Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Những bài văn bài hai đứa trẻ thạch lam ngữ văn 11 (8)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.45 KB, 3 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
BÀI VĂN MẪU “NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN HAI ĐỨA TRẺ”

BÀI LÀM:

1. Giá trị nghệ thuật
a.Cốt truyện: HĐT là kiểu truyện dường như không có cốt truyện, cốt truyện
khộng dựa trên những sự kiện, tình tiết mà dựa trên những diễn biến tâm trạng của nhân
vật.
b. Về nhân vật: Không chú ý miêu tả ngoại hình và hành động mà quan tâm tới đời
sống nội tâm, đời sống tình cảm.
c. Về miêu tả cành: Cảnh vật được miêu tả tinh tế với những hình ảnh, mầu sắc,
âm thanh, mùi vị hòa quện vào nhau gợi cái hồn riêng của quê hương VN xưa. Đặc biệt
hình ảnh bóng tối được gợi đi, gợi lại như một mô típ đầy ám ảnh. Cảnh lại được cảm
nhận qua cái nhìn tâm trạng của nhân vật Liên: “Liên thấy”, “Liên mải nhìn”, “Liên nhớ
lại”, “Liên tưởng”,” Liên lặng theo”.
Liên là thiếu nữ mới lớn, dịu hiền nhân hậu và đa cảm. Điều này có ý nghĩa đặc
biệt vì nó làm cho cảnh vật thấm đượm cảm xúc, làm cho cảnh vật vốn đơn sơ, tẻ nhạt
vẫn mang cai thi vị riêng của nó, làm cho TG được lạ hóa qua cảm tưởng, qua cảm giác
của HĐT. Tương xứng với khung cảnh là tâm trạng và cảm xúc của nhân vật L như
những nấc thanh tâm lí: L man mác buồn thương trước cảnh chiều tàn, L buồn khắc khoải
và thấm thía hơn khi bóng đêm khi bóng đêm buông xuống, L buồn nuối tiếc, ngơ ngẩn
mơ tưởng khát khao khi đoàn tầu đi qua. Cách miêu tả đoàn tầu từ xa đến gần, quan sát
bằng nhiều giác quan: thính giác, thị giác và bằng nhiều sắc thái cảm giác: hồi ức, thực
tại, tương lai.


Hình ảnh đoàn tầu tương phản với các cảnh vật nơi phố huyện càng thấm thìa
niềm mong ước khiêm nhường mà trong sáng, tốt đẹp. Một nét tâm lí rất thật, rất điển
hình của những người dân quanh quẩn nơi thôn quê nghèo xưa mà cuộc sống bị trim


khuất, mỏi mòn trong tăm tối.
d. Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ truyện giầu cảm xúc, giọng văn điềm tĩnh, nhẹ nhàng
như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức gợi và khơi sâu và cảm xúc người đọc. Nó như
một thứ thơ bằng văn xuôi.
2. Nội dung tư tưởng:
a. Thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
– Giá trị hiện thực:
+ Truyện là một bức tranh chân thực và đượm buồn về một miền đất, một miền
đời bị lãng quên: Một phố huyện nghèo xa vắng với phiên chợ nghèo xơ xác, tiêu điều;
những ngọn đèn tù mù như đang lụi dần; những kiếp đời lụi tàn như mẹ con chị Tí,
những đứa trẻ nghèo, gia đình bác Xẩm, bà cụ Thi điên và HĐT. Họ sống nghèo khổ, tăm
tối như trim trong cái ao đời tù túng .Những cảnh vật qua ngòi bút của TL lại gợi cảm vô
cùng.
+ Ngòi bút hiện thực của TL đậm chất trữ tình. TL đã viết bằng chính kí ức tuổi ấu
thơ của mình gắn với phố huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Mỗi chi tiết, hình ảnh đều
chân thật, xúc động vô cùng.
– Giá trị nhân đạo:
+ Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của nhà văn dành cho nhưng con
người nhỏ bé, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ. Ở mảnh đất đó, những số phận con
người sống trong tăm tối, không biết tới niềm vui và hạnh phúc, họ cũng ước mơ nhưng
ước mơ của họ thật nhỏ nhoi, tội nghiệp. Ước mơ chỉ là nhìn thấy con tầu qua phố huyện
trong giây lát rồi phố huyện lại trim vào bóng tối. TL không chỉ thấu hiểu, thương cảm
mà còn rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh: những con người bé nhỏ, thiệt thòi dễ bị XH


lãng quên và vùi lấp trong tăm tối, xã hội cần quan tâm đến họ. Họ có thể vô danh nhưng
đừng để họ trở thành vô nghĩa.
+ Truyện khẳng định, đề cao ước mơ hạnh phúc, khát vọng đổi đời của con người.
Thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến với người đọc là tư tưởng nhân đạo sâu sắc này:
Những con người phố huyện đêm đêm thức chờ đoàn tầu để được sống trong không khí

sôi động và luồng ánh sáng rực rỡ. Dù con tầu chỉ xuất hiện trong giây lát nhưng cũng đủ
khuấy lên một niềm mơ ước. HĐT thật đáng thương mà cũng thật đáng trọng: chúng
đáng thường vì chúng như hai mầm cây mới lớn mà đã còi cọc trên mảnh đất khô cằn;
chúng đáng trọng vì những mầm cây còi cọc ấy vẫn cố vươn lên, vẫn hi vọng đươm hoa,
kết trái. Truyện HĐT đã đem đến trong lòng người đọc khát vọng yêu thương và tin
tưởng vào cuộc sống.
+ HĐT còn là bước phát triển của tư tưởng nhân đạo của văn học 1930 – 1945. Đó
là sự thức tỉnh ý thức cá nhân (VD Tỏa nhị
Kiều – Xuân Diệu; Đời thừa – Nam Cao). HĐT đã tiếp tục tư tưởng nhân đạo này
để bênh vực cho quyền sống tốt đẹp của những con người bé nhỏ, thiệt thòi.
=> HĐT đã chứa đựng cái tâm, cái tài của nhà văn lãng mạn TL dành cho đồng
bào, quê hương, đất nước mình.



×