Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Giải pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển của Đại học Bách Khoa Hà Nội vào sản xuất, kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN BÁ HÙNG

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VÀO SẢN XUẤT, KINH DOANH

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.04.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN QUANG TUẤN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang
Tuấn. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng


được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN BÁ HÙNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ỨNG DỤNG, NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN,
SẢN XUẤT KINH DOANH ..................................................................................... 7
1.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................................... 7
1.2. Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh hay thương mại hóa kết
quả nghiên cứu ......................................................................................................... .23
1.3. Các yếu tố tác động đến thương mại hóa kết quả nghiên cứu ........................... 27
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 30

Chương 2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
PHÁT TRIỂN VÀO SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA HÀ NỘI. ...................................................................................................... 32
2.1. Giới thiệu chung về Trường Đại học Bách khoa Hà Nội................................... 32
2.2. Thực trạng ứng dụng kết quả nghiên cứu tại một số viện lớn của trường Đại học
Bách Khoa Hà Nội ................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá chung về thực trạng ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển của
Đại học Bách Khoa Hà Nội vào sản xuất kinh doanh ............................................... 50
Kết luận chương 2 .................................................................................................... .55
Chương 3. MỘT SỐ GẢI PHÁP THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VÀO SẢN SUẤT KINH DOANH .......................................................................... 57
3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách của Nhà nước ........................................ 57
3.2. Đề xuất nhóm giải pháp tại Đại học Bách Khoa Hà Nội ................................... 64

Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CN

Công nghệ

DN

Doanh Nghiệp

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐH

Đại học

ĐH BKHN


Đại học Bách Khoa Hà Nội

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

KQNC

Kết quả nghiên cứu

NCCB

Nghiên cứu cơ bản

NCƯD

Nghiên cứu ứng dụng

NCTK

Nghiên cứu triển khai

PTCN

Phát triển công nghệ

R&D

Nghiên cứu và triển khai


SHTT

Sở hữu trí tuệ

TLO

Technology License Offce
(Văn phòng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ)

TTO

Techology Transfer Office
(Văn phòng chuyển giao công nghệ)

TTC

Techology Transfer Center
(Trung tâm chuyển giao công nghệ)


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Hình/Bảng biểu

Trang

Hình 1.1 Chuyển đổi một ý tưởng khoa học thành sản phẩm sử dụng công nghệ

23


Hình 1.2 Cung cầu trên thị trường

28

Hình 2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức hoạt động trường ĐHBK Hà Nội

33

Bảng 2.2 Tổng hợp kết quả hoạt động KH&CN của trường 2011-2015

36

Bảng 2.3 Thống kê các công trình công bố trong 5 năm gần đây

37

Hình 2.4 Đường chuyển giao công nghệ

41

Hình 2.5 Mô hình tổ chức của viện kỹ thuật hóa học

48

Bảng 2.6 Kết quả hoạt động nghiên cứu

49


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng trong phương hướng và nhiệm vụ có nêu rõ
(đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững).
Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công nghiệp có
công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số, hệ
thống tự động hoá, có khả năng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, nâng cao tỉ lệ nội địa
hoá sản phẩm...; nhanh chóng hình thành một số viện công nghệ công nghiệp, viện
công nghệ thăm dò và khai thác khoáng sản nước ta có thế mạnh, viện công nghệ
nông nghiệp, đủ sức nghiên cứu, phát minh, sáng chế kỹ thuật, công nghệ; gắn kết
chặt chẽ các cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở đào tạo với các đơn vị sản xuất
kinh doanh.
Từ năm 2010 đến nay, Chính phủ và các bộ ban nghành đã xây dựng, ban
hành hệ thống các bộ luật, các văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh
cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển của
nghành Khoa học và Công nghệ nói riêng như: Luật khoa học và công nghệ số:
29/2013/QH13 (Luật này quy định về tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công
nghệ; việc tổ chức thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ; biện pháp bảo đảm
phát triển khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ);
nghị định 120/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 12 năm 2014 Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 133/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ…Thực
trạng các kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây thực tế ứng dụng vào sản
xuất, kinh doanh đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà Nước.
Sứ mạng của Đại học Bách khoa Hà Nội là đem lại cho xã hội và cộng đồng
các lợi ích với chất lượng tốt nhất từ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ và dịch vụ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn an ninh quốc phòng và phát triển Hệ thống Giáo
1



dục Đại học Việt Nam. Mục tiêu phát triển: Xây dựng trường Đại học Bách khoa
Hà Nội thành trường đại học đào tạo trình độ cao, đa ngành, đa lĩnh vực; một trung
tâm nghiên cứu khoa học công nghệ hàng đầu của đất nước, với một số lĩnh vực đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; một địa chỉ tin cậy, hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư phát triển công nghệ, giới doanh nghiệp trong và ngoài nước.
(nguồn: )
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội trong quá trình xây dựng và phát triển đã
có những mối liên kết đáng kể trong việc chuyển giao công nghệ với các doanh
nghiệp và xã hội.Với các công trình NC trong các lĩnh vực như vật liệu mới, cơ khí,
điện tử, tự động hoá, nhiệt-lạnh, các sản phẩm hoá học vô cơ, hữu cơ, các chế phẩm
sinh học, các sản phẩm phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, phục vụ môi trường...
Bên cạnh đó hệ thống doanh nghiệp cũng góp phần không nhỏ cho thành tích
của nhà trường trong các lĩnh vực:
Đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết, ươm tạo các doanh nghiệp; Huy động và
quản lý vốn phục vụ cho quá trình ươm tạo và thương mại hoá các sản phẩm khoa
học công nghệ từ trường Đại học Bách Khoa Hà Nội;
Cung cấp các dịch vụ đào tạo thích nghi và cập nhật kiến thức theo yêu cầu xã
hội; Cung cấp các dịch vụ: tư vấn và chuyển giao công nghệ, tư vấn đầu tư, tư vấn
về quản lý, tư vấn về tài chính, nhận uỷ thác các nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước, triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặc dù từ chủ trương của Đảng và những chính sách của Nhà nước có rất
nhiều thuận lợi với các tổ chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực Khoa học và Công
nghệ nói chung và trường Đại học Bách Khoa Hà Nội nói riêng chưa có chính sách
và biện pháp tốt để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhà nước đầu tư cho
khoa học và công nghệ; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu khoa học và công nghệ với
hoạt động sản xuất, kinh doanh; chưa phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển
kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học và công nghệ chậm được hình thành, hiệu quả
ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp

thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để
nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh.
2


Xuất phát từ những thực tế nêu trên tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải
pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển của Đại học Bách
Khoa Hà Nội vào sản xuất, kinh doanh” để viết luận văn thạc sỹ với mong muốn
cung cấp cái nhìn tổng quát từ cơ sở lý luận đến thực tiễn ứng dụng các đề tài
nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Đề
tài sẽ phân tích và trả lời cho một số câu hỏi lớn sau: (1) thế nào là một đề tài
nghiên cứu được xem như là ứng dụng vào sản xuất kinh doanh, (2) hiện nay việc
ứng dụng các kết quả nghiên cứu của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đang gặp
những khó khăn vướng mắc nào; và làm thế nào để thúc đẩy và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh doanh?
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển Khoa học Công nghệ,
trong những năm gần đây, trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã có bước phát triển
vượt bậc về quy mô chất lượng đào tạo cũng như các đề tài NCKH.
“Hiện nay Trường đã và đang nỗ lực hơn nữa đem lại cho xã hội và cộng đồng
các lợi ích với chất lượng tốt nhất từ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học,
và một phần vô cùng quan trọng là chuyển giao công nghệ và dịch vụ, góp phần
đắc lực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn an ninh quốc
phòng và phát triển Hệ thống Giáo dục Đại học Việt Nam”.
(nguồn: )
Tuy nhiên tình hình thực tế hoạt động nghiên cứu khoa học tại Đại học Bách
khoa Hà Nội hiện nay cho thấy phần lớn kết quả nghiên cứu chưa được ứng dụng
vào sản xuất, kinh doanh. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng đánh giá và đưa ra các
giả pháp tăng cường ứng dụng kết quả nghiên cứu (KQNC) vào sản xuất kinh doanh
là thực sự cần thiết.

Tình hình chuyển giao công nghệ và thương mại hóa KQNC là những vấn đề
được rất nhiều các nhà nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu trong nước và quốc tế quan
tâm. Các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực ứng dụng kết quả nghiên cứu hay
chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu đã có rất nhiều tác
giả, công trình nghiên cứu liên quan đến CGCN và Thương mại hóa KQNC; nghiên
3


cứu về chính sách thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đặc biệt từ trường đại học
vào doanh nghiệp như “Chính sách nhà nước thúc đẩy thương mại hóa KQNC khoa
học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước” (Nguyễn Quang Tuấn,
2014);”Đại học Quốc gia Hà Nội thương mại hóa sản phẩm KH&CN” (Hồng
Hạnh, Dân trí ngày 02/12/2013); Đề tài cấp Bộ “Thúc đẩy ứng dụng và thương mại
hóa các kết quả R&D” (Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ, 2014) Các công trình nghiên cứu liên quan đến CGCN và Thương mại
hóa KQNC như:“Khoa học và công nghệ hướng tới thế kỷ XXI – Định hướng và
chính sách” (Vũ Đình Cự, 2000) và nhiều công trình khác. Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu này mới đề cập đến một số chính sách cơ bản thúc đẩy hoạt động
thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chưa đi sâu vào thúc đẩy hoạt động thúc đẩy
thương mại hóa KQNC của một tổ chức KH&CN cụ thể vào Doanh nghiệp. Các
chính sách đưa ra mang tính vĩ mô, khó áp dụng cho một tổ chức KH&CN cụ thể
như Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Ngoài ra còn có các bài viết trên tạp trí như: “Đẩy mạnh thương mại hóa
KQNC trong trường đại học” (Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo – IPP, 2012);
“Thúc đẩy thương mại hóa KQNC và phát triển ở Việt Nam” , Nguyễn Quang Tuấn
(2010), Tạp chí Cộng sản); “Thương mại hóa công nghệ, đại học - doanh nghiệp
còn nhiều hạn chế” (Truyền thông Khoa học và Công nghệ, cập nhật 21/02/2014);
“Đẩy mạnh ứng dụng KQNC trong trường đại học” (Báo Đất Việt). Các công trình
nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong CGCN ở
Việt Nam nói chung và hoạt động CGCN, Thương mại hóa KQNC từ trường ĐH

vào DN nói riêng. Một số nghiên cứu đã đề suất một số giải pháp và chính sách thúc
đẩy hoạt động thương mại hóa và CGCN từ nơi nghiên cứu vào doanh nghiệp sản
xuất. Tuy nhiên, các hoạt động CGCN, thương mại hóa KQNC đó vẫn tồn tại nhiều
hạn chế và chưa đồng bộ, chưa có chính sách thích hợp, đặc biệt các chính sách thúc
đẩy thương mại hóa KQNC từ Trường đại học vào Doanh nghiệp.
Do đặc thù của mỗi đơn vị khảo sát là khác nhau, vì vậy những giải pháp thúc
đẩy ứng dụng các kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất kinh doanh được

4


đưa ra phân tích tại Đại học Bách Khoa Hà Nội trong luận văn này là chưa từng
được thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên
Đề xuất được các giải pháp tăng cường ứng dụng kết quả các đề tài nghiên cứu
trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội vào sản xuất, kinh doanh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Một là hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học vào sản xuất, kinh doanh.
- Hai là phân tích thực trạng ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản
xuất, kinh doanh của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội trong năm năm trở lại đây.
- Ba là đề xuất giải pháp tăng cường ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa
học vào sản xuất, kinh doanh của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiện cứu
- Trong năm năm trở lại đây, do số lượng các đề tài nghiên cứu của Đại học
Bách khoa Hà Nội rất lớn. Nhiều đề tài nghiên cứu là những nghiên cứu mang tính
chất của nghiên cứu cơ bản. Vì vậy, đề tài chỉ tập trung phân tích các KQNC của

các đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước, cấp trường đã nghiệm thu và quá trình
ứng dụng các kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh doanh.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Một số chủ nhiệm đề tài, khoa viện bộ môn, tổ chức khoa học trong trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội trong năm năm gần đây.
- Công ty Đầu tư và Phát triển công nghệ Bách Khoa Hà Nội – Bkholdings.
- Các doanh nghiệp thuộc trường và các tổ chức trung gian trong quá trình
chuyển giao công nghệ.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Các hoạt động nghiên cứu khoa học từ các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước, cấp
trường trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã ứng dụng các kết quả nghiên
5


cứu và phát triển vào sản xuất kinh doanh.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến nay
- Địa bàn nghiên cứu trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và một số
doanh nghiệp thuộc trường.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: phân tích và tổng kết các tài liệu liên quan
đến nội dung của đề tài (các báo cáo tổng hợp của phòng Khoa học Đại học Bách
Khoa Hà Nội về hoạt động KH&CN trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, các
đề tài trong năm năm trở lại đây đã ứng dụng các kết quả nghiên cứu và phát triển
vào sản xuất kinh doanh).
- Phương pháp điều tra khảo sát: Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt
động và xu hướng chuyển đổi.
- Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học: Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về đối tượng
nghiên cứu và vai trò của các đơn vị quản lý các hoạt động khoa học và công nghệ,

các doanh nghiệp trong trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Tìm hiểu và tổng hợp lại những thuận lợi và khó khăn,
tìm ra các nguyên nhân còn hạn chế trong ứng dụng các kết quả nghiên cứu và phát
triển của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội vào sản xuất kinh doanh (trong 5 năm
qua). Từ đó tìm ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả trong NCKH và
CGCN tại trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
7. Cơ cấu của luận văn
Sau phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo tổng hợp
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận ứng dụng, nghiên cứu phát triển, sản xuất kinh doanh
Chương 2. Thực trạng ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh
doanh của Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển của
Đại học Bách Khoa Hà Nội vào sản xuất kinh doanh.
6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ỨNG DỤNG, NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN,
SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Các khái niệm về khoa học, công nghệ, nghiên cứu khoa học
Khoa học, tiếng Latin là “Scientia”, có nghĩa là “kiến thức” hoặc “hiểu biết”,
là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết của con người về
cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Thông qua các phương pháp
kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật
chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thông tin để giải
thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật, hiện tượng. Một trong những cách
thức đó là phương pháp thử nghiệm bằng mô phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều
kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong khoa học là toàn bộ

lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích luỹ được. Như vậy, khoa học bao gồm
một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những
qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch
sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri
thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với
thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên
nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh
nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế.
Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được
hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì
vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng
tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống
nhờ hoạt động NCKH, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương
pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên
7


kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra
ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức
trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học,
kinh tế học, toán học, sinh học,…
Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, năng suất lao động không ngừng được nâng cao, cơ cấu kinh tế của các quốc
gia có sự chuyển biến mạnh mẽ, mọi mặt của đời sống xã hội loài người thay đổi
sâu sắc. Tuy nhiên, khi bàn về thuật ngữ khoa học, công nghệ, vẫn còn có nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 “Khoa học là hệ thống tri thức

về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và
tư duy.” [Luật khoa học và công nghệ 29/2013/QH13, khoản 3 điều 3].
Viện Ngôn ngữ học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội cho rằng: Khoa học là hệ
thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản
ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như các hoạt động tinh
thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực [Từ điển
tiếng Việt (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.526].
Theo ý kiến của các nhà triết học: Khoa học (Science) là hệ thống tri thức gồm
những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy trong quá trình nhận thức
trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết.
Theo đối tượng nghiên cứu, khoa học bao gồm: (1) khoa học tự nhiên, nghiên
cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên; (2) khoa học xã hội và nhân văn,
nghiên cứu hiện tượng, quá trình, quy luật vận động, phát triển của xã hội và bản
thân của con người.
- Phân loại khoa học theo mục tiêu nghiên cứu: Có khoa học cơ bản; khoa học
ứng dụng.
- Phân loại khoa học theo UNESCO: Thì bao gồm khoa học tự nhiên; khoa học
kinh tế; khoa học nông nghiệp; khoa học y học; khoa học kỹ thuật; khoa học xã hội và
nhân văn…

8


Tóm lại, khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp xã hội có tính đặc thù nhằm tìm kiếm, sắp xếp một cách có hệ
thống các tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy trên cơ sở tổng hợp, khái quát những
tri thức kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình lịch sử, từ thực tiễn hoạt động
sản xuất và đời sống để định hướng, dẫn dắt hoạt động thực tiễn của con người.
Những quan niệm trên cho thấy, bản chất của khoa học là hệ thống tri thức
mang tính quy luật. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng: nhận thức và cải tạo thế giới

tự nhiên, phục vụ nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người.
Như vậy, về thực chất khoa học là một dạng hoạt động đặc biệt của đời
sống xã hội, là sự khám phá của con người đối với các hiện tượng và thuộc tính vốn
tồn tại một cách khách quan, từ đó làm thay đổi nhận thức của con người và biến
chúng thành hiện thực. Phạm vi ảnh huởng của khoa học rất lớn, cả bề rộng lẫn bề
sâu. Xã hội loài người càng phát triển thì khoa học cũng ngày càng phát triển và
phân ngành của khoa học càng chi tiết hóa và phức tạp hóa hơn.
Công nghệ là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Technologia” hay
“vexvonopơ”. “Techne” có nghĩa

là “thủ công” và “logia” là “châm ngôn”;

“Technologia” là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo của con
người. Trong tiếng Anh, công nghệ là “Technology” có nghĩa là “tài nghệ học”, sự
tinh xảo của tay nghề, một nghệ thuật hay một kỹ năng, bí quyết… để đạt tới sản
phẩm chất lượng cao của nghề thủ công trước đó. Tùy theo ngữ cảnh và góc độ
nghiên cứu mà thuật ngữ công nghệ có thể được hiểu:
Công cụ hoặc máy móc giúp con người giải quyết các vấn đề.
Các kỹ thuật bao gồm các phương pháp, vật liệu, công cụ và các tiến trình để giải
quyết một vấn đề.
Các sản phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau.
Thuật ngữ công nghệ vì vậy thông thường đặc trưng bởi các phát minh và cải
tiến sử dụng các nguyên lý và quy trình đã được khoa học phát hiện ra gần đây nhất.
Các nhà kinh tế học thì xem công nghệ như là trạng thái hiện tại của kiến
thức của con người trong việc kết hợp các nguồn lực để sản xuất ra các sản phẩm

9


mong muốn (và kiến thức của con người về sản xuất như thế nào?). Như vậy, công

nghệ có thể thay đổi khi kiến thức kỹ thuật của con người tăng lên.
Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO): “Công
nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả
nghiên cứu và xử lý một cách có hệ thống và có phương pháp”. Định nghĩa này chỉ
xét ở một khía cạnh nào đó của khoa học trong việc sử dụng nó một cách có hiệu
quả (như trong lĩnh vực công nghiệp mà thôi).
Tổ chức Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) thì đưa
ra định nghĩa: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin”. Sau đó định nghĩa được mở rộng, “nó bao gồm tất cả
các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong chế tạo, dịch vụ,
quản lý thông tin” [“Khái niệm công nghệ” (2000), Công tác khoa giáo, tr.43]. Định
nghĩa này được mở rộng hơn trên các lĩnh vực chế tạo, dịch vụ, quản lý thông tin và
đã đi sâu nghiên cứu khía cạnh công nghệ thực thụ.
Theo khoa học luận: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ
năng, bí quyết, công cụ và phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
Đây là khái niệm mang tính khái quát tương đối đầy đủ.
Viện Ngôn ngữ học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội cho rằng: Công nghệ là
tổng thể nói chung các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp tổ chức, quản lý
được sử dụng vào quy trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm vật chất và dịch vụ [Từ
điển tiếng Việt (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.270].
Tóm lại, công nghệ là toàn bộ hệ thống các công cụ, phương tiện kỹ thuật, bí
quyết, phương pháp tổ chức, quản lý nhằm khai thác, biến đổi nguồn lực tự nhiên
thành các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Công
nghệ là bàn tay của con người được nối dài ra trong quá trình cải tạo tư nhiên..
1.1.2 Tìm hiểu các khái niệm trong nghiên cứu khoa học và các hình thức
nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học bao gồm "hoạt động sáng tạo được thực hiện một cách
có hệ thống nhằm làm giàu tri thức, bao gồm tri thức về con người, văn hóa và xã
hội, và sử dụng vốn tri thức này để tạo ra những ứng dụng mới."[1] Hoạt động
10



nghiên cứu được dùng để thiết lập hay xác nhận các dữ kiện, tái xác nhận kết quả
của công trình trước đó, giải quyết những vấn đề mới hay đang tồn tại, chứng minh
các định lý, hay phát triển những lý thuyết mới. Mục đích chính yếu của nghiên cứu
cơ bản (khác với nghiên cứu ứng dụng) là thu thập dữ kiện, phát kiến, diễn giải, hay
nghiên cứu và phát triển những phương pháp và hệ thống vì mục tiêu thúc đẩy sự
phát triển tri thức nhân loại. Các hình thức nghiên cứu bao gồm: khoa học, nhân
văn, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, kinh doanh, thị trường... Cách tiếp cận nghiên cứu
trong những lĩnh vực khác nhau có thể rất khác nhau.
Nghiên cứu khoa học có nhiều định nghĩa khác nhau. Martyn Shuttleworth
cho rằng: "Theo nghĩa rộng nhất, định nghĩa của nghiên cứu bao hàm bất cứ sự thu
thập dữ liệu, thông tin, và dữ kiện nào nhằm thúc đẩy tri thức."[2] Creswell định
nghĩa: "Nghiên cứu là một quá trình có các bước thu thập và phân tích thông tin
nhằm gia tăng sự hiểu biết của chúng ta về một chủ đề hay một vấn đề." Nó bao
gồm ba bước: Đặt câu hỏi, thu thập dữ liệu để trả lời cho câu hỏi, và trình bày câu
trả lời cho câu hỏi đó.[3] Từ điển Trực tuyến Merriam-Webster thì chi tiết hơn:
Nghiên cứu là "một truy vấn hay khảo sát cẩn thận; đặc biệt: sự khảo sát hay thể
nghiệm nhắm đến việc phát hiện và diễn giải dự kiện, sự thay đổi những lý thuyết
hay định luật đã được chấp nhận dựa trên những dữ kiện mới, hay sự ứng dụng thực
tiễn những lý thuyết hay định luật mới hay đã được thay đổi đó."[4]
Về các hình thức nghiên cứu.
Nghiên cứu khoa học dựa vào việc ứng dụng các phương pháp khoa học,
khai thác trí tò mò. Hình thức nghiên cứu này cung cấp thông tin và lý thuyết khoa
học nhằm giải thích bản chất và tính chất của thế giới. Nó có thể giúp tạo ra những
ứng dụng thực tiễn. Hoạt động nghiên cứu khoa học được tài trợ bởi các cơ quan
chính quyền, các tổ chức tài trợ, và các nhóm tư nhân, bao gồm nhiều công ty. Hoạt
động nghiên cứu khoa học có thể được phân loại tùy theo lĩnh vực học thuật và ứng
dụng. Nghiên cứu khoa học là một tiêu chí được sử dụng rộng rãi trong đánh giá vị
thế của một cơ sở học thuật.

Nghiên cứu trong các ngành nhân văn liên quan đến những phương pháp
khác nhau, chẳng hạn chú giải văn bản cổ và ký hiệu học, và một nhận thức luận
11


khác, mang tính chất tương đối luận hơn. Các học giả trong các ngành nhân văn
thường không tìm một câu trả lời đúng tối hậu cho một câu hỏi, mà khảo sát những
vấn đề và đặc điểm liên quan đến câu trả lời đó. Bối cảnh ở đây rất quan trọng, và
nó có thể mang tính xã hội, lịch sử, chính trị, văn hóa, hay chủng tộc. Một ví dụ về
nghiên cứu trong các ngành nhân văn là nghiên cứu lịch sử, bao hàm trong phương
pháp sử học. Các nhà sử học sử dụng những tài liệu gốc và những bằng chứng khác
để khảo sát một cách hệ thống một chủ đề, và từ đó viết ra lịch sử theo hình thức kể
lại quá khứ.
Nghiên cứu nghệ thuật, còn gọi là "nghiên cứu dựa trên thực hành", có thể
diễn ra khi công trình sáng tạo được xem vừa là một sự nghiên cứu vừa là một đối
tượng của nghiên cứu.
Lịch sử: Thomas Kuhn, trong cuốn sách của ông Cấu trúc của cách mạng
khoa học, tìm ra một lịch sử thú vị và phân tích quá trình phát triển của nghiên cứu.
Phần lớn các nhà khoa học cho rằng những hiểu biết một cách cơ bản, nền
tảng về tất cả các khía cạnh của khoa học là thiết yếu cho phát triển. Nói một cách
khác, nghiên cứu cơ bản đặt nền tảng cho nghiên cứu ứng dụng tiếp bước. Nếu coi
Nghiên cứu cơ bản là bước đi trước thì sự tiếp nối ứng dụng có thể chính là từ kết
quả nghiên cứu này.
Trong quản lý các hoạt động nghiên cứu, theo tính chất của sản
phẩm, nghiên cứu được phân loại thành: Nghiên cứu cơ bản (NCCB); nghiên cứu
ứng dụng (NCƯD) và nghiên cứu triển khai (NCTK).
Phân biệt các dạng nghiên cứu:
NCCB và NCƯD tuy có khác nhau về mục tiêu sản phẩm, nhưng đều là tìm
kiếm tri thức mới, chưa xác định rõ việc ứng dụng vào thực tế như thế nào nên để
chỉ hai loại nghiên cứu này, người ta dùng chung khái niệm là “NCKH” (Research

scientific – R) như trong Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000 của Việt Nam đã
ghi: NCKH là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
NCKH bao gồm NCCB và NCƯD.

12


NCTK là giai đoạn nghiên cứu có gắn với việc hình thành công nghệ và
được hiểu là giai đoạn nghiên cứu nhằm sáng tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới
(Prototype). NCTK bao gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sáng tạo sản phẩm mẫu, trong đó vận dụng các tri thức khoa
học, là kết quả của giai đoạn “NCKH” để hình thành, sáng tạo ra các hình mẫu mới
(Prototype). Hình mẫu này bản thân nó có thể là một sản phẩm tiêu dùng theo đúng
nghĩa của từ này hay là một công nghệ để chế tạo ra sản phẩm tiêu dùng. Trong giai
đoạn này, người ta sơ bộ hình thành thiết kế và quy trình công nghệ chế tạo ra hình
mẫu mới đó.
Giai đoạn 2: Giai đoạn làm pilot hay còn gọi là sản xuất pilot. Trong giai
đoạn này, người ta thực hiện các nội dung: Hoàn thiện thiết kế, hoàn thiện công
nghệ chế tạo hình mẫu; sản xuất (không trên dây chuyền công nghệ chính thức có
tính công nghiệp) một số lượng nhỏ các hình mẫu và đưa các snr phẩm này vào hoạt
động thực tiễn nhằm khẳng định lại tính năng của sản phẩm hay công nghệ mới như
tính ổn định; kiểm tra các chỉ tiêu kỹ thuật của công nghệ, của sản phẩm…; kiểm tra
các chỉ tiêu khác như tính kinh tế, tác động đến môi trường, ảnh hưởng đến văn hóa,
xã hội,…
Rõ ràng so với NCCB, NCƯD thì NCTK có tính định hướng sản phẩm phục
vụ xã hội, tới công nghệ và sản xuất một cách rõ rệt.
Khái niệm Phát triển và Triển khai
Khái niệm phát triển:
Nội hàm: Tạo ra cái mới hoặc hoàn thiện, làm thay đổi về căn bản cái đã có

để có cái tốt hơn, tiến bộ hơn. Cái mới, cái được hoàn thiện (tức phát triển) có thể
có hai khía cạnh chính: Phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng.
Ngoại diên: Là tất cả các hoạt động tìm kiếm.
Như vậy, phát triển chỉ sự trưởng thành, lớn hơn về chất và về lượng. Nói
cách khác, phát triển là tất cả các hoạt động tìm kiếm nhằm tạo ra cái mới, có thể
làm tăng về số lượng, làm cho tốt hơn về chất lượng hoặc cả hai.
Khái niệm triển khai:

13


Nội hàm: Tiến hành thực hiện một công việc, một nội dung nào đó hay đưa
một nội dung vào cuộc sống.
Ngoại diên: Tất cả việc làm.
Nói cách khác, triển khai là việc làm nhằm thực hiện hay đưa một nội dung
công việc nào đó vào cuộc sống. Người ta thường nói: Triển khai nghị quyết, triển
khai dự án, triển khai kỹ thuật, triển khao hoạt động nghiên cứu… Đó chính là việc
thực hiện cái đã được định sẵn, theo ý đồ đã có từ trước mà không có sáng tạo hay
phát triển thêm cái mới (không hàm ý nghiên cứu).
Trong hoạt động KH&CN, các khái niệm phát triển và triển khai thường gắn
với khái niệm công nghệ. Đó là PTCN và triển khai công nghệ.
Phân biệt PTCN và Triển khai công nghệ
PTCN: Là sáng tạo ra sản phẩm hay công nghệ mới hoặc đổi mới một cách
căn bản công nghệ đã có.
Phân loại PTCN:
PTCN theo chiều sâu hay phát triển về chất lượng công nghệ (Intensive
Development of Technology hay Upgrading of Technology) nhằm sáng tạo ra công
nghệ mới hay làm cho công nghệ cũ trở thành có tính năng tốt hơn, sản phẩm của
công nghệ có chất lượng tốt hơn bằng cách thay đổi có tính căn bản công nghệ đã
có.

PTCN theo chiều rộng hay phổ cập công nghệ (phát triển về lượng –
Extensive Development of Technology): mở rộng công nghệ, nhân bản công nghệ
để có số lượng nhiều hơn.
Triển khai công nghệ: Là đưa công nghệ vào hoạt động sản xuất hay nhân
bản công nghệ để có nhiều công nghệ cùng loại.
Quan hệ giữa PTCN với triển khai công nghệ
Do khái niệm PTCN và triển khai công nghệ trong tiếng Việt đều chỉ tương
ứng với một từ tiếng Anh là Development of Technology nên với ý nghĩa của khái
niệm phát triển và triển khai trong tiếng Việt như trên thì phát triển theo chiều rộng
(về số lượng) thuộc về triển khai công nghệ. Vì lẽ đó, chữ Development của tiếng
Anh dịch sang tiếng Việt với nghĩa là phát triển thì chỉ nên dùng nghĩa phát triển
14


theo chiều sâu (về chất lượng). Với nghĩa phát triển theo chiều rộng (nhân bản về
lượng) thì dịch là triển khai. Ngoài ra, khái niệm triển khai của tiếng Việt còn có
nghĩa là thực hiện hay đưa một nội dung nào đó vào cuộc sống.
Xác định vị trí của từng khái niệm trong hệ thống các khái niệm
Qua các phân tích trên đây cho thấy sự giao thoa giữa lĩnh vực nghiên cứu và
lĩnh vực PTCN như sau:
Nói cách khác, từ giác độ quản lý các hoạt động KH&CN chỉ nên tồn tại 3
khái niệm chính:
NCKH, gồm NCCB và NCƯD.
NCTK và PTCN theo chiều sâu, nếu đứng trên giác độ nghiên cứu xin
khuyến nghị gọi chung là NCTK thực nghiệm. Nếu đứng trên giác độ công nghệ thì
gọi là PTCN. Như vậy, về bản chất khoa học thì NCTK thực nghiệm hay PTCN chỉ
là một. Phương thức quản lý cũng sẽ chỉ là một.
Triển khai công nghệ: Chỉ PTCN theo chiều rộng.
Thực tế ở nước ta, công tác quản lý KH&CN từ trước đến nay đều coi PTC
theo chiều sâu là nghiên cứu và được quản lý theo chế độ đề tài nghiên cứu. Lĩnh

vực PTCN theo chiều rộng được hiểu là mở rộng công nghệ theo cách mua, bán
công nghệ, lắp đặt hay nhân bản công nghệ đã định hình và được quản lý theo Luật
Thương mại, Luật Đầu tư và Luật Chuyển giao công nghệ.
(Theo: TC Hoạt động Khoa học, 4.2011)
+ Nghiên cứu và phát triển
Theo cục thông tin khoa học quốc gia thì Nghiên cứu và phát triển là: bất kỳ
một công việc có tính hệ thống và sáng tạo được tiến hành nhằm gia tăng nguồn tri
thức, bao gồm tri thức nhân loại, văn hóa và xã hội và sử dụng những tri thức này
để phát minh ra những ứng dụng mới.
Công tác nghiên cứu và phát triển cũng nhằm khám phá những tri thức mới
về các sản phẩm, quá trình, và dịch vụ, sau đó áp dụng những tri thức đó để tạo ra
sản phẩm, quá trình và dịch vụ mới, có tính cải tiến để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng hoặc của thị trường tốt hơn. Bao gồm việc đầu tư, tiến hành và/hoặc mua bán

15


các nghiên cứu, công nghệ mới phục vụ cho quá trình tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
R&D và cải tiến công nghệ, quy trình công nghệ luôn là mục tiêu và chức
năng quan trọng của các công ty tiên tiến, công ty đa quốc gia (TNTCs) tiên phong,
lớn trên thế giới. “Để trở thành công ty luôn dẫn đầu thị trường không còn cách gì
khác là luôn phải đi trước đối thủ một bước về phát triển sản phẩm và công nghệ để
đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng với giá cả phải chăng và chi phí tối ưu”.
Nghiên cứu và phát triển là một trong những chìa khóa thành công của nhiều
tập đoàn, công ty lớn trên thế giới. Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản là 3 quốc gia chi
tiêu cho NC và phát triển nhiều nhất, trong khi đó Việt nam đứng thứ 54 trong tổng
sô 72 quốc gia có số liệu được công bố (theo dữ liệu của Worldbank năm 2010).
1.1.3. Kết quả nghiên cứu khoa học
Kết quả nghiên cứu là tác phẩm khoa học

Tác giả của tác phẩm khoa học có các quyền nhân thân, đó là quyền đặt tên
cho tác phẩm; quyền đứng tên đối với tác phẩm và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác
phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ
hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Các quyền nhân
thân này vĩnh viễn thuộc về tác giả, kể cả trường hợp tác giả không là chủ sở hữu
tác phẩm khoa học.
Nếu tác phẩm sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình
để sáng tạo ra tác phẩm khoa học thì tác giả là chủ sở hữu tác phẩm này. Trong thực
tế nghiên cứu khoa học, người đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật phần lớn là
tổ chức (có thể dùng ngân sách Nhà nước) hoặc cá nhân khác, bởi vậy những người
này mới là chủ sở hữu tác phẩm khoa học. Chủ sở hữu có quyền công bố tác phẩm
khoa học, đồng thời có toàn bộ nhóm quyền tài sản được quy định tại điều 20 của
Luật SHTT.
Chúng ta có thể đã gặp trường hợp, tác giả kết quả nghiên cứu sử dụng ngân
sách Nhà nước (hoặc do người khác đầu tư tài chính) đã ký hợp đồng cho phép một
nhà xuất bản phát hành tác phẩm khoa học do mình sáng tạo nên, cho phép người
nào đó dịch tác phẩm khoa học ra tiếng nước ngoài... các hành vi vừa nêu của tác
16


giả thực chất là đã cho phép người khác công bố tác phẩm, làm bản sao tác phẩm,
làm tác phẩm phái sinh, như vậy tác giả đã vi phạm các quyền mà chỉ chủ sở hữu
kết quả nghiên cứu mới có.
Nếu nhiều người cùng đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nghiên
cứu thì họ đồng sở hữu kết quả nghiên cứu, có thể chia ra 2 trường hợp:
Trường hợp 1: đồng sở hữu chung duy nhất, kết quả nghiên cứu không thể
phân chia, dẫn đến bất kỳ một người nào trong số đồng sở hữu cũng không có
quyền thực hiện một quyền tài sản nào đối với kết quả nghiên cứu nếu không có sự
đồng ý của tất cả các đồng sở hữu còn lại.
Trường hợp 2: đồng sở hữu theo phần, kết quả nghiên cứu có thể phân chia,

dẫn đến mỗi người là chủ sở hữu một phần kết quả nghiên cứu căn cứ theo phần
đóng góp tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình cho nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là sáng chế
Tác giả sáng chế có các quyền nhân thân, đó là được ghi tên là tác giả trong
bằng độc quyền sáng chế, được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới
thiệu về sáng chế. Như vậy, khác với tác giả của tác phẩm khoa học, tác giả sáng
chế không có quyền bảo vệ sự toàn vẹn của sáng chế, hay nói cách khác, tác giả
sáng chế không có quyền ngăn cấm chủ sở hữu sáng chế hoặc người sử dụng sáng
chế cải tiến sáng chế.
Nếu tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình
để nghiên cứu tạo nên giải pháp kỹ thuật được bảo hộ là sáng chế thì tác giả là chủ
sở hữu sáng chế. Trong thực tế thì người đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật
phần lớn là tổ chức hoặc cá nhân khác, do đó chính những người này mới là chủ sở
hữu sáng chế. Một trong những quyền quan trọng của chủ sở hữu sáng chế là được
chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (license sáng chế) cho người khác, vì sáng chế
là một dạng tài sản vô hình, bởi vậy chủ sở hữu có thể đồng thời chuyển license
(không độc quyền) sáng chế cho nhiều người khác nhau.
Việc phân định quyền lợi vật chất đối với sáng chế giữa tác giả sáng chế và
chủ sở hữu sáng chế trong trường hợp vừa nêu không khó, nó căn cứ vào thỏa thuận
giữa các bên hoặc theo luật định. Mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu phải trả cho
17


tác giả là 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế, 15%
tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do license
sáng chế.
Trong lĩnh vực quản lý SHTT, có một thuật ngữ chuyên môn, đó là thuật ngữ
“sáng chế công nghệ” (Employee Invention) dùng để chỉ trường hợp sáng chế được
tạo tạo ra trong quá trình tác giả của nó thực hiện công vụ.
Nếu nhiệm vụ chính của tác giả trong quá trình thực hiện công vụ là phải nghiên

cứu để tạo ra sáng chế thì tác giả (người lao động) không là chủ sở hữu sáng chế,
mà chủ sở hữu sáng chế giữa tác giả sáng chế và chủ sở hữu sáng chế trong trường
hợp này như đã nói ở trên.
1.1.4. Chuyển giao công nghệ
Khái niệm chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào khái niệm công nghệ nên
cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Chuyển giao công nghệ là việc có được công nghệ nước ngoài và là một quá
trình vật chất (trí tuệ), là một quá trình về cơ bản một mặt đi liền với việc đào tạo
toàn diện và mặt khác là sự hiểu biết và học hỏi.
Theo UNCTAD (1972) “Chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao kiến
thức có hệ thống để sản xuất ra sản phẩm, áp dụng một quy trình hoặc thực hiện
một dịch vụ”. Theo định nghĩa này bản chất chuyển giao công nghệ là quá trình
chuyển giao kiến thức để sản xuất, áp dụng và thực hiện dịch vụ...
Nawaz Shaif (1983) cho rằng “Chuyển giao công nghệ thường là cách gọi
việc mua công nghệ mới, nó thường xảy ra do có sự tồn tại của người mua và người
bán. Người bán thường được gọi là người giao và người mua thường được gọi là
người nhận của quá trình công nghệ”. Chuyển giao công nghệ có thể diễn ra:
Từ một ngành này sang một ngành khác.
Từ một tổ chức này sang tổ chức khác.
Ở quy mô quốc tế: giữa các quốc gia phát triển; giữa quốc gia phát triển và
quốc gia đang phát triển hoặc giữa hai quốc gia đang phát triển.
Định nghĩa “Chuyển giao công nghệ liên quan đến phương thức một nước
tiếp nhận công nghệ (thu nhận) hoặc khả năng công nghệ từ nước khác. Nó cũng
18


bao gồm bất kỳ hình thức chuyển giao một công nghệ giữa các hình thái tổ chức
hoặc trong nội bộ một tổ chức”. Theo định nghĩa này bản chất của chuyển giao công
nghệ là phương thức thu nhận công nghệ hoặc khả năng công nghệ giữa các địa
điểm hoặc chủ thể khác nhau.

Các định nghĩa trên đưa ra khái niệm khác nhau về chuyển giao công nghệ,
cách hiểu bản chất và phạm vi của từng định nghĩa có khác nhau nhưng trong đó nổi
lên hai nhóm thuật ngữ về đối tượng chuyển giao và mục đích của chuyển giao. (1)
Đối tượng của chuyển giao: có thể là kiến thức (hoặc các hoạt động liên quan đến
kiến thức như đào tạo, bồi dưỡng...); thông tin; thiết bị. (2) Mục đích của chuyển
giao: để sản xuất, áp dụng các quy trình và thực hiện dịch vụ; giải quyết các vấn đề
xã hội và thương mại... nhấn mạnh đến việc thay đổi môi trường công nghệ sang
một địa điểm khác, một môi trường khác.
Chuyển giao công nghệ có thể diễn ra: Từ một ngành công nghiệp sang
ngành khác; từ một tổ chức này sang tổ chức khác; bên cạnh bản chất của chuyển
giao, trong các định nghĩa còn thấy xuất hiện hai loại nhóm thuật ngữ đối tượng của
chuyển giao và mục đích của chuyển giao.
Đối tượng của chuyển giao (chuyển giao cái gì) có thể thấy: Kiến thức;
Thông tin; Thiết bị (hoặc các hoạt động liên quan đến kiến thức như đào tạo, học
hỏi...). Thực ra việc nêu ra các đối tượng chuyển giao trong các định nghĩa là không
cần thiết vì có thể nêu thẳng thuật ngữ “công nghệ” và đương nhiên hiểu nó ứng với
các khái niệm về công nghệ đã được thống nhất từ trước. Đến đây, chúng ta thấy rõ
ràng là khái niệm “chuyển giao công nghệ” sẽ có nội dung tùy thuộc vào cách hiểu
thuật ngữ “công nghệ” đã được quy ước trước.
Mục đích của chuyển giao (chuyển giao để làm gì) chúng ta thấy: để sản
xuất, áp dụng quy trình và thực hiện dịch vụ; Giải quyết vấn đề xã hội và thương
mại. Qua ba loại vấn đề được xem xét trên, trong một định nghĩa hợp lý về chuyển
giao công nghệ có thể sẽ chỉ cần nhấn mạnh đến hai ý: bản chất của chuyển giao và
mục đích của chuyển giao.
Trên khía cạnh pháp luật, Luật chuyển giao công nghệ (2006) quy định:
“Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một
19


phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên

nhận công nghệ”.
Quan điểm của tác giả Luận văn:
Chuyển giao công nghệ là quá trình mở rộng công nghệ từ một môi trường
này sang một môi trường khác từ khu vực này sang khu vực khác bằng các hình
thức khác nhau để tạo ra sản phẩm, thực hiện dịch vụ giữa bên có công nghệ cho
bên nhận công nghệ phục vụ các mục đích khác. Với cách hiểu này của tác giả sẽ
rộng hơn cách hiểu cho rằng chuyển giao công nghệ thực chất chỉ là việc giao dịch
hay mua bán công nghệ.
Hình thức chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ;
Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ (còn gọi là license công nghệ);
Chìa khóa trao tay (Turn-key, Cle’ en main): chủ sở hữu công nghệ chỉ cam
kết chuyển giao công nghệ vận hành được cho doanh nghiệp sử dụng. Sản phẩm
trao tay (Product en main): chủ sở hữu công nghệ cam kết chuyển giao công nghệ
cho doanh nghiệp sử dụng và đảm bảo rằng có loạt sản phẩm được sản xuất bằng
cách áp dụng công nghệ đó.
Thị trường trao tay (Marché en main): chủ sở hữu công nghệ cam kết chuyển
giao công nghệ cho doanh nghiệp sử dụng và đảm bảo rằng có sản phẩm được sản
xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó, đồng thời chia sẻ thị phần tiêu thụ chính sản
phẩm đó.
Các hình thức độc quyền trong license công nghệ:
License độc quyền (Exclusive License): là loại license được thể hiện bởi hợp
đồng độc quyền, đó là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời hạn chuyển giao,
bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng công nghệ, bên chuyển quyền
không được ký kết hợp đồng sử dụng công nghệ với bất kỳ bên thứ ba nào và chỉ
được sử dụng công nghệ đó nếu được phép của bên được chuyển quyền.
License không độc quyền (Non Exclusive License): Là loại license được thể
hiện bởi hợp đồng không độc quyền, đó là hợp đồng mà theo dó trong phạm vi và

20



×