn
xanh ở toa sau cùng xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Tàu đến với ánh sáng, tiếng ồn, tàu
đi với chiếc đèn đuôi khuất dần. Với chị em Liên, đó vừa là ký ức vui tươi vừa là ước
vọng mơ hồ mà đẹp đẽ như trong truyện cổ tích, nhưng chẳng khác gì một ảo ảnh, vụt
sáng rồi chợt qua ngay, xa dần, nhỏ dần, tắt dần như một sự nuối tiếc. Ấy là vì chị em
Liên đã biết qua một chút cảnh sống bình thường nhưng có hạnh phúc. Còn đối với đám
người nghèo khổ kia thì đó chỉ là cảnh sống của một thế giới thần tiên, mơ hồ, xa lạ
nhưng đêm đêm lại hiện ra như một giấc mộng đẹp, một ước mơ xa xôi chẳng bao giờ
thành hiện thực, nhưng vẫn có gì như một niềm an ủi chốc lát cho cảnh đời cơ cực của
họ. Và chuyến tàu đêm vẫn là một hình ảnh lạ lạ, vui vui, ít nhất cũng gây được một chút
lãng quên cần thiết để họ đi vào giấc ngủ đầy bóng tối nhưng yên bình. Thể hiện tâm
trạng đợi tàu của chị em Liên, tác giả bày tỏ niềm thông cảm và xót thương với những
kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc và ánh sáng. Sống mòn mỏi trong cơ cực


triền miên, số phận họ bị đè nặng bởi sự túng quẫn về vật chất, nghèo nàn về tinh thần.
Ước mơ của những con người ấy chẳng qua như một chuyến tàu đêm ngang qua phố

huyện xơ xác ngập đầy bóng tối, vụt lóe lên rồi vụt biến mất vào bóng tối.
“Hai đứa trẻ” là truyện ngắn khá thành công của Thạch Lam. Với lời văn nhẹ
nhàng, cảm xúc tinh tế và ngôn ngữ giàu hình ảnh, tác giả đã vẽ lên một bức tranh khá
chân thật về cuộc sống của người dân ở một nơi phố huyện xa xôi, hẻo lánh. Qua đó tác
giả cũng bộc lộ niềm cảm thông đau đớn và chua xót đối với cuộc sống tối tăm và ước
vọng mơ hồ của tuổi thơ và đó cũng chính là cuộc sống của tuổi thơ Việt Nam trong xã
hội đen tối bấy giờ. Truyện cũng làm bật lên tinh nhân văn cao cả của nhà văn Thạch
Lam.



×