Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những bài văn bài hai đứa trẻ thạch lam ngữ văn 11 (10)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.3 KB, 20 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
BÀI VĂN MẪU “NHỮNG LIÊN HỆ GIỮA TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ
CỦA THẠCH LAM VỚI NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC”

Đề số 1: Ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và "Hai đứa trẻ"

Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn
tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ
pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp
nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác
phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và
bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác
hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác
giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi
người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những
thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.
Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và
Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng
không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng
về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú
chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người
chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm
như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực,
như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính
vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa


một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy
luật tất yếu.
“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện


chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính
cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét
chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế
giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di
dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân
cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con
người này.
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên
không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối,
"quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e
dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số
phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị
cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù
nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo
lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa,
trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi
so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối
ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào,
dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin
của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót
lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và
những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.
Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của
mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng
kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi


vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít
vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp
thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"(3).

Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm
trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân
đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi
băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một
không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí
có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để
rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử
đẹp.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp
vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật
bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác
động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa
một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập
của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công
việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con
người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một
nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông
bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn
Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm
hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống
cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của
ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt
truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách
riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.


Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính
trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối
được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi

tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ
thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan
xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp
nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền
trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm
chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số
phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng
tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời
điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của
ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt
qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật
vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến
họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để
hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời
buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải.
Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc
đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố
huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của
khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố
huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu
trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn
điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi
buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội,


một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về
một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6).
Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của
những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới

thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội
tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm
khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi
thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng
của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam
trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù
và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh
sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng
tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ
sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên
quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh
chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành
nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn
Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật
văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp,
một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là
ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết
thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với
cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là
nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác
trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa
trẻ của Thạch Lam.


Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn
quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại
ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét,
những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b)
Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c)

Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh
sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị).
Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng,
biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao,
cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây
dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả
những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ
pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến
thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái
bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm
của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương
nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây
dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai
tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng
tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà
văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của
tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà
bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của
tác phẩm văn chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị1.


Đề số 2: Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù (Nguyễn
Tuân) và Hai đứa trẻ (Thạch Lam).

Một tác phẩm hay không chỉ cần có nội dung hấp dẫn mà còn cần đến những đặc
sắc nghệ thuật nhất định. Có thể nói rằng có những đặc sắc nghệ thuật đã mang đến thành
công và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Ngoài cốt truyện hấp dẫn bất ngờ, chi tiết nghệ thuật
mang những ý nghĩa sâu sa, những ngôn ngữ đậm chất vùng miền nào đó thì còn nhiều

nghệ thuật khác nữa. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ cũng vậy. Hai tác
phẩm có những đặc sắc nghệ thuật khác nhau thế nhưng nghệ thuật chung mà cả hai tác
phẩm cùng có đó chính là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối.
Trước hết nghệ thuật đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm chữ người tử tù. Như
chúng ta đã biết thì nghệ thuật này được sử dụng thành công trong đoạn miêu tả cảnh
Huấn Cao cho viên quan ngục chữ. chính nghệ thuật này đã mang lại những giá trị biểu
đạt nôi dung của cảnh tượng đó và cũng có lẽ thế mà cảnh tượng ấy được xem là cảnh
tượng chưa từng có. Đầu tiên là ánh sáng trong đoạn ấy. có thể nói trong cảnh cho chữ ấy
ánh sáng duy nhất chỉ có một ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng ấy không thể rực
rỡ mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ mà viết chữ tặng quản ngục mà thôi. Thật vậy,
nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả thật chính xác cái ánh sáng ấy. ba con người chụm lại
bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ.
Thế mà bóng tối thì lại dày đặc, dường như ở đây không chỉ có sự tương phản giữa
không gian cho chữ và không gian nhà tù, giữa người cho chữ và người nhận chữ thái độ
của họ mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta không thể nào quên được
cái không gian bóng tối bao chùm ấy. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm thấp
và ghê gớm. thế nhưng cái đẹp đã thăng hoa lấn át tất cả những điều đó. Lấy bóng tối để
làm nên cho ánh sáng ấy Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi


những “bản nhạc xô bồ” của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên
quan ngục.
Tiếp theo nghệ thuật đó cũng được thể hiện rất rõ trong tác phẩm hai đứa trẻ của
nhà văn Thạch Lam. Có thể nói rằng qua những miêu tả của Thạch Lam chúng ta thấy
được rõ nghệ thuật ấy nhất là cảnh chợ tàn. Hình ảnh của phố huyện trong tác phẩm hiện
lên như một miền quê bị lãng quê hình ảnh những cảnh chiều buông xuống gợi lên sự rơi
rụng tàn tạ. Không chỉ thế mà khi nó về đêm khi những phiên chợ ồn ào kết thúc thì nó
lại càng tàn tạ hơn. Nghệ thuật lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối của Thạch Lam vô cùng
thành công trong việc biểu đạt nội dung. Nhà văn tài ở chỗ nói ánh sáng nhiều hơn nhưng
người đọc vẫn thấy được sự dày đặc của bóng. Ánh sáng được nói đến như là hạt sáng,

khe sáng, quầng sáng, bầu tròi hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, ánh sáng từ ngọn
đèn Liên, hột sáng từ những ngọn đèn chị Tý thế nhưng nó không thể nào đấu lại nhưng
bóng tối kia khi mà Thạch Lam chỉ dành cho nó có mấy câu văn. “Tối hết cả”, tối đường
từ nhà ra ngõ đều thăm thẳm đen xì, có thể thấy rằng đó chính là lấy cái ít để nói cái
nhiều. Trong tác phẩm này còn sử dụng nghệ thuật miêu tả bóng tối, ánh sáng ở đoạn
cuối khi tàu đêm đến. Đó là ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp, rồi ánh
sáng rực trên những khoa hạng sang nhất lố nhố những người. Thế rồi khi ánh sáng ấy
qua đi chỉ còn nhìn thấy đốm lửa hồng thì phố huyện lại ngập tràn trong bóng tối.
Có thể nói chính nghệ thuật ấy là hình thức cao hóa biểu thị nội dung của tác
phẩm. Cả hai tác phẩm trên đều dùng ánh sáng và bóng tối để nói lên ý nghĩa của nội
dung đó. Nếu như cảnh cho chữ diễn ra trong những ánh sáng bóng tối ấy nhằm nói lên
sự thăng hoa của cái đẹp và sự gần gũi nhau của con người thì hai đứa trẻ sử dụng nghệ
thuật ấy để nói lên sự tối tăm của cuộc sống nơi phố huyện. hay đó chính là sự nghèo đói
lam lũ khổ cực, sự cầm cự sống của những con người nơi đây. Tuy nhiên hai nhà văn, hai
cách sử dụng nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích để nói lên những ý nghĩ của mình.
Trước hết là Nguyễn Tuân thì ở đây ông đã nói đến bóng tối nhiều hơn để cho
thấy được sự tỏa sáng của ngọn đuốc kia dẫu cho nó chỉ là một nguồn ánh sáng. Bóng tối
kia dù dày đặc nhưng lại không thể nào che lấp được ánh sáng kia. Đồng thời miêu tả như


thế nhà văn muốn gửi đến ý nghĩa của cảnh tượng ấy là cái đẹp thăng hoa dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng như con người xóa bỏ mọi ranh giới tăm tối để xích lại gần nhau
hơn.
Còn Thạch Lam thì lại khác. Ông miêu tả ánh sáng nhiều hơn là bóng tối, nào khe
sáng, hột sáng…bóng tối chỉ được diễn tả trong một hai câu văn. Thế nhưng chúng ta lại
thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn đó chính là làm nổi bật bóng tối để cho thấy sự tối
tăm đói nghèo của những con người nơi đây. Qua đây ta khẳng định được một điều tác
phẩm văn học hay thì thường có những nghệ thuật đặc sắc. Hai đứa trẻ và chữ người tử tù
chính vì thế mà rất xứng đáng là một tác phẩm hay. Đồng thời hai nhà văn đó xứng đáng
là một nhà văn giỏi.



Đề số 3: Phân tích yếu tố ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm "chữ người tử tù"
(Nguyễn Tuân) và "hai đứa trẻ" (Thạch Lam)

Ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và"Hai đứa trẻ" Ánh sáng và bóng
tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ
sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để
khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống. Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối
cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải
nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai
đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật
nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết
phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng
văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn
toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm
phong cách cá nhân của tác giả. Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái
đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và
bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn
đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời.
Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của
người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người
tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song
trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và
bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như
ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương
liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu.
“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ
viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách,
tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ,



người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế giới
nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng
tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí
phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người
này. Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không
gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ"
và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ,
nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những
con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân
cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân
sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa
bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một
"ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ
màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả
muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói
nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con
người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng.
Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người
đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng
luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng
cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh
quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng
ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây
trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là
"đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa
râm, râu đã ngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm
hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và
xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng



tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục
được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy
trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành
giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến
một thái độ ứng xử đẹp. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt
nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường,
khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu.
Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng
một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng
lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của
cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới
hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi
lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con
người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi
cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút
ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác
giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết
- ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi
cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong
cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai
đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch
Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây
dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác
phẩm. Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ
thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan
xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp



nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền
trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm
chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số
phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng
tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời
điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của
ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt
qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật
vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến
họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để
hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời
buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. Hình
tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều
ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn
bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố
huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi
chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và
vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố
huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không
còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu
cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác
với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). Ánh sáng từ đoàn
tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây
thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình
tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp
của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị
của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và
những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được



nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những
truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù
và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh
sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng
tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ
sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên
quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh
chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành
nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn
Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật
văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp,
một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là
ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết
thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với
cái xấu cái ác.
Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống
với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc
sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của
Thạch Lam. Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng,
quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba
loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét,
những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b)
Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c)
Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh
sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị).
Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng,
biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.



Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao,
cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây
dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả
những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ
pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến
thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái
bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm
của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ. Chính từ tính quy phạm của ánh sáng
và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả
thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một
tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau
trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn
văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm.
Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp
cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài
mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn chương khiến nó luôn mới mẻ,
lấp lánh nhiều giá trị.


Đề số 4: Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng trong Chữ người tử tù – Hai đứa trẻ Vợ nhặt – Vợ chồng A Phủ.

Nếu khảo sát những hiện tượng đối lập trong cuộc sống, thì có lẽ hai hình ảnh
“bóng tối” và “ánh sáng” sẽ thường được người ta nghĩ đến. Chúng là một trong số
những cặp đối kháng rất “khó chịu”. Chúng gợi liên tưởng đến những cặp đối lập khác,
như ngày và đêm, như sự thanh khiết và thấp hèn, sự khoáng đạt và gò bó... Quan hệ giữa
chúng là một sự tương phản “không đội trời chung”. Giả sử bên kia bán cầu, ánh sáng
ngự trị thì chắc chắn ở nửa còn lại, bóng tối sẽ bao trùm. Muốn xua đuổi bóng tối, hãy
mang một ngọn đèn đến. Và nếu muốn ánh sáng bị khuất lấp, hãy che kín không gian lại

trong sự tối tăm. Nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực. Những hiện tượng vốn dĩ đã quen
thuộc trong hiện thực sẽ được kết hợp với bàn tay nhào nặn của người nghệ sĩ để gợi nên
ý nghĩa sâu xa. Sự tương phản vốn có giữa “bóng tối” và “ánh sáng” trong đời thật chẳng
những không nằm ngoài quy luật đó, mà nó còn là tiền đề cho nhiều suy ngẫm mang tính
triết lí đã được nhiều tác giả văn học mang vào trang viết của mình.
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, chúng ta bắt gặp thứ ánh sáng leo lét, èo uột, nhỏ
bé, yếu ớt… phát ra bằng hình hài của những “hạt ánh sáng”, những “khe ánh sáng”,
những “hột sáng”… le lói, dật dờ trong không gian. Đó là cái “quầng sáng thân mật”
xung quanh ngọn đèn dầu ở hàng nước chị Tý. Đó là tia sáng xuyên qua khe hở từ cái
tiêm tạp hóa nhỏ xíu, ọp ẹp của hai chị em Liên. Ánh sáng cũng tỏa ra từ gánh hàng phở
“xa xỉ” của gia đình bác Siêu. Ánh sáng của thiên nhiên cũng thoắt ẩn thoắt hiện từ bầy
đom đóm bay trong đêm. Và ánh sáng cũng đến từ những ngôi sao xa xôi, lấp lánh trên
bầu trời. Ánh sáng trong Hai đứa trẻ không phải là ít. Nó rất nhiều. Nhưng Thạch Lam lại
miêu tả nó ở mức độ thu nhỏ tối đa. Quả thật, ánh sáng có tồn tại nhưng không đủ để có
thể xua đi đêm tối. Vì đêm tối quá dày. “Tối hết cả, tối con đường từ ngõ ra sông, tối con
đường qua chợ về làng”. Bà cụ Thi cũng mang tiếng cười khanh khách của mình “đi dần
vào bóng tối”. Không gian chìm vào một “đêm mùa hạ êm như nhung”, “đường phố và
các ngõ con lấp đầy bóng tối”. Ở đây không chỉ là sự đối lập sáng – tối, mà chúng ta còn


nhận thấy sự đối lập rõ ràng giữa cái ít ỏi hạn hẹp với cái bao la vô cùng. Ánh sáng ít ỏi
bao nhiêu thì bóng tối lại vô cùng bấy nhiêu.
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, sự đối lập ấy lại xuất hiện. Vào cái đêm Huấn
Cao cho chữ viên quản ngục, người ta cũng bắt gặp một “cảnh tượng xưa nay chưa từng
có”. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, tự tại, dậm tô
“những nét chữ trên tấm lụa bạch trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ”. Trong khi đó, thầy
thơ lại, viên quản ngục, vốn là đại diện cho nhà lao phong kiến, lại “khúm núm, run run”
trước sự uy nghiêm của con người sáng tạo cái đẹp: Huấn Cao. Nhưng nói thế thôi chưa
đủ. Ta còn thấy, giữa chốn nhà lao bẩn thỉu, “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân
chuột phân gián”, trong cái không gian tối tăm của bốn bức tường giam, vào một đêm

cuối cùng ngột ngạt dễ dẫn đến cảm giác bức bối khi biết trước rằng… chỉ ngày mai nữa
thôi mình sẽ phải chịu án chém, người tù Huấn Cao vẫn như tỏa rạng hào quang dưới
ngọn đuốc sáng rực đang soi tỏ khung cảnh buồng giam. Ngọn đuốc sáng trưng xua đi
bóng tối phủ trùm. Quả là, trong đêm ấy, ánh sáng đang chiến thắng.
Sự đối lập sáng-tối trong Vợ chồng A Phủ không rõ ràng như ở hai tác phẩm được
nói đến ở trên. Thế nhưng, chúng ta vẫn dễ dàng nhận ra một chi tiết rất “ đắt”. Đấy là
hành động tưởng chừng như vô nghĩa, của nhân vật Mị, trong đêm tình mùa xuân: hành
động “xắn mỡ, cho thêm vào đĩa đèn để thắp lên cho sáng”. Ta nhớ Mị đã từng muốn
chết ở cái lần cầm nắm lá ngón trong tay tìm về gặp bố, nhưng chính sự hiếu thảo đã kéo
Mị lại với cuộc sống “con dâu gạt nợ” để tiếp tục giúp gia đình trả món nợ truyền kiếp
cho thống lí Pá Tra. Rồi tưởng chừng từ đó trở đi, Mị chai sạn mất rồi, tưởng chừng như
Mị đã chấp nhận kiếp sống này mà không mảy may một lần vượt thoát nào nữa. Thế
nhưng đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã như một “chất xúc tác”, làm khơi dậy bản
năng phản kháng vốn vô cùng mạnh mẽ ở người con gái ấy. Bản năng phản kháng như
hòn than âm ỉ cháy trong lòng Mị, chỉ đợi một làn gió đủ mạnh để thổi bùng lên. Không
khí mùa xuân ở Hồng Ngài, tiếng trẻ con cười nói vui đùa… và đặt biệt là tiếng sáo gọi
bạn đi chơi, đã thật sự trở thành làn gió, làm bừng tỉnh tâm thức Mị. Nó khiến Mị nhớ
thời còn son của mình. Mị nhớ mình “thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Rồi Mị “cả gan”


uống ừng ực từng bát rượu. Trong cơn say, Mị ý thức rằng mình còn trẻ, còn rất trẻ. “Mị
muốn đi chơi”. Kết quả của chuỗi hành động rất “lạ” ấy ở Mị là đỉnh điểm “thắp đèn
lên” và với tay lấy chiếc váy hoa, định mặc vào để đi chơi tết. Khoan hãy nói đến chuyện
Mị bị A Sử bắt lại, chúng ta hãy nhìn cái cách mà nhà văn kể về Mị. Rằng từ khi sống ở
gia đình thống lí, Mị được trao cho một căn phòng “nhỏ xíu”. Căn phòng chỉ có chiếc
cửa sổ như “một lỗ vuông bằng bàn tay”. Từ trong phòng, nhìn ra ngoài thông qua cái
cửa sổ đó, “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Không gian của Mị
tối lắm. Đêm mùa xuân ấy, không ai nói, chúng ta cũng hiểu là bóng tối quay quắt khắp
xung quanh Mị. Nhưng ngày thường Mị quen rồi, vì “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi”. Điều đó cũng có nghĩa là “ở lâu trong bóng tối, Mị cũng quen tối rồi”. Chỉ đến khi

Mị ý thức thật sự về số phận mình, thì cái khao khát xua đi bóng tối ấy mới xuất hiện.
Một hành động “xắn ống mỡ, cho vào đĩa đèn, thắp lên cho sáng” cũng đủ để cho thấy
nỗ lực của Mị, nỗ lực vượt thoát khỏi bóng tối để hướng đến một điều gì đó tươi sáng
hơn .
Trong Vợ nhặt, Kim Lân cũng mang vào tác phẩm một chi tiết “thắp ánh sáng”
giống như vậy. Tràng, trên con đường dẫn thị - người vợ mới của mình - về nhà, đã thực
hiện một hành động rất xa xỉ trong thời buổi lúc bấy giờ. Anh vào chợ, mua hai hào dầu
về để thắp đèn trong nhà. Thắp đèn, “chuyện thường ngày ở huyện”, thế tại sao chúng ta
có thể gọi đó là một hành động “xa xỉ”. Có lẽ, ai đọc Vợ nhặt cũng biết, ở truyện ngắn
này, Kim Lân đã viết về kiếp sống của những người nông dân trong hoàn cảnh trước năm
1945. Đó là cái “đêm đen điêu tàn” trước Cách mạng tháng Tám. Khoảng thời gian trong
Vợ nhặt là lúc nạn đói năm bốn mươi lăm diễn ra đến mức ghê gớm, cùng cực, hơn hai
triệu đồng bào miền Bắc chết đói. Cơm gạo còn không có để mà ăn, người ta cần no cái
bụng, và cần được tiếp tục sống. Chẳng ai có đủ tâm trí mà nghĩ đến chuyện làm cho nhà
cửa sáng sủa hơn. Nhưng Tràng lúc này nghĩ khác. Không phải vì Tràng giàu có hơn
người, cũng không phải vì anh muốn tỏ ra bản thân phải ga-lăng khi có người đàn bà bên
cạnh. Lời giải thích đơn giản cho hành động đó, là Tràng muốn làm cho khung cảnh u
ám, mờ mịt, tăm tối, bế tắc… vây quanh mình, trở nên quang quẻ hơn, tươi sáng hơn, có


sức sống hơn, để củng cố tinh thần và sống tiếp. Thậm chí là phải tiếp tục bám víu lẫn
nhau mà sống. Hôm nay, Tràng đâu chỉ có một mẹ, một con như mới hôm qua, Tràng còn
cưu mang thêm một người đàn bà. Nhưng người đàn bà ấy, anh không xem là gánh nặng.
Trái lại, thị chính là một sự “xúc tác” làm thắp sáng lòng ham sống và khao khát sốngcho-ra-người ở một chàng trai ngờ nghệch, giữa nạn đói thê thảm, giữa lằn ranh sống chết
mong manh.
Bóng tối và ánh sáng, cùng với bản chất đối lập giữa chúng đã được các nhà văn
mang vào trang viết của mình. Vậy, sự phản ánh đó có những ý nghĩa gì?
Ở Hai đứa trẻ, bóng tối tượng trưng cho hoàn cảnh sống tù đọng, lụi tàn bao trùm
phố huyện nghèo. Ánh sáng tượng trưng cho sự khao khát vươn lên của những kiếp
người tàn nơi đó. Tất cả họ mơ ước một điều gì đấy tươi sáng hơn cho cuộc sống hàng

ngày của mình. Và vì thế mà họ chờ đợi đoàn tàu mang ánh sáng từ Hà Nội về, chạy vụt
ngang qua. Đoàn tàu có âm thanh ồn ào. Đoàn tàu có đồng và kền lấp lánh, những thứ
kim loại mang tính chất phản quang càng khiến cho vật thể này trở nên sáng rực. Nó là
một thế giới khác hẳn, đẹp hơn, rực rỡ hơn, đối lập hoàn toàn với cái ao tù chật chội ở
phố huyện nghèo nàn.
Ở Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân cũng dùng bóng tối để tượng trưng cho không
gian đề lao đầy góc khuất của cái xấu, cái ác, của sự tàn nhẫn, lừa lọc, chết chóc, đau
khổ… Ánh sáng ngọn đuốc là biểu tượng cho thiên lương rực sáng của Huấn Cao. Ánh
sáng tỏa rạng gian phòng giam chính là sự chiến thắng của thiên lương đối với sự tàn
nhẫn, là sự chiến thắng của nhân cách đối với cái xấu, cái ác. Đó chính là tiền đề để lời
khuyên của Huấn Cao đối với viên quản ngục được thốt lên rõ ràng từ chữ một, rất đĩnh
đạc, đầy sức cảm hóa.
Trong Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, bóng tối và ánh sáng cũng tượng trưng cho
hoàn cảnh thực tại và khao khát ở tương lai. Với Mị, cái không gian tối ấy chẳng khác
nào kiếp “con dâu gạt nợ” mà cô phải trải qua. Bởi vì Mị là con nợ truyền kiếp nên phải
chịu sự áp chế của sức mạnh thế lực thống trị (cường quyền). Bởi vì Mị là con dâu của
gia đình Pá Tra nên tinh thần luôn bị con ma vô hình của gia đình này kìm kẹp (thần


quyền). Đó là bóng tối của cường quyền và thần quyền đày đọa tinh thần và thể xác Mị.
Khi ý thức được thực tại phũ phàng đó, Mị thấy mình cần phải chủ động thắp sáng bóng
đêm. Tương tự như vậy, hành động thắp đèn của Tràng trong “đêm tân hôn” cũng dường
như có chung ý nghĩa. Tràng muốn gọi ánh sáng về với mình, để xua đi đêm tối ngột ngạt
bao trùm xóm ngụ cư. Có lẽ anh tin rằng, nếu không gian thay đổi theo hướng sa1ng sủa
hơn thì ắt hẳn cũng khiến tinh thần của con người trở nên tươi mới hơn.
Có thể nói, dù được biểu hiện ở những trường hợp khác nhau, nhưng hình ảnh
bóng tối và ánh sáng trong các tác phẩm văn học này đều gặp gỡ nhau ở những nét nghĩa
chung. Bóng tối tượng trưng cho hoàn cảnh sống của nhân vật. Đó là một hoàn cảnh
mang tính chất tiêu cực, dễ khiến người ta cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối. Đó là “phố
huyện nghèo”, là “nhà lao”, là “xóm ngụ cư trong nạn đói”, là “căn buồng kín mít”. Tất

cả đều tối tăm và không lối thoát. Rộng ra hơn, “bóng tối” gợi liên tưởng đến đời sống xã
hội lúc bấy giờ với nhiều góc khuất cố hữu. Ánh sáng, ở một chiều hướng ngược lại,
tượng trưng cho sự cao khiết về tinh thần, như ước mơ, như thiên lương, như khao khát
vượt thoát, như nỗ lực phản kháng. Và thông qua cách thể hiện này, ta có thể nhận ra tấm
lòng nhân đạo của các nhà văn. Các nhà văn đều nhận ra một điều tuyệt vời của cuộc
sống, là trong đêm tối, con người ta vẫn không nguôi ước muốn hướng về ánh sáng.
Thậm chí, cuộc đời càng tăm tối thì tinh thần hướng sáng của con người càng mạnh mẽ
hơn gấp bội. Không có gì dập tắt được khao khát chính đáng ấy ở họ.
Cái chết về thể xác có thể đau đớn và đáng sợ nhưng không đáng sợ bằng cái chết
về mặt tinh thần. Bóng tối của cuộc đời có thể làm mệt mỏi, đau đớn cho thể xác. Thế
nhưng, chúng ta không được tự mình từ bỏ cái quyền được ước mơ, được sống với ước
mơ và được thực hiện ước mơ. Ánh sáng của cuộc sống có thể nhỏ nhoi nhưng tác dụng
vực dậy tinh thần cho con người lại vô cùng tuyệt vời. Hướng về ánh sáng, con người ta
lạc quan hơn, họ có động lực để bám sâu vào cuộc đời hơn, họ sẽ thêm tin tưởng vào một
tương lai nhiều thay đổi. Văn học truyền tải cho chúng ta thông điệp đó. Và thông qua sự
nhận thức thông điệp này, chúng ta củng cố tinh thần thêm vững vàng hơn.



×