Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Vận dụng quan điểm triết học mác lênin về con người vào xây dựng con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ CHIẾN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
VÀO XÂY DựNG CON NGƯỜI
Ở VIẼT NAM HIÊN NAY




KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC








Chuyên ngành: Triết học

Ngưòi hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ GIANG

HÀ NỘI, 2016


LỜ I CẢM ƠN



Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo - ThS. Nguyễn Thị Giang,
người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt là các thày, cô giáo trong khoa Giáo dục Chính
trị đã giảng dạy, dìu dắt em trong suốt thời gian qua, cùng gia đình, bạn bè đã
tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện khóa luận của mình.
Thông qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bội trung
tâm thư viện thông tin ĐHSPHN2 đã tạo điều kiện cho em được mượn tài liệu
tham khảo có liên qua tới tới đề tài khóa luận này.

EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!

Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Chiến


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những vấn đề trình bày ttong khóa luận là kết quả nghiên
cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tình của ThS .Nguyễn Thị Giang,
không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Neu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiên

Bùi Thị Chiến



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI......... 6
1.1. Quan điểm về con người trong lịch sử triết h ọ c................................... 6
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng con người ở Việt Nam
hiện nay........................................................................................................19
1.3. Nội dung sự vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
vào xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay........................................... 26
Chương 2. THựC TRẠNG VỀ XÂY DựNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY.......................................................................................................29
2.1. Những phẩm chất ở con ngưòi Việt Nam hiện nay............................ 29
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của nó trong việc xây dựng con người
Việt Nam hiện n ay .......................................................................................36
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY DựNG CON
NGƯỜI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY TRÊN Cơ SỞ VẬN DỤNG TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN....................................................................................... 40
3.1 .Quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước............................. 40
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng con người Việt Nam hiện nay.. 45
3.3. Xây dựng những phẩm chất mới ở con người Việt Nam hôm nay phù
họp với sự phát triển của đất nước và thời đại........................................... 53
KẾT LUẬN.................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 60


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tư tưởng về con người của triết học Mác - Lênin được hình thành trên
có sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, từ đó triết học
Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo của thế giới, làm nên lịch sử của
con người. Trong tư tưởng khoa học và cách mạng ấy, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao
cả, thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển vì con ngưòi đưa
con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do.
Từ xa xưa cho đến thời đại ngày nay, con người được xem là vị trí
trung tâm và có vai trò quyết định sự tồn vong, phát triển của xã hội. Con
người được xem là chủ thể của lịch sử, con ngưòi làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy
con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác
nhau như: sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học và trong đó có triết
học. Vấn đề con người đã trở thành một nội dung lớn trong lịch sử triết học
nhân loại và là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết
học Mác - Lênin nói riêng. Con người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch
sử triết học cổ đại đến trung đại.
Ở nước ta trong mỗi thời kì cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn chú
trọng đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và giải phóng con người Việt Nam.
Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế
quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho đất
nước tiến lên. Và cũng chính sự nghiệp đổi mói ấy đã tạo ra nhiều điều kiện
thuận lợi để xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ con người Việt Nam đang ừở lên
lạc hậu hơn, suy thoái về đạo đức, không bắt kịp với lại sự tiến bộ của khoa

1


học kĩ thuật trên thế giới nó đã làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng đất
nước và con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con ngưòi và vận dụng một cách sáng tạo những
quan điểm đó vào việc xây dựng con người Việt Nam nhằm phát huy nhân tố
con nguôi trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta
luôn là vấn đề cấp bách. Giải quyết vấn đề này vừa mang tính lý luận đồng
thời cũng mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng quan điểm triết học Mác Lênin về con người vào xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Con ngưòi luôn là trung tâm của mọi học thuyết khoa học xã hội, là
động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên
thế giói. Do vậy, đây cũng là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
tác giả với nhiều bài viết, nhiều đánh giá, bàn luận trên thế giới và nó còn
được viết dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số tác
phẩm tiêu biểu như:
Vấn đề con người lần đàu tiên được Mác - Ăngghen đề cập đến vào
năm 1848 trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”. Với luận điểm
bất hủ mà hai ông đã đưa ra: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [15, 628].
Đề tài này cũng thu hút nhiều nhà khoa học Việt Nam, các nhà khoa
học nghiên cứu con ngưòi trên nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau... Tiêu
biểu phải kể đến:
“Đe tài khoa học cấp Nhà nước về con người thuộc chương trình
nghiên cứu KHXH-04”, của tập thể giáo sư, phó giáo sư thuộc viện nghiên

2


cứu giáo dục. Đã bổ sung và làm rõ, hoàn thiện quan điểm triết học Mác Lênin về con người. Vai trò của nhân tố con người đối vói sự phát triển của
đất nước. Qúa trình xây dựng con người mới trong thời gian qua. Trên cơ sở

đó tác giả đã nêu lên những giải pháp nhằm phát triển con người mới ở Việt
Nam hiện nay.
Ngoài ra còn một số cuốn sách cũng viết về vấn đề con người như:
Cuốn sách “Vê phát triển con người toàn diện thòi kỳ CNH, HĐH” - do
Giáo sư Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên tính cấp thiết của việc xây dựng và
phát triển con người toàn diện phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Các tiêu chí của một con người toàn diện và đề ra một số biện pháp
xây dựng và phát triển con người toàn diện thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn giáo trình: “Triết học Mác - Lêniri’ do GS,TS: Nguyễn
Hữu Vui-GS,TS: Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên). Cuốn sách này đề cập
đến những nội dung liên quan đến vấn con người như bản chất của con ngưòi,
vị trí, vai trò của con người trong thế giới như thế nào.
Bên cạnh đó viết về con người còn có nhiều tác phẩm, các báo cáo,
các nghiên cứu khác cũng đề cập đến con người và xây dựng con người.
Nhưng nhìn chungcác tác giả điều nghiên cứu con người một cách khái quát
mà chưa đi sâu vào nghiên cứu sâu sắc cụ thể những phẩm chất quý giá của
con ngưòi Việt Nam và xây dựng con người XHCN. Do vậy, đề tài khóa luận
của tôi không có sự trùng lặp vói các công trình trên. Các công trình trên chỉ
có tác dụng tham khảo cho khóa luận.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: Mục đích của khóa luận nhằm làm rõ sự vận dụng quan
điểm triết học Mác - Lênin về con người vào xây dựng con người ở Việt Nam
hiện nay.

3


- Đề tài có nhiệm vụ sau:

Tìm hiểu quan niệm triết học Mác - Lênin về con người.
Phân tích thực trạng xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Đề ra một số giải pháp cơ bản cho vấn đề xây dựng con ngưòi Việt
Nam hiện nay.
4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận là những quan điểm triết học Mác - Lênin về con nguời và
vận dụng quan điểm đó vào xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trong khóa luận này chúng ta chỉ đi nghiên cứu quan điểm triết học
Mác - Lênin về con người vào xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp
cơ bản sau:
- Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sửcủa chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
về bản chất con ngưòi và xây dựng con người xà hội chủ nghĩa.
Nhóm phương pháp cụ thể:
- Phương pháp lôgíc và lịch sử.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp so sánh và đối chiếu...
6. Ý nghĩa của đề tài
* Đóng góp về mặt lý luận:
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ và khẳng định sự đúng đắn, khoa học của
quan điểm về bản chất con người trong triết học Mác - Lênin.

4


- Để làm rõ tính khoa học của quan điểm triết học Mác - Lênin về con

ngưòi và vận dụng nó vào xây dựng con ngưòi Việt Nam hiện nay. Chỉ ra
thực trạng của con người Việt Nam hiện nay và đóng góp một số giải pháp cơ
bản vào xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Đóng góp về mặt thực tiễn:
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, học
tập và có ý nghĩa góp phần đẩy mạnh công tác xây dựng con người hoàn thiện
ừong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương; 8 tiết.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI

1.1. Quan điểm về con ngưcri trong lịch sử triết học
1.1.1. Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Đông
Để nghiên cứu sâu vào vấn đề “Xây dựng con người Việt Nam hiện
nay” thì chúng ta không thể không đi nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm về con người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Đó là cơ sở lý
luận cơ bản để xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Trước hết, chúng ta xem xét về con người trong triết học phương Đông.
Lục địa Châu Ẩ là một châu lục có rất nhiều dân tộc và quốc gia sinh sống.
Trong quá trình phát triển của lịch sử mỗi quốc gia, dân tộc đã có ít nhiều đóng
góp cho loài người những kiến thức, những tư tưởng về nhiều phương diện.
Trong đó có đất nước Tmng Quốc là nước mà có ảnh hưởng nhiều nhất, mạnh
nhất trong khu vực này về con người bởi nó có diện tích rộng, dân số đông và
đã có nền văn hóa, tư tưởng phát triển sớm vượt ra ngoài lãnh thổ, dân tộc

mình và có ảnh hưởng đến các nước láng giềng dân tộc khác.
Trên cơ sở của một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu mà trong đó
luôn có sự chia rẽ, đối kháng giai cấp, vấn đề quan hệ giữa con ngưòi với con
người luôn luôn được đặt ra. Ở Trung Quốc sự phân chia đẳng cấp là hết sức
gay gắt, sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô vói nô lệ, giai cấp phong kiến
với nông dân hết sức nặng nề. Có thể nói đó là nguồn gốc cơ bảncủa nhiều
học thuyết về con người đã thịnh hành ở Trung Quốc. Nhưng trong khuôn khổ
của đề tài này ta chỉ đề cập tói ba học thuyết cơ bản có ảnh hưởng lớn nhất trong
tư tưởng cổ đại cổ đại Việt Nam là “Nho Giáo, Phật giáo và Đạo giáo”.
Các học thuyết này điều đề cập tói mối quan hệ giữa con người vói tự
nhiên, giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và các vấn đề

6


nhân sinh... Nhưng điều chú trọng ở đây là bản chất con người, bởi YÌ các tôn
giáo này đặt ra nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết các vấn chính t r ị - x ã hội, các
vấn đề có liên quan trực tiếp tới con người.
Trên phương diện ba học thuyết trên phải kể đến:
Trước tiên là Nho giáo: đứng đầu là Khổng Tử (551- 479 TCN) cho
rằng: Trời sinh ra con nguôi và vạn vật, không có trời thì không sinh ra được
con người, con người có mệnh có số đều do trời quy định. Tư tưởng duy tâm
này đương thời đã bị các nhà duy vật phảnđối đả kích kịch liệt, sau này đến
thời Tống xuất hiện với bộ mặt “lý”, “lý sinh ra khí” (âm dương ngũ hành)
sinh ra người và vật. Chính vì nhân danh “ttời” và “lý” giai cấp phong kiến
các nước phương đông đã gieo bao đâu khổ chết chóc cho con người, tiến
hành các cuộc áp bức bóc lột các dân tộc nhỏ để hòng bắt buộc họ phải khuất
phục đầu hàng.
Bản chất con người trong Nho giáo đã được nhiều nhà nho trình bày
dưới nhiều quan điểm đa dạng, ví dụ như:

Khổng Tử đề cao tính thiện của con người, theo Khổng tử ngay từ khi
con người sinh ra đã vốn tính thiện (thiện tính) nhưng do quá trình tồn tại và
phát triển, nó đã bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu trong xã hội do đó
tính thiện của con người dần mất đi trong quá trình phát triển.
Mạnh Tử đề xuất để con người giữ được tính thiện của mình phải trau
dồi đạo đức, từ đó hai ông khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý đất
nước bằng đức trị và lễ trị, còn Tuân Tử thì ngược lại, con người bản tính vốn
ác, phải luôn ngăn chặn bằng pháp trị, nhưng quan điểm này được Hàn Phi rất
coi trọng. Thuyết “thiên - nhân hợp nhất” cho rằng, người vói trời hòa hợp, có
tác động lẫn nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực,
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa con ngưòi với tự nhiên, nhưng cũng vì
thế mà con người phải tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán. Thuyết “thiên

7


- nhân bất tương quan” (Tuân Tử) thì ngược lại, về phương diện sinh dưỡng,
người mang ơn trời, về phương diện xã hội, đạo ười không giúp cũng không
hại đến đạo người, vì vậy, con người phải chủ động giải quyết các vấn đề xã
hội, tránh thái độ bị động, trông chờ vào mệnh ười.
Đạo giáo: Khác với quan điểm của Nho giáo khi nói về nguồn gốc con
người, các nhà sáng lập ra đạo giáo cho rằng “Đạo là nguồn gốc của con
ngưòi và vạn vật, đạo là vạn vật chi tông” (nguồn gốc của vạn vật), đạo sinh
ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Nhưng vấn đề đạo
họ đề cập ở đây là gì? Trang Tử nói “đạo là vô vi vô hình” “từ gốc từ rễ, chưa
có trời đất tự cổ đã sinh ra trời, sinh ra đất”. Đã có người tưởng “đạo” có tính
vật chất và cho đạo duy vật. Nhưng thực ra tư tưởng của Đạo giáo là duy tâm,
vì Thiên hạ, vạn vật sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô do đó Đạo giáo mang
tính duy tâm khách quan. Do chống lại Nho giáo thần bí Đạo giáo lại rơi vào
tư tưởng thần bí khác, làm cho con người càng mơ hồ rắc rối.

Tiêu biểu cho quan niệm Đạo giáo mà đứng đầu là Trang Tử xem con
người là một bộ phận của tự nhiên, nhưng chỉ là một loại tự nhiên trong các
loai tự nhiên khác, rằng con người không cao hơn tự nhiên, vì con người có
quan niệm xấu đẹp, ưa thích thì con vật cũng vậy, không biết bên nào làm
thước đo cho bên nào. Cho nên vì thế con người cũng đừng có kiêu hãnh rằng
mình được làm người. Nhưng đôi khi ông cũng cho con người có những quan
điểm khác biệt với bộ phận khác của tự nhiên ông nói: Trâu và Ngựa có bốn
chân đó là ừời (chỉ giới tự nhiên), thắng cương ngựa, xỏ mũi ừâu đó là
ngưòi.Với quan điểm này ông đã nhầm lẫn con ngưòi vói vạn vật đã gây tổn
hại làm mất đi giá trị cao quý của con người. Như vậy thế giới quan của Đạo
giáo là hết sức tiêu cực, không thấy được khả năng nghiên cứu khoa học cũng
như cải tạo hoàn cảnh của con người.
Trong lịch sử, quan niệm về bản chất con người như ừên đã từng thống
trị, là cơ sở đạo đức để giai cấp thống trị giáo dục đạo đức con người. Nhưng

8


do không hiểu đạo đức con người là sản phẩm sinh hoạt xã hội và mỗi giai
cấp trong xã hội điều có đạo đức riêng cho nên ngay từ đầu giai cấp bị thống
trị đã chống lại kịch liệt đạo đức của giai cấp thống trị.
Cùng song song, tồn tại với quan niệm của Nho giáo, Đạo giáo về
nguồn gốc bản chất con người là quan niệm của Phật giáo.
Phật giáo: xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ, Phật giáo lại có quan điểm khác
Đạo giáo không thừa nhận một đấng sáng thế tạo ra con ngưòi, không thừa
nhận linh hồn thế giới là linh hồn cụ thể, mà họ cho rằng con người là nguyên
nhân của chính mình, con người của quá khứ là nguyên nhân của con người
hiện tại, con người hiện tại là nguyên nhân của con người tương lai (thuyết
nhân duyên). Luận điểm này có ý nghĩa tích cực trong việc chống lại chủ
nghĩa số mệnh, nhưng vẫn còn luẩn quẩn trong vòng duy tâm thần bí.Vì vây,

nó không làm ta tiếp nhận tri thức khoa học mà khiến người ta chấp nhận tín
ngưỡng, dù thế nào đi nữa thì Phật giáo cũng cho rằng: con người điều do luật
nhân quả, do nghiệp mà ra, sự tồn tại hay diệt vong đều do vong luôn hồi tạo ra.
v ề bản chất con người Phật giáo không thừa nhận con người là một
thực thể khách quan, vì con người là “vô thường” (luôn luôn biến đổi) không
có dạng ổn định “vô ngã” (không có bản thân mình) “giả tưởng” (giả tạm
không thực). Song Phật giáo cùng thừa nhận con người khác con vật ở chỗ có
“tâm” và “thức”. Tuy vậy tâm là cái thần bí, không sinh ra từ bất cứ cái gì,
nhưng lại có nguồn gốc từ “thức”, đó chính là sự giác ngộ về tâm linh. Do vậy
quan niệm của Phật giáo tuy không hư vô như Đạo nhưng cũng không có một
cơ sở khoa học nào, hơn nữa lại đưa con người vào chỗ u tối, mù mịt.
Tóm lại: Qua việc tìm hiểu nguồn gốc, bản chất con người phương
Đông cổ đại, chúng ta thấy ba học thuyết trên là sản phẩm của chế độ kinh tế
chính trị phương đông, tất nhiên không phải toàn bộ nội dung đó là tiêu cực.
Mà ta vẫn thấy được nét tích cực của nó: như khích động lòng cao thượng

9


trong con người của đạo Phật, điều nhân nghĩa của đạo Nho, coi thường phú
quý của Đạo giáo. Chúng điều là sản phẩm của chế độ nô lệ, phong kiến
không còn lí do nào để tồn tại nữa, nhưng những ảnh hưởng của chúng còn
khá dai dẳng và nặng nề.
Ba học thuyết trên đã thịnh hành ở Việt Nam thời xưa và đã được chế
độ phong kiến đương thời coi đó là quốc giáo và ra sức truyền bá. Khi nghiên
cứu con người, đặc biệt là xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay mà bỏ
qua các quan điểm trên, sẽ là một thiếu sót rất lớn của nước ta khi đi lên xây
dựng CNXH từ một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong triết học phương Đông thể
hiện rất phong phú nhưng mang nặng tính duy tâm. Các học thuyết ấy lấy đạo

đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đềtrong cuộc sống.
Song các chuẩn mực đạo đức, các quan niệm về bản tính con người,
đạo làm người và hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư
tưởng lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng cho thế hệ sau tiếp tục hoàn
thiện, để thể hiện quan điểm của mình.
1.1.2. Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Tây
Triết học phương Tây trước Mác đã thể hiện nhiều quan niệm khác
nhau về con người:
Trong đó, phải kể tới triết học Hy Lạp cổ đại: Con người được xem là
điểm khởi đầu của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm
gương phản chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la.
Prôtago, một nhà ngụy biện cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”. Hay
quan điểm của Arixtốt về con ngưòi, theo ông chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ,
ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là
thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nước thì ông xem con người là
“một động vật chính trị”.

10


Như vậy, trong triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu cũng có sự phân biệt
con ngưòi vói tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại của con
người mà thôi.
Tiếp đến làTriết học Tây Âu thời trung cổ: xem con người là sản phẩm
của Thượng đế sáng tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, lỗi buồn, sự may rủi của
con người điều do thượng đế sắp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh
minh sáng suốt của Thượng đế. Con người trở lên nhỏ bé trước cuộc sống
nhưng đành bằng lòng trước cuộc sống, cam chịu và sống một cuộc sống tạm
bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kì phục hưng và cận đại: đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý

tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng nhằm để giải thoát con ngưòi khỏi những gông cùm
chặt hẹp, mà chủ thần bí thời trung cổ đã kìm hãm, áp đặt cho con ngưòi. Tuy
nhiên để nhận thức đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh học và mặt xã
hội thì chưa có trường phái nào đạt được. Con ngưòi mói chỉ nhấn mạnh về
mặt cá thể mà xem nhẹ xã hội.
Triết học cổ điển Đức: là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở
phương Tây và có ảnh hưởng lớn tới triết học hiện đại. Trong đó, lĩnh vực bàn
về bản chất con người được các nhà triết học thòi kỳ này đặc biệt quan tâm
nghiên cứu, cụ thể trong đó phải kể tới các nhà triết học như.
Can tơ là ngưòi sáng lập ra triết học cổ điển Đức, đã có một bước tiến
xa so vói các nhà triết học trước đó về quan niệm con ngưòi, trong triết học
trước đó về quan niệm của con người trong triết học khi ông cho rằng: Các
nhà triết học xưa nay “từ Arixtốt đến Đêcáctơ” thường chỉ biết bàn đến các
vấn đề bản thể luậnvà nhận thức nói chung như: Vũ trụ là gì? Nhận thức của
con người có đạt tới chân lý hay không?... mà vấn đề quan trọng nhất là con
người. Như vậy trong triết học của Cantơ, con người được bàn với tư cách là

11


chủ thể hoạt động gắn liền với thực tiễn chứ không chỉ đom thuần là dừng lại
ở hoạt động nhận thức, mặc dù Can tơ coi thực tiễn là những hoạt động tinh
thần như: đạo đức, chính trị ... Đây là luận điểm quan ttọng và là một bước
tiến của triết học trong quan điểm của con người. Đồng thời Cantơ cho rằng
con người là chủ thể cũng là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình.
Giói tự nhiên cũng chính là kết quả hoạt động của con ngưòi.
Hêghen, các quan điểm duy tâm về bản chất con người đã tìm thấy sự
hoàn thiện, Hêghen cho rằng: Con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”,
ý niệm tuyệt đối là một thực thể tinh thần tồn tại tha hóa thành thế giới tự

nhiên và con người. Như vậy, tức là Hêghen đã hạ thấp con người xuống địa
vị của các cái chỉ giữ vai trò thể hiện, chỉ là sự khách quan hóa ý niệm.
L.Phoỉơbắc, nhà triết học duy vật, người đã làm nền triết học cổ điển
Đức phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm thần bí của Hêghen, đã cố gắng
tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất con người không theo lối thần bí khó
hiểu của Hêghen song cũng chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về vấn đề
này. Tuy nhiên Phoiơbắc khi bàn tới con người ông lại tuyệt đối hóa mặt sinh
học của con người. Đây làtư tưởng xuyên suốt nội dung triết học của ông.
Ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, con người là biểu
hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giói tự nhiên, “là cái gương của vũ
trụ” thông qua đó giới tự nhiên nhận thức chính bản thân mình. Hơn tất cả các
sự vật hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một thực thể sinh vật
có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, khẳng định sự
thống nhất hữu cơ giữa con gười và tự nhiên, ông nói: Có thể tách con ngưòi
khỏi giói tự nhiên hay không. Con ngưòi là sản phẩm của giới tự nhiên, của
văn hóa và của lịch sử, là một bộ phận của giới tự nhiên mà xét theo bản chất
có tình thương yêu. Hơn nữa, ông còn cho tôn giáo là bản chất của con người
song tôn giáo lại là thứ tình yêu nam nữ. Ở đây Phoiơbắc đã rơi vào duy tâm

12


không hơn gì Hêghen. Ông xem ý thức xã hội phản ánh bản chất con người đó
là tính cảm giác, là sự sống của trí tuệ, trái tim, là những trải nghiệm nội tâm
của người đang yêu, đang yêu, đang đau khổ và vươn tới hạnh phúc...
Ăngghen đã đánh giá con người mà Phoiơbắc đãnói tới vẫn luôn là con người
trừu tượng trong triết học tôn giáo. Hay nói cách khác, hạn chế của Phoiơbắc
ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy con người được tạo nên
và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội. Ông chỉ xét con người về mặt sinh học
với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên, tách rời các điều kiện tự nhiên,

tách rời các điều kiện kinh tế xã hội và lịch sự. Bỏi vậy, đã bộc lộ tính trừu
tượng của cái gọi là “con người cụ thể” của ông.
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính
cũng như học thuyết khác ở phương Tây hiện đại điều coi những yếu tố về
tinh thần như nhu cầu về bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm,... là bản chất
của con người. Con người thường được tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân vói cộng đồng, cá nhân với xã hội
thường được đề cập ở góc độ hoài nghi, bi quan, bế tắc... Tất cả những điều
ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con người trong xã hội phương
Tây hiện đại. Tuy vậy nhưng một số trường phái triết học vẫn đạt được những
thành tựu trong việc phân tích quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập
những giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền
đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Mácxít.
1.1.3. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa mặt tích cực và khắc phục những
mặt hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong
những học thuyết trước đây, để đi tới con người hiện thực, con ngưòi vừa là
sản phẩm tự nhiên và xã hội, Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con
người như một thực thể xã hội, bản chất con người là tổng hòa các mối quan
hệ xã hội.

13


Thứ nhất, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với
xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thòi khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con
người là sản phẩm của giói tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang

tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều
kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con ngưòi. Vì vậy giới tự nhiên là “thân
thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cấp cao nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản
phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người
phải tìm kiếm mọi điều kiện càn thiết cho sự tồn tại trong đòi sống tự nhiên
như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là quá trình con nguời đấu tranh
với tự nhiên. Con người phải thay đổi từ vượn thành người, điều đó đã được
chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn mà
mang tính sinh hoạt mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi
quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người, là
tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên, Những
thuộc tính những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn
phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con ngưòi.
Tuy nhiên, điều càn khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định bản chất con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm lịch
sử khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là sử dụng công
cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội” hoặc con người động vật có tư
duy ... Nhưng những quan niệm trên điều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một

14


khía cạnh nào đó, trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được
nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phưomg pháp biện chứng duy vật, Triết học Mác nhận thức vấn đề
con ngưòi một cách toàn diện cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của
nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác và

Ăngghen đã nêu lên vai ừò của lao động sản xuất ở con người. “Có thể phân
biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tông giáo, nói chung bằng bất
cứ cái gì cũng được. Bản thân con ngưòi bắt đầu từ sự phân biệt vói xúc vật
ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình đó là một bước tiến lớn do tổ chức của con người quy định. Sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình” [9, tr.469].
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
ngưòi tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [9, tr.469].
Tính xã hội của con người được biểu hiện trong toàn bộ hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã
hội của con người.Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đòi sống của mình, hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là
yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thòi hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng lại thống nhất vói nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy
luật về sự phù họp với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống

15


các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các
quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa con người với con người.
Ba hệ thống quy luật ừên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và xã hội. Mối quan

hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành nên hệ thống các nhu càu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu
cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các
giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biên chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu xã
hội trong mỗi con ngưòi thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên
của con ngưòi, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người
với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh
con người và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của
nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để
tạo thành con người, con người tự nhiên - xã hội.
Thứ hai, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giói loài vật, trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ vói tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con ngưòi. Cả ba mối
quan hệ đó, suy cho đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa
con người với con người là quan hệ bản chất bao trùm tất cả các mối quan hệ
khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbẳc, C.Mác đã phê phán
một cách vắt tắt những quan điểm đó và xác lập quan niệm mới của mình:

16


“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữucủa cá nhân
riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngưòi là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội” [9, tr.471].
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con ngưòi trừu tượng, thoát ly

mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định.Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con
người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận cái mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết
là ở bản chất xã hội và đấy cũng là sự khắc phục thiếu sót của các nhà triết
học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là
cái duy nhất; do đó cần phải thấy được cái biểu hiện riêng biệt, phong phú và
đa dạngcủa mỗi cá nhân về cả phong cách và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Thứ ba, con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giói tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con ngưòi. Bởi vậy, con ngưòi là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài
của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử - xã hội.C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ
nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái
học thuyết ấy quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cíăng cần phải được giáo dục” [9, tr.472]. Trong tác phẩm Biện

17


chứng của tự nhiên, Ph. Ăng ghen cũng cho rằng: “Trong các vật của giới tự
nhiên, con người luôn luôn phát hiện ra những đặc tính mới mà từ trước tới
nay chưa ai biết đến” [1, tr. 304]. Hay Ăngghen còn nói “loài vật chỉ lợi dụng

giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đon
thuần do sự có mặt của nó thôi. Còn con người thì do tạo ra những biến đổi
đó, mà bắt giói tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị
giới tự nhiên” [1, tr. 317].
Như vậy với tư cách là thực thể xã hội, con ngưòi hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giói tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật thì dựa vào những điều kiện sẵn
có của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua các hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con ngưòi là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con người đồng thời vừa làm phưomg thức biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở lắm bắt quy luật lịch sử xã hội, con
ngưòi thông qua các hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài ngưòi.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động biến đổi, cũng phải thay
đổi cho phù họp. Bản chất con người không phải hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hòa

18


các mối quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử
với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận

động biến đổi cho phù họp. Có thể phù họp, mỗi sự vận động và tiến lên của
lịch sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn.Hoàn cảnh đó chính
là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con ngưòi theo khuyh
hướng phát triển nhằm đạt tói các giá trị có mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
nghĩa giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích
và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng sử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí
tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tói hoạt động
vật chất.Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người với con người và
hoàn cảnh trong bất kì giai đoạn nàocủa lịch sử xã hội loài người.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng con người ở Việt
Nam hiện nay
1.2.1. Quan niệm về con người của Đảng và Nhà nước
Vấn đề con người là một trong những nội dung quan trọng của học
thuyết Mác - Lênin. Theo quan điểm các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, con người tồn tại với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, cần có
sự phát triển hài hòa, toàn diện. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người, đồng thời xuất phát từ thực tiễn khách quan
cách mạng nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam trong mọi thòi kỳ cách mạng
luôn quan tâm đến vấn đề phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực,
nhất là trong thòi kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng con
người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là

19


nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện
nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX của Đảng đã nhấn

mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn ttọng nghĩa tình, lối sống có vãn
hóa, quan hệ hài hoà ừong gia đình, cộng đồng và xã hội” [6, tr. 114].
Xây dựng con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là
một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá
nhân, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, gắn liền vói các thiết chế và
thể chế văn hóa của đất nước. Vì vậy, cần phải huy rộng sức mạnh tổng họp
và toàn diện của các nguồn lực vãn hóa để giáo dục và xây dựng con người,
bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội cho con
ngưòi phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nước.
Từ những đánh giá ấy, vấn đề xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” là định hướng cần đạt tới, ừong đó mục tiêu về mặt
con người được nêu ra với 5 phẩm chất (mà văn bản gọi là “những đức tính”)
rõ ràng là:
Thứ nhất: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước khỏi đói nghèo và
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Vì độc lập dân tọc tự do của Tổ Quốc và dân tộc, con người Việt Nam
sẵn sàng hy sinh tất cả, hiến dâng tất cả, chịu đựng tất cả và vượt qua tất cả.
Đó cũng là con người đại trí, biết đánh giặc và biết thắng giặc; là con người
đã sáng tạo ra cả một nghệ thuật đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao
độc đáo, đạt đến đỉnh cao ngang tầm vói các thời đại đã qua. Trong tinh thần
dân tộc của con người Việt Nam, lòng yêu thôn xóm và bà con quê hương hết

20


sức đậm đà, đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc lẫn nhau.Tóm lại,

trong con người Việt Nam luôn có truyền thống chiến đấu và chiến thắng
ngoại sâm, đặt quền lợi của Tổ Quốc và dân tộc lên trên hết, quật cường bất
khuất, trí dũng song toàn - con ngưòi anh hùng.
Thứ hai: Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Đây cũng được coi là trong những truyền thống quý báu của nhân dân
ta, là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc ta từ xưa đến nay. Phát huy truyền
thống này trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi con ngưòi Việt Nam hãy biết
giúp đỡ nhau, dựa vào nhau, chung tay cùng nhau vì sự thành công của chế độ
XHCN ở Việt Nam, vì sự tự do, ấm lo, hạnh phúc của con người Việt Nam.
Đồng thời phải đoàn kết với nhân dân tất cả các nước trên thế giới vì một thế
giới hòa bình, phát triển ổn định và bền vững.
Thứ ba: Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, càn kiệm, trung
thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Đây là những con người sẽ tạo nên một xã hội mới phát triển tốt đẹp,
ổn định, các tệ nạn xã hội được đẩy lùi. Con người quý trọng nhau sống với
nhau hòa đồng, êm ấm, hạnh phúc. Tạo điều kiện cho con người Việt Nam
hôm nay phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể mĩ. Đây vừa là mục tiêu vừa là
động lực để phát triển đất nước.
Thứ tư: Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật,
sáng tạo, năng suất cao vì lọi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Con người Việt Nam có truyền thống lao động cần cù, lao động dũng
cảm và sáng tạo. Những đức tính này nâng lên gấp bội khi đất nước bị đô hộ,
hoặc khi dân tộc đứng lên đấu tranh giữ nước, khi những người nông dân
đứng lên khởi nghĩa hoặc ừong nước có nội chiến. Những người nông dân nói
riêng và người lao động Việt Nam nói chung đã phải làm việc trong những

21



×