Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Những bài văn bài hai đứa trẻ thạch lam ngữ văn 11 (20)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.94 KB, 6 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
BÀI VĂN MẪU “HAI LOẠI ÁNH SÁNG TRONG TRUYỆN NGẮN
"HAI ĐỨA TRẺ" CỦA THẠCH LAM”

BÀI LÀM:

Có người đã nói với tôi rằng: " Văn chương Thạch Lam chẳng có gì là hay cả, từ
truyện ngắn "Gió lạnh đầu mùa", " Dưới bóng hoàng lan", cho đến " Hai đứa trẻ" toàn
là những chuyện vụn vặt của đời sống hết sức tầm thường được xây dựng trên tổ hợp của
lối văn nhạt nhẽo. Thực sự đọc văn của Thạch Lam thà rằng đọc mấy cái Tin vắn lại còn
hay hơn!" Tôi thật e ngại cho người đó! Người đó trái tim sắt đá ư? Tâm hồn người đó
không có cảm xúc ư? Hay là người đó chỉ thích tiếp xúc với những loại văn chương kinh
dị, trinh thám, kiếm hiệp...? Nếu mà là như vậy thì người đó dù có đọc đến hàng trăm,
hàng nghìn những tác phẩm của Thạch Lam đi chăng nữa hẳn ý tưởng ấy vẫn không hề
thay đổi được.
Trái với nhận định trên, đối với tôi văn chương của Thạch Lam như một thiếu nữ
chân quê, mộc mạc, giản dị, song đằm sâu trong từng câu chữ, lời văn là bao nhiêu cung
bậc tình cảm. Có thể nói nhà văn thiên về khai thác thế giới tâm linh nhiều hơn hơn là
xây dựng những tình tiết gay cấn, ly kỳ...Một trong những truyện ngắn hay , xuất sắc như
thế của Thạch Lam phải kể tới " Hai đứa trẻ" rút trong tập " Nắng trong vườn" xuất bản
năm 1938. Trong truyện ngắn này, nhà văn nói đến nhiều vấn đề quan trọng và ánh sáng
cũng là một trong những vấn đề quan trọng ấy có thể chuyển tải nội dung thành ý tưởng
tác phẩm.
Với dáng hình dịu nhẹ, mỏng thoáng của từng câu chữ, với một đề tài vụn nhỏ,
Thạch Lam đã thọc sâu ngòi bút của mình mà ngoáy lên những cảnh vật, những tâm trạng
thật khiến cho những người có cảm xúc rung động đến bất tận, suy nghĩ đến nao lòng.


Bao nhiêu cảnh vật dường như se lạnh khi tiếng trống thu không treo lơ lửng âm thanh
vào tai mỗi người.Và ngày qua, đêm đến, ta thấy có rất nhiều ánh sáng hiện lên trước phố
huyện tiêu điều, xơ xác... Song ánh sáng mà nhà văn đặc biệt quan tâm, chú ý thì chỉ có


hai loại. Đó là, ánh sáng của chiếc đèn nhỏ của mẹ con chị Tý và ánh sáng của đoàn tàu,
ấy mới là biểu tượng cho khung trời phố huyện với ước mơ quá đơn sơ, với khát vọng
quá mong manh vào tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai khi bóng đêm đặc kịt trên nền
trời u ám.
Cái buồn trước đêm tối cứ thả vào hư không sẽ bớt đi rất nhiều thê thảm, nếu
không có những hoạt động tẻ nhạt, buồn bã, gờn gợn và ánh sáng nhỏ mọn do con người
tạo ra. Nhưng con người hy vọng vào một điều viễn vọng thì vẫn phải hoạt động để giành
lại sự sống đi đến hạnh phúc cho mình. Chính vì thế, mẹ con chị Tý: " Ngày, đi mò cua,
bắt ốc; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái miếu
gạch" với một chiếc đèn Hoa Kỳ không đủ ánh sáng để soi rõ mặt người...
Ngọn đèn nhỏ mọn ấy buồn rầu leo lét, hưu hắt vắt vào khoảng trời đầy bóng đêm.
Bóng đêm bao vây tứ phía và chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng có thể làm cho số phận của
chiếc đèn hụt tắt giữa mênh mông trời đất. Chị em Liên nhìn vào vũ trụ thăm thẳm, bao la
để kiếm tìm những vì sao có hình sông Ngân, có hình cầu Ô Thước và hình con vịt theo
sau láo Thần Nông. Nhưng vũ trụ nó làm mỏi ý nghĩ của con người nên hai chị em Liên
chỉ một lát "lại chúi nhìn về mặt đất, về luồng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay
động trên chõng hàng của chị Tý". Ngọn đèn của chị tý leo lét như nỗi buồn đa mang
theo tháng năm, như cuộc sống im ỉm mà phố huyện nơi đây đương tẻ nhạt, khoác một
tấm áo đêm thùi thũi đi về. Cho dù có cố gắng đến bao nhiêu đi chăng nữa, ánh sáng ấy "
chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" mà thôi. Một vùng đất nhỏ dưới tán bàng héo úa, tàn
lụi, rơi rớt vài giọt sương đêm khỏa vào nỗi buồn mỗi ngày lại nhịp lên mênh mang
xuyên qua lòng phố huyện, rồi lại ủ rũ " bên cạnh cái mốc gạch". Số phận của con người
cứ quanh đi, quẩn lại như thế theo phức điệu nhàn nhạt mà xã hội thực dân- phong kiến
mang lại.


Quán hàng với ánh đèn của chị Tý nghiêng đọng một nỗi buồn như thế, một nỗi
buồn mà ngày nào cõng trong trí nhớ : " Ôi chao sớm với muộn mà có ăn thua gì?", "
Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?" Nhưng họ vẫn phải đi kiếm kế sinh nhai, vì thế
ngọn đèn của chị Tý cũng lóe lên cho mình sự đam meequyeens rũ một sắc buồn để hút

mọi tầm mắt lao tới mà thưởng thức, mà chiêm ngưỡng. Nhà văn đã tả ngọn đèn của chị
Tý khác hẳn so với các ánh sáng khác như: ánh sáng chiếc đèn của nhà bác Phở Mỹ, ánh
sáng leo lét trong nhà ông Cửu, ánh sáng xanh trong hiệu khách, ánh đèn chập chờn như
ma trơi của bác Siêu, cho đến ánh sáng của những ngôi sao sa, ánh sáng của chú đom
đóm lập lòe...thì đều chỉ góp phần tô đậm thêm cho nỗi buồn nơi quán nước có ánh sáng
từ chiếc đèn chị Tý mà thôi. Vì thế mà ánh sáng ngọn đèn leo lét, hiu hắt ở quán nước
này dường như đã trở thành nơi hội tụ của cả phố huyện trong đêm tối: " Tất cả phố xá
trong huyện thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tý".
Đêm tối mênh mông mỗi lúc lại đặc kịt: " Tối hết cả con đường thăm thẳm ra
sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa"... Nhưng ánh
sáng của chị tý cứ miệt mài lan tỏa. Nhà văn Thạch Lam đã trở đi, trở lại nhiều lần để
miêu tả thật kỹ ngọn đèn này. Có lẽ đó là ý tưởng mà tác giả gợi lên hun hút của nỗi buồn
đi vào bế tắc chăng? Xcon người đêm, con đường đêm, phố huyện đêm và cả xã hội Việt
Nam đêm đã thui chột những ước mơ cao xa đang giục giã lòng người trở về cuộc sống
nguyên thủy ngày xưa đầy kinh dị. Từng ánh sáng của bóng đèn mẹ con chị Tý cố sức leo
vào không gian bao la, thăm thẳm, song đã bị bóng đêm đắng quạch đẩy lùi. Nỗi ám ảnh
cuộc sống mà ánh sáng từ chiếc đèn của mẹ con chị Tý lần lượt đi vào tiềm thức con
người. Nỗi ám ảnh ấy đã làm cho sự sống hóa thành mong manh, vụn nhỏ, tẻ nhạt, hưu
quạnh... treo vào hư vô. Lần cuối, khi đoàn tàu và ánh sáng của nó rơi lặng lẽ, im nghỉm
trong đêm tối thì hình ảnh " chiếc đèn của chị Tý" đi vài giấc mộng của Liên thật tự nhiên
đến nao lòng, đau xót và "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi"...
Thạch Lam xây dựng nên hình tượng ngọn đèn chị Tý không chỉ đơn thuần là
ngọn đèn nữa mà nó là biểu tượng cho cuộc sống thực tại nơi đây: nhỏ nhoi, hưu hắt đầy
buồn chán của chị em Liên cũng như những con người nhỏ bé đang dật dờ đi lại trên phố


huyện này. Ngọn đèn được nhà văn miêu tả trở đi, trở lại nhiều lần và khi đi ngủ, Liên
vẫn còn mường tượng tới ánh sáng hưu hắt, lay lắt ấy như một ám ảnh tâm lý cho đến
ngàn năm cũng không thể nào gỡ ra được. Ánh sáng đèn của chị Tý cùng với những ánh
sáng khác nơi phố huyện thì ngay từ đầu truyện đã ngồn ngộn nổi lên một cách lay lắt

chẳng làm sáng thêm cho không gian chút nào, ngược lại càng làm rách vá mảng trời đêm
mùa hạ " êm như nhung". Từ đó đến cuối truyện nhà văn Thạch Lam mới miêu tả ánh
sáng của đoàn tàu hành quân qua phố huyện buồn thương này.
Ánh sáng của đoàn tàu giờ đây đã khác hẳn, không phải là ánh sáng đơn điệu từng
hột lọt qua phên nứa rơi rớt xuống nền đường lởm chởm, hoang màu của rác rưởi, lá
nhãn, bãi mía, vỏ bưởi, vỏ thị và mùi âm ẩm bốc lên; không phải là ánh sáng chập chờn
như ma trơi cảu bác Siêu; không phải là ánh sáng ganh nhau lấp lánh như sao sa; lại càng
không phải ánh sáng nhấp nháy như con đom đóm... Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng
rực sáng, là ánh sáng chói lòa. Mọi ánh sáng mà Thạch Lam miêu tả trước chỉ nhằm tô
đậm thêm bóng tối, khoác thêm nỗi buồn dài lê thê như con sông đổ mãi ra biển khơi
không hết. Ánh sáng của những ngọn đèn lay lắt, vật vờ ở phố huyện lại càng điểm cho
không gian thêm hưu quạnh, se sắt, lại càng làm cho cay đắng, xót xa nỗi lòng người.
Chính vì vậy, con tàu từ Hà Nội đi qua mang theo ánh sáng từ nơi ấy đến là một điều
mong mỏi khao khát của chị em Liên: " Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và
huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giưới khác đi qua". Nỗi chờ mong của chị em
Liên chỉ giản dị, đơn sơ như thế thôi, nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ nó lại vô cùng có
ý nghĩa cho ước mơ sau này.
Tôi xin được lạc đề một chút, hồi tôi còn nhỏ vào những năm 1989, 1990 lúc đó
làng tôi không có điện sáng như bây giờ, cứ tối nào tôi và mẹ tôi lại cõng nhau ra cổng để
xem những ánh điện chói ngời mông lung, huyền ảo đẹp đến mê lòng trên Hương Canh,
trên Lý Nhân và cả ở Minh Tân nữa. Mẹ tôi bảo những ánh sáng đó là thần tượng " sao
dưới đất". Tôi liền hỏi mẹ tôi: " Bao giờ làng mình có thần tượng sao dưới đất đó hả
mẹ?" Mẹ tôi im lặng trong suy tư, cảm nghĩ rồi lặng lẽ đáp: " Không lâu nữa đâu, khi
nào con lớn lên thì thần tượng sao dưới đất sẽ đến với con". Những buổi tối theo mẹ ra


cổng ngắm nhìn " thần tượng sao dưới đât" như thế ấy đến bay giờ đã thành một kỷ
niệm khó quên của đời tôi. Và giờ đay bắt gặp tâm trạng đợi tàu cảu chị em Liên tôi lại
thấy lòng mình nao nao đồng cảm, nhặt ra cho mình nhiều ưu tư suy nghĩ về cuộc sống
của những đứa trẻ nghèo khổ. Những đứa trẻ như chị em Liên đợi tàu như chờ đợi thiên

thần mang hạnh phúc đến để lấp đi những nỗi buồn ám ảnh đa mang theo tháng ngày.
Trong con mắt trẻ thơ, ánh sáng, nhất là ánh sáng chói ngời, xa lạ sẽ hằn sâu trong
trán và thúc đẩy ước mơ đến mãnh liệt. Thạch Lam đã miêu tả ánh sáng của đoàn tàu một
cách khác thường. Ánh sáng được vận động theo đoàn tàu, mới đầu chỉ nghe thấy " tiếng
dồn dập, tiếng rít lên" và " bừng sáng trắng lên tít đằng xa"; rồi sau đó tàu tiến lại gần thì
mới " sáng trưng, chiếu ánh xuống cả đường". Một thứ ánh sáng mà cả phố huyện này
đều muốn vươn tới. Nhưng rồi " chiếc tàu cùng với ánh sáng lấp lánh của nó" cũng " đi
vào đêm tối" rơi tõm vào sự im lặng. hai chị em Liên nhìn với theo chỉ thấy " cái chấm
nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre". Đúng là
" Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" nào có sai.
Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của khát vọng, là ánh sáng của ước mơ về cuộc
sống tươi sáng đẹp đẽ hơn. Ánh sáng đó là niềm thao thức chờ đợi hằng đêm của chị em
Liên như một món ăn tinh thần không thể nào thiếu được để rồi có một ước muốn treo cái
thế giới tẻ nhạt vĩnh viễn vào không trung và chỉ để lại đây cuộc sống náo động, sôi nổi
với thiết tha lòng người yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Nhưng những khát vọng đó
lại trở thành vô vọng bởi vì " chiếc tàu đi vào đêm tối" thì bóng đêm lại trùm lên phố
huyện, lại trùm lên những con người nhỏ nhoi, những cuộc đời hiu hắt, buồn bã.
Không gian bóng đêm tẻ nhạt, lúc nào cũng dắt bên mình một vũ điệu " bài ca
không quên" trôi dài theo năm tháng. Vũ điệu ấy cứ tô thêm cho mình ngọn đèn lay lắt ,
hiu hắt, nhỏ bé ... như chứa đựng tâm trạng của mọi người trong tạo hóa. Bóng đêm bao
vây và tiếng tàu lại vang lên cùng với ánh sáng rạng rỡ, huy hoàng càng xé nát mảnh trời
nhung đen. Từ một không gian tự nhiên đã trở thành biểu tượng một không gian xã hội
bao vây con người, cản trở khát vọng cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc của họ.


Chúng ta chỉ đi vào một khía cạnh của truyện ngắn " Hai đứa trẻ" mà thôi, nhưng
bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi lòng, bao nhiêu suy nghĩ mà nhà văn Thạch Lam
muốn bày biện cũng nổi lên khá rõ. Qua ánh sáng từ chiếc đèn mẹ con chị Tý và ánh sáng
của đoàn tàu ta thấy được cuộc sống khổ cực, quẩn quanh nơi phố huyện, cũng như
những khát vọng, những ước mơ muốn làm cho thế giưới thực tại thay đổi. Song ước mơ

vẫn chỉ là ước mơ, còn thực tại vẫn cứ là thực tại. Dù sao đi chăng nữa, đó chính là nỗi
lòng của nhà văn gửi gắm cho độc giả.
Tôi ước gì mình cũng có những cảm xúc sau kín, nhưng thấm thía như nhà văn
Thạch Lam để sau này bước lên văn đàn, mình cũng có những trang văn hay lay động
lòng người đến thế.



×