Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quan hệ hợp tác việt nam – liên xô trong lĩnh vực đào tạo (1950 1991) qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại trung tâm lưu trữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.34 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOÀI

QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO
TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI
TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lƣu trữ học

Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ HOÀI

QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO
TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI
TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lƣu trữ học
Mã số: 60 32 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Xuân Chúc

Hà Nội-2016



MỤC LỤC
Trang
03

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

04

CHƢƠNG 1: THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM KHỐI TÀI LIỆU VỀ
QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC
ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM
LƢU TRỮ QUỐC GIA III

16

1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII

16

1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam
– Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại Trung tâm Lƣu trữ
quốc gia III

18

1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu
về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (19501991)


18

1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ
hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

30

1.2.2.1. Khối lượng tài liệu

30

1.2.2.2. Thành phần tài liệu

31

1.2.2.3. Đặc điểm của tài liệu

33

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ KHỐI TÀI LIỆU VỀ
QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC
ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM
LƢU TRỮ QUỐC GIA III

38

2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực
đào tạo (1950-1991)

38


2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954

38

2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất
đất nước từ năm 1955 đến năm 1964

41

2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm
1975

50

2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm
1976 đến khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm
1991

57

2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

64

1


trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam –

Liên Xô, góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp
tác Việt Nam – Liên bang Nga ngày nay

64

2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt
Nam, trọng tâm là giáo dục đại học

67

2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề
ra các chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS

71

2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu về giới
trí thức Việt Nam

74

CHƢƠNG 3: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ KHAI
THÁC, SỬ DỤNG KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC
VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (19501991) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP

79

3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu

79


3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu

79

3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu

84

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa
học và khai thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo

91

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác,
sử dụng hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo (1950-1991)

93

3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan,
tổ chức và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu

93

3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử
phù hợp với quy định của Nhà nước

94


3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu

95

3.3.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng
tài liệu

96

KẾT LUẬN

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

BẢNG THỐNG KÊ PHỤ LỤC

109

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN - Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNXH - Chủ nghĩa xã hội
DCCH – Dân chủ cộng hòa
ĐSQ- Đại sứ quán

KHKT – Khoa học kỹ thuật
LHS – Lƣu học sinh
NCS – Nghiên cứu sinh
SV – Sinh viên
THCN – Trung học chuyên nghiệp
TTLTQGIII – Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
TTS – Thực tập sinh
TTSKH – Thực tập sinh khoa học
UBKHNN - Ủy ban Kế hoạch Nhà nƣớc
UBKhHNN - Ủy ban Khoa học Nhà nƣớc

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, hợp tác quốc tế luôn giữ
một vai trò quan trọng và không một nước nào có thể tồn tại, phát triển một cách bình
thường nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài. Lịch sử ngoại giao của Việt
Nam chúng ta đã cho thấy, quan hệ Việt Nam – Liên Xô đã có ảnh hưởng to lớn tới
tiến trình cách mạng Việt Nam và góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi quốc
gia. Từ sau khi nước Việt Nam DCCH thành lập, năm 1950, Liên Xô là một trong
những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam,
đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài Việt Xô trước đây và Việt – Nga ngày nay. Mối quan hệ tốt đẹp này được biểu hiện sinh
động và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội
của hai nước, trong đó giáo dục đào tạo là hướng hợp tác trọng tâm và đã thu được
nhiều kết quả tốt đẹp trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.
Hiện nay, Liên bang Nga đang là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của Việt
Nam trên mọi lĩnh vực. Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga hồi tháng 7/2012 nêu rõ, hai bên đều

khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt – Nga là tài sản
quý giá của hai nước và cần tiếp tục phát triển để đáp ứng lợi ích lâu dài của hai dân
tộc. Trong chiến lược ngoại giao Việt – Nga, giáo dục và đào tạo luôn được xác định
là một trong những nội dung hợp tác quan trọng, đưa quan hệ song phương trong lĩnh
vực này lên tầm chiến lược.
Về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, trải qua gần 65 năm thiết lập quan
hệ ngoại giao, Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay đã đào tạo, bồi dưỡng
và nâng cao nghiệp vụ cho hàng chục ngàn công dân Việt Nam ở mọi trình độ từ
nghiên cứu sinh, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với đa dạng
lĩnh vực và ngành nghề đào tạo. Có thể nhận định, giai đoạn phát triển mạnh mẽ và
đạt nhiều kết quả tốt đẹp nhất trong quan hệ hợp tác đào tạo Việt – Nga là từ đầu năm
1950 khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm
1991, quan hệ ngoại giao hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới. Thời gian này,
Liên Xô đã có công lao to lớn trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ Việt Nam để phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nhiều
4


công dân Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành các cán bộ cao cấp của
Đảng và Nhà nước; lãnh đạo các Bộ, ban ngành; các nhà khoa học, sư phạm và các
nhà hoạt động văn hóa – xã hội nổi tiếng của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng
giúp Liên Xô đào tạo nhiều cán bộ trong một số chuyên ngành của lĩnh vực khoa học
xã hội và nhân văn như ngôn ngữ, lịch sử, văn học Việt Nam…Quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đã đem lại rất nhiều kết quả tốt
đẹp cho cả hai phía và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Năm 2015, kỉ niệm tròn 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên
bang Nga. Đây là dịp thích hợp để chúng ta xem xét, đánh giá lại một cách tổng thể
mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô (nay là Việt Nam – Liên bang Nga) đã qua, trong
đó, việc làm rõ và giới thiệu sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong

lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991 qua tài liệu lưu trữ ở TTLTQGIII là thực sự cần
thiết và có ý nghĩa đối với hai quốc gia, góp phần củng cố và tiếp tục đẩy mạnh quan
hệ ngoại giao Việt – Nga trong thời gian tới. Qua đây, nhiều bài học lịch sử sẽ được
rút ra và chắc chắn sẽ giúp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nói chung và hợp tác
đào tạo nói riêng giữa Việt Nam và Liên bang Nga những năm tiếp theo xứng tầm với
bề dày của quan hệ lịch sử giữa hai nước.
Hiện nay, TTLTQGIII đang bảo quản một khối lượng rất lớn tài liệu lưu trữ có
giá trị lịch sử hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức trung
ương và cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và
CHXHCN Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Qua khảo sát và tìm hiểu ban đầu, chúng
tôi được biết, hiện Trung tâm có khoảng 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành
phần tài liệu về quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn
1950-1991 và mức độ nhiều ít khác nhau. Rất nhiều tài liệu trong số đó có nội dung
thông tin quan trọng và có giá trị sử dụng cao đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác
đào tạo giữa hai nước. Đó là những văn bản hợp tác song phương có giá trị pháp lý
quốc tế gồm hiệp ước, hiệp định, nghị định thư, kế hoạch, thỏa thuận hợp tác được kí
kết giữa hai Nhà nước; tài liệu về hoạt động chuyên gia (chủ yếu là chuyên gia Liên
Xô giúp Việt Nam) ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề; các số liệu, báo cáo về kết
quả đào tạo công dân Việt Nam tại Liên Xô ở mọi trình độ; các bức ảnh quý về lễ đón
tiếp, hội đàm giữa lãnh đạo hai nước…
5


Nhận thức rõ việc tăng cường phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia có ý
nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn hết sức sâu sắc, trong những năm qua,
TTLTQGIII đã thực hiện nhiều hình thức phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ nhằm
mục đích đưa tài liệu lưu trữ đến gần hơn với công chúng, phục vụ hiệu quả hơn nhu
cầu khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong đời sống xã hội. Về chủ đề quan hệ hợp
tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, năm 2008, Trung tâm đã thực hiện
một cuộc triển lãm với quy mô tương đối lớn, tại đó trưng bày, giới thiệu hàng trăm

tài liệu lưu trữ và tư liệu tiêu biểu được chọn lọc từ các cơ quan lưu trữ của hai nước
và tài liệu sưu tầm từ các cá nhân đã từng học tập, công tác tại Liên Xô trước đây và
Liên bang Nga hiện nay. So với khối lượng tài liệu hiện đang được bảo quản tại
TTLTQGIII về vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, những tài liệu của Trung
tâm được trưng bày tại Triển lãm khá ít (khoảng vài chục văn bản), tự thân nó không
thể phản ánh một cách đầy đủ nội dung chủ đề triển lãm. Hơn nữa, Triển lãm mới chỉ
công bố, giới thiệu được nội dung những tài liệu tiêu biểu và chỉ dẫn địa chỉ lưu trữ là
các cơ quan (kho) lưu trữ của hai nước, trong đó có TTLTQGIII, hoàn toàn chưa giới
thiệu chi tiết địa chỉ lưu trữ đến từng phông, từng hồ sơ và trang tài liệu để người đọc
có thể tiếp cận tài liệu một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Rõ ràng, công tác phát
huy giá trị của khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
đang bảo quản tại TTLTQGIII đến với công chúng chưa thực sự tương xứng với
nguồn tài liệu khá phong phú, đa dạng về nội dung thông tin và khối lượng tương đối
nhiều tại Trung tâm hiện nay.
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga dù đã có lịch sử lâu dài và đang
được xác định là trọng tâm trong chiến lược ngoại giao của Việt Nam, tuy nhiên, hiện
vẫn còn một bộ phận không nhỏ công chúng chưa có điều kiện và cơ sở để hiểu hết
được mối quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc trong quá khứ, hoặc chưa
thể nhìn nhận và đánh giá được một cách toàn diện và khách quan về các hoạt động
hợp tác đào tạo giữa hai phía trong thời gian qua. Như đã nêu trên, mặc dù hai Nhà
nước Việt – Nga đã phối hợp tổ chức Triển lãm “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua tài liệu lưu trữ” tại Việt Nam và gặt hái được
nhiều thành công, để lại ấn tượng tốt đẹp trong một số đối tượng công chúng. Tuy
nhiên, Triển lãm không thể giúp người xem, người nghiên cứu có cái nhìn nhận và
đánh giá trọn vẹn, đầy đủ về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong quá khứ.
6


Chúng tôi thiết nghĩ, ngoài Triển lãm nói trên, rất cần có thêm nhiều công trình
nghiên cứu, giới thiệu sâu rộng và chi tiết hơn nữa, nhiều sản phẩm của hoạt động

phát huy giá trị tài liệu lưu trữ liên quan đến chủ đề quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
bang Nga nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô nói riêng trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991) để đông đảo các đối tượng công chúng có thể tiếp cận
được với nguồn tài liệu lưu trữ liên quan đến nội dung này.
Xuất phát từ nhận thức và thực tế trên, dưới góc độ nghiên cứu lưu trữ học,
chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991) qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII”
làm đề tài luận văn cao học. Đề tài nghiên cứu này nếu thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với bản thân chúng tôi trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm
nghề nghiệp gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
TTLTQGIII – nơi bản thân đang công tác. Đồng thời, qua đây tác giả cũng mong
muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào một trong những
nhiệm vụ quan trọng của ngành và của cơ quan là đẩy mạnh phát huy giá trị của tài
liệu lưu trữ với tư cách là “di sản văn hóa đặc biệt của dân tộc”, góp phần đắc lực
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài được thực hiện với hai mục tiêu chính sau:
- Giới thiệu nội dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại
TTLTQGIII;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa giá trị nghiên
cứu và sử dụng khối tài liệu trên, đặc biệt trong nghiên cứu lịch sử hợp tác Việt Nam
– Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Khối lượng, đặc điểm, thành phần nội dung và giá trị của khối tài liệu về
quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950- 1991 đang bảo quản tại Trung
tâm;

7



- Công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu về hợp
tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 tại Trung tâm trong thời gian
qua;
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về phạm vi thời gian: Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tài liệu lưu trữ về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo từ năm 1950-1991. Sở dĩ
chúng tôi lấy mốc bắt đầu là từ năm 1950 là vì, ngày 14/01/1950, Chính phủ Việt
Nam ra Tuyên bố về việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế
giới vào ngày, ngay sau đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Liên Xô có Nghị quyết về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày
30/01/1950. Chúng tôi lấy năm 1991 là mốc kết thúc vì năm này, Liên Xô tan rã, 15
nước cộng hòa thành viên của Liên Xô trở thành các quốc gia độc lập. Riêng Liên
bang Nga trở thành nước kế thừa Liên Xô tiếp nối quan hệ ngoại giao với Việt Nam
và quan hệ hợp tác giữa hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới.
- Về phạm vi không gian: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, chúng
tôi chỉ khảo sát, nghiên cứu và giới thiệu khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang được bảo quản và phục vụ khai thác, sử
dụng tại TTLTQGIII.
- Về phạm vi đối tượng nghiên cứu:
Hiện nay, loại hình tài liệu lưu trữ đang được bảo quản và phát huy giá trị tại
TTLTQGIII rất đa dạng, hình thành từ hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
thuộc khu vực thẩm quyền của Trung tâm, gồm tài liệu hành chính, tài liệu KHKT, tài
liệu nghe nhìn và tài liệu có xuất xứ cá nhân; trong đó tài liệu hành chính chiếm
khoảng 70% khối lượng tài liệu Trung tâm thu thập được, với thành phần nội dung vô
cùng phong phú, đa dạng. Về vấn đề nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và khai
thác loại hình tài liệu hành chính chữ viết (tài liệu giấy) đang bảo quản tại Trung tâm.
Như đã giới thiệu, TTLTQGIII hiện đang bảo quản và phục vụ khai thác tài

liệu của 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức, trong đó có thành phần tài liệu về quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thuộc giai đoạn 1950-1991 và mức độ nhiều ít
tài liệu của mỗi phông khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn đề tài này, đối
8


tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ chỉ tập trung giới thiệu các phông lưu trữ có nhiều
nhất khối lượng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo và
thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh để nghiên cứu vấn đề; đồng thời
phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hình thành phông như các phông Phủ
Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp đang bảo quản tại Trung tâm. Đối với các phông còn lại, thành phần tài liệu về
vấn đề nghiên cứu tương đối ít, nội dung thông tin không đầy đủ để phản ánh vấn đề,
vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu khái quát, chủ yếu là thông tin đến các đối tượng
nghiên cứu về tên các phông lưu trữ, chức năng chính của đơn vị hình thành phông và
số lượng hồ sơ về nội dung hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo ở giai
đoạn này thuộc các phông đó.
- Về phạm vi nội dung vấn đề nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát toàn bộ mục lục
hồ sơ tài liệu đang được quản lý tại Phòng Đọc - TTLTQGIII cũng như tiếp cận trực
tiếp tài liệu lưu trữ ban đầu (khoảng 120 hồ sơ), chúng tôi nhận thấy rằng, nội dung
hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô trong lĩnh vực giáo dục đào tạo rất phong phú về
trình độ đào tạo và lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, dàn trải trong khoảng 20 phông lưu
trữ cơ quan, tổ chức và khối tài liệu các công trình XDCB. Trình độ đào tạo phong
phú, từ trung học chuyên nghiệp (học nghề), cao đẳng, ĐH đến NCS, TTSKH và
trình độ cao nhất là đào tạo chuyên gia. Ngành nghề và lĩnh vực hợp tác đào tạo giữa
hai nước rất đa dạng, gồm hầu hết các ngành KHKT và khoa học xã hội nhân văn;
trong lĩnh vực kinh tế ở tất cả các ngành giao thông, xây dựng, công nghiệp, nông lâm - ngư nghiệp; trong lĩnh vực văn hóa xã hội có các ngành văn hóa thông tin, nghệ
thuật, thể thao, y tế…Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi không có tham
vọng nghiên cứu được đầy đủ, chi tiết toàn bộ nội dung hợp tác đào tạo giữa hai nước
gồm tất cả các trình độ và lĩnh vực đào tạo kể trên. Do đó, chúng tôi chỉ giới hạn

nghiên cứu và làm sáng tỏ quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991
về đào tạo các trình độ từ cử nhân trở lên ở tất cả các ngành nghề và lĩnh vực.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, chúng tôi sẽ thực hiện một
số nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát loại hình, khối lượng và thành phần nội dung nguồn tài liệu lưu trữ
về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII;
9


- Giới thiệu tóm tắt quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan, tổ chức hình thành tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo; khái quát khối lượng và giới thiệu, phân tích một số đặc điểm
chính của khối tài liệu này, có gắn với việc xem xét, phê phán tính xác thực của tài
liệu;
- Phân tích, làm rõ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo thông qua tài liệu lưu trữ và đánh giá giá trị của khối tài liệu này đối với
công tác nghiên cứu được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài;
- Nhận xét tình hình tổ chức khoa học và phát huy giá trị khối tài liệu trên tại
TTLTQGIII trong thời gian qua;
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp đối với công tác tổ chức khoa học tài liệu
và phát huy giá trị khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm
trong thời gian tới.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ luôn được xác định là một trong những nhiệm
vụ và mục đích chính của công tác lưu trữ, nhằm đưa tài liệu lưu trữ đến gần với công
chúng với tư cách là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quý giá và có ý nghĩa to lớn
đối với công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử cũng như đối với đời sống
xã hội nói chung.
Về chủ đề quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga

nghiên cứu dưới góc độ lưu trữ, cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu được
chia thành các nhóm sau đây:
- Các công trình nghiên cứu khoa học, có đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc
gia Hà Nội với tên gọi “Các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô
(1950-1991)” của tác giả Đào Xuân Chúc năm 2011. Trong đề tài của mình, tác giả
tập trung khảo sát, giới thiệu các nguồn tài liệu đang bảo quản tại Việt Nam, là
TTLTQGIII, Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Phim Việt Nam, khối
tài liệu cá nhân…về mối quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Liên
Xô giai đoạn 1950-1991. Trong mỗi cơ quan lưu trữ nói trên, tác giả đã giới thiệu một
cách khái quát về loại hình, số lượng và thành phần nội dung của khối tài liệu lưu trữ
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và đánh giá giá trị của nguồn tài liệu cũng như
10


khả năng khai thác, sử dụng chúng vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
lịch sử về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này.
- Các bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt – Nga: Quá khứ và
hiện tại” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội tổ chức ngày 02/11/2007, gồm: “Quan hệ Việt – Nga: Lưu trữ và khai thác các
nguồn tài liệu” của tác giả Nguyễn Thị Hiệp; “Mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô
thông qua tài liệu lưu trữ tại Kho Lưu trữu Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Lanh; “Quan hệ Việt – Nga qua tài liệu lưu trữ” của tác giả
Nguyễn Lệ Nhung và “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ bảo quản tại
TTLTQGIII” của tác giả Nguyễn Minh Sơn.
- Trên Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, 2010 có bài viết “Các nguồn
tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của tác giả Đào Xuân
Chúc đã giới thiệu một cách tóm tắt và khái quát các nguồn tài liệu lưu trữ đang bảo
quản trong các Lưu trữ của Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn
1950-1991, chính là nội dung của công trình nghiên cứu khoa học cùng tên của tác
giả đã nêu trên.

- Ngoài các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả cụ thể nói trên về
quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, còn phải kể đến các
hoạt động công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ theo chuyên đề trong quan hệ hợp tác
ngoại giao Việt - Nga đang được lưu trữ tại hai quốc gia. Đó là Triển lãm “Lịch sử
hợp tác KHKT Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1950-1990” do Cục Văn thư và
Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ Liên bang Nga tổ chức năm
2005 nhân kỉ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô
(30/01/1950-30/01/2005). Triển lãm trưng bày gần 400 tài liệu bằng văn bản, phim,
ảnh, ghi âm, ấn phẩm, bài báo và các hiện vật phản ánh sinh động lịch sử hoạt động
hợp tác kinh tế và KHKT giữa Việt Nam và Liên Xô, Liên bang Nga trong hơn nửa
thế kỷ qua. Ðây là những tài liệu được tuyển chọn từ các kho lưu trữ của Việt Nam và
Liên bang Nga hoặc từ các sưu tập lưu trữ.
Trực tiếp về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, năm
2009, nhân kỉ niệm 59 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước (30/01/195030/01/2009), Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ
Liên bang Nga tổ chức Triển lãm với chủ đề “Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga
11


trong lĩnh vực đào tạo”. Gần 300 tài liệu, hình ảnh, hiện vật được chọn lọc từ các
Lưu trữ của Việt Nam, Liên bang Nga và của các cá nhân đã từng học tập, công tác
tại Liên bang Xô viết trước đây và Liên bang Nga ngày nay. Trên cơ sở các tài liệu và
hiện vật được trưng bày tại Triển lãm, TTLTQGIII đã biên soạn thành cuốn sách
“Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu
lưu trữ” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2011. Cuốn
sách giới thiệu đến bạn đọc các văn bản ngoại giao kí kết hợp tác đào tạo công dân
hai nước, hoạt động chuyên gia của nhiều ngành nghề, lĩnh vực.
Như vậy, các công trình nghiên cứu, bài viết và ấn phẩm nêu trên đã hướng tới
việc giới thiệu tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên
Xô/Liên bang Nga nói chung cũng như đã đi sâu làm rõ một số lĩnh vực hợp tác giữa
hai nước, trong đó có lĩnh vực đào tạo – vấn đề nghiên cứu của tác giả trong đề tài

này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và ấn phẩm kể trên mới chỉ công bố và
giới thiệu một cách khái quát và điển hình các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp
tác trong lĩnh vực đào tạo xuyên suốt lịch sử ngoại giao hai nước đến ngày nay. Đi
sâu giới thiệu và làm rõ nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong
giai đoạn 1950-1991 thể hiện qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII, cho
đến nay, chưa có một tài liệu nào đề cập tới.
6. Các nguồn tƣ liệu tham khảo
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng một số nguồn tư liệu tham khảo
chính sau đây:
- Hồ sơ, tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực
đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII, Hà Nội là nguồn tư liệu chính;
- Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết của các tác giả trên các báo, tạp
chí, kỷ yếu hội nghị khoa học, hội thảo chuyên đề liên quan đến quan hệ Việt Nam –
Liên Xô/Liên bang Nga, trong đó có nội dung hợp tác giữa hai nước;
- Một số xuất bản phẩm nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam, quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, bao gồm các cuốn sách: “Việt Nam –
Liên Xô – 30 năm quan hệ (1950-1980)” do Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova và Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội hợp tác xuất bản năm 1983;“Hợp tác Việt Nam và Liên
bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu lưu trữ” xuất bản năm 2011
12


bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì
lịch sử (1945-2012)” của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; "Lịch sử
giáo dục Việt Nam” của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2013 và cuốn “Lịch sử
ngoại giao Việt Nam 1945-2000” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm
2015…
- Khai thác tư liệu trên mạng Internet, Báo Nhân dân, Tạp chí Văn thư Lưu trữ
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn…
7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi sẽ vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Phương pháp khảo sát: Để khảo sát về loại hình, đặc điểm và thành phần nội
dung tài liệu về vấn đề nghiên cứu đang bảo quản tại TTLTQGIII;
- Phương pháp sử liệu học: Để xem xét, xác định giá trị, độ tin cậy của tài liệu
đề cập đến vấn đề nghiên cứu;
- Phương pháp thống kê: Được áp dụng khi chúng tôi thống kê số lượng hồ sơ và
ĐVBQ có trong các phông lưu trữ; số lượng các tài liệu đề cập đến vấn đề trong các phông;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để tổng hợp thông tin có trong hồ sơ tài liệu
thành các mặt của nội dung vấn đề nghiên cứu; phân tích giá trị của tài liệu, ưu điểm và
nhược điểm của công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác sử dụng tài liệu;
- Ngoài ra, chúng tôi sẽ sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn, trao đổi và
phương pháp so sánh, đối chiếu giữa tài liệu lưu trữ và các nguồn tư liệu khác trong
việc đánh giá tính xác thực, độ tin cậy của tài liệu.
8. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, luận văn giúp người đọc, người nghiên cứu nắm được khái quát nội
dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII;
Thứ hai, luận văn có đưa ra một số đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác, sử dụng và phát huy một cách tích cực
giá trị của khối tài liệu này tại TTLTQGIII trong thời gian tới;
13


Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo, nhà
nghiên cứu và nhân dân về giá trị của tài liệu lưu trữ nói chung và giá trị của tài liệu
lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo nhằm góp phần
củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam với Liên
Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay.

9. Bố cục nội dung của luận văn
Chƣơng 1: Thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung
tâm Lƣu trữ quốc gia III
1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô (19501991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại TTLTQGIII
1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm của khối tài liệu về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
Chƣơng 2: Nội dung và giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung
tâm Lƣu trữ quốc gia III
2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954
2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước từ
năm 1955 đến năm 1964
2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975
2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976 đến
khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991
2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo (1950-1991)
2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô,
góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang
Nga ngày nay
2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, trọng
14



tâm là giáo dục đại học
2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra các
chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS
2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu lịch sử phục vụ nghiên cứu về giới trí
thức Việt Nam
Chƣơng 3: Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng khối tài liệu
về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) và
một số kiến nghị, giải pháp
3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu
3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu
3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai
thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng
hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức
và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu
3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử dụng phù
hợp với quy định của Nhà nước
3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu
3.2.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu

15


CHƢƠNG 1
THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ
HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991)
ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
Với vai trò là một trong bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước, hàng năm liên tục thu thập, bổ sung tài liệu lưu trữ từ các cơ quan,
tổ chức thuộc khu vực thẩm quyền lưu trữ, TTLTQGIII hiện nay đang bảo quản
khoảng 14 km giá tài liệu lưu trữ có giá trị lịch sử, hình thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức Trung ương của bộ máy Nhà nước; các đoàn thể, cá
nhân, gia đình và dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và nước CHXHCN
Việt Nam và các tài liệu khác được giao quản lý trên địa bàn từ tỉnh Quảng Bình trở
ra phía Bắc. Với sự đa dạng về loại hình tài liệu gồm tài liệu quản lý hành chính, tài
liệu nghe nhìn, tài liệu KHKT và khối tài liệu có xuất xứ cá nhân và sự phong phú về
nội dung thông tin, những tài liệu này là những chứng cứ lịch sử phản ánh chân thực,
khách quan và toàn diện cả quá trình thành lập, xây dựng và bảo vệ đất nước Việt
Nam suốt mấy chục năm qua, trong đó có các hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt
Nam với các nước trên thế giới trong mọi lĩnh vực.
Quan hệ Việt Nam - Liên Xô là một phần của lịch sử ngoại giao của Việt Nam
được phản ánh trong tất cả các loại hình tài liệu giấy và tài liệu nghe nhìn đang bảo
quản tại TTLTQGIII. Để có thông tin khái quát nhất và tương đối chính xác về thành
phần, khối lượng và nội dung khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại
Trung tâm, chúng tôi đã kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội “Các nguồn tài liệu lưu trữ ở Việt Nam về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của PGS.TS. Đào Xuân Chúc được thực hiện từ
năm 2007-2009, kết hợp với việc rà soát toàn bộ mục lục hồ sơ các phông lưu trữ cơ
quan, tổ chức và các khối tài liệu khác được tiếp tục bổ sung và thu thập mới vào
Trung tâm từ năm 2010 (sau khi đề tài hoàn thành) đến thời điểm hiện tại. Một số nét
khái quát về khối tài liệu này như sau:
Thứ nhất, về loại hình tài liệu giấy, chúng tôi đã thống kê được khoảng 1900
hồ sơ/ĐVBQ có nội dung về hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 trong
16



35 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức trung ương và một số công trình xây dựng cơ bản
tiêu biểu là Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cầu Thăng
Long...Một số phông có khối lượng tài liệu nhiều nhất là phông Phủ Thủ tướng (488
hồ sơ), phông UBKHNN (128 hồ sơ), phông Bộ Văn hóa (87 hồ sơ) và phông
UBKhHNN (76 hồ sơ); tài liệu còn lại rải rác ở các phông lưu trữ cơ quan, tổ chức
Trung ương khác trong bộ máy Nhà nước, gồm các cơ quan quản lý và các doanh
nghiệp nhà nước. Nội dung hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức của Nhà nước Việt
Nam với Liên Xô (thể hiện qua các tiêu đề hồ sơ) rất phong phú và toàn diện trên mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...Đó là những hồ sơ về các cuộc gặp gỡ,
trao đổi, đàm phán, kí kết các văn kiện hợp tác song phương giữa hai nước; tài liệu
thực hiện quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực; tài liệu về sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên
Xô trong công cuộc kháng chiến kiến quốc của Việt Nam ngay từ khi hai nước thiết
lập quan hệ...Qua khảo sát, chúng tôi thấy tài liệu lưu trữ chữ viết về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm hiện nay chủ yếu phản ánh quan hệ hợp tác trong
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và KHKT.
Thứ hai, về loại hình tài liệu nghe nhìn, hiện nay, Trung tâm đang bảo quản
hàng chục bộ phim thời sự - tài liệu do Liên Xô quay hoặc giúp Việt Nam quay, hơn
2000 tấm ảnh trong tổng số 300.000 tấm ảnh đang được bảo quản tại Trung tâm và
khoảng 60 giờ băng ghi âm, đã ghi chép và phản ánh sinh động các cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam chống thực dân và đế quốc, về các cuộc gặp gỡ, trao đổi và
làm việc giữa hai Đảng và hai Nhà nước cũng như ghi lại những dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự phát triển của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong suốt chặng đường hơn
40 năm quan hệ.
Có thể khẳng định, khối tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô thể
hiện ở tất cả loại hình tài liệu, đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III hiện
nay đã phản ánh tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh mối quan hệ hợp tác hữu nghị, toàn
diện và tình cảm sâu đậm giữa hai nước kể từ khi Liên Xô công nhận và đồng ý thiết
lập quan hệ với Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1991 khi Liên Xô tan rã và chuyển
tiếp sang quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga. Nổi bật trên hết là sự giúp đỡ, ủng hộ
về mọi mặt của Liên Xô trong gần nửa thế kỉ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi

của cách mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa hai nước
trong thời gian này.
17


1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –
Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung tâm Lƣu
trữ quốc gia III
1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về
quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
Qua khảo sát toàn bộ hệ thống mục lục hồ sơ và khảo sát trực tiếp tài liệu lưu
trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII liên quan đến vấn đề nghiên cứu, chúng tôi thống
kê được 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành phần nội dung tài liệu về quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) thuộc phạm vi đối tượng và nội
dung vấn đề nghiên cứu đã được giới hạn tại Phần mở đầu của luận văn. Đó là các cơ
quan, tổ chức trung ương của bộ máy hành chính Nhà nước thời kì 1950-1991 gồm
Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn
hóa, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Nông lâm, Bộ Công nghiệp và Bộ Y tế.
Tuy nhiên, giữa các phông lưu trữ kể trên có sự chênh lệch về khối lượng hồ sơ, tài
liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu và nội dung thông tin tài liệu được phản ánh ở
nhiều mức độ khác nhau. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ tập
trung giới thiệu các cơ quan, tổ chức có nhiều nhất khối tài liệu về quan hệ hợp tác
đào tạo Việt Nam – Liên Xô và thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh
gồm Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN và các cơ quan, tổ chức thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục, đào tạo là Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và
THCN, không xét đến mức độ nhiều ít của tài liệu trong hai phông này. Với các
phông nêu trên, chúng tôi sẽ giới thiệu sự hình thành của các cơ quan cũng như tập
trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này có liên quan đến sự hình thành
các tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong thành phần tài liệu của
mỗi phông.

Riêng đối với phông lưu trữ Bộ Văn hóa, mặc dù số lượng hồ sơ tương đối
nhiều (20 hồ sơ), nhưng tài liệu không liên tục để có thể phản ánh tương đối đầy đủ
nội dung vấn đề; hơn nữa, thông tin tài liệu hầu hết là nội dung các văn kiện hợp tác
giữa hai nước trong một số năm và hoàn toàn trùng lặp thông tin trong khối tài liệu
thuộc các phông quan trọng kể trên và các tài liệu xây dựng, đề nghị phê duyệt kế
hoạch đào tạo LHS của ngành văn hóa tại các nước, do vậy, tài liệu thuộc phông gần
như chỉ có giá trị tham khảo mà ít khai thác, sử dụng để nghiên cứu vấn đề. Cùng với
18


các phông Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp
và Bộ Nông lâm, số lượng hồ sơ tài liệu về vấn đề nghiên cứu khá ít (mỗi phông dưới
10 hồ sơ), chính vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu sơ lược nhất về các cơ quan, tổ chức
hình thành phông, không đi sâu và chi tiết đến lịch sử hoạt động, chức năng, nhiệm
vụ cơ cấu tổ chức cụ thể của nhóm cơ quan này trong luận văn.
* Phủ Thủ tướng
Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH ra tuyên cáo trước
quốc dân đồng bào và cả thế giới về việc thành lập Chính phủ của nước Việt Nam
mới. Phủ Thủ tướng khởi thủy là bộ máy giúp việc cho Chính phủ Lâm thời Việt
Nam DCCH cũng như cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với tên gọi Văn phòng Chủ tịch
Chính phủ, được thành lập ngay từ khi Chính phủ Lâm thời ra đời. Là bộ máy giúp
việc của Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch Chính phủ nắm tình hình tổ chức, nhân viên,
hoạt động của các Bộ; điều hòa và phối hợp hoạt động các Bộ; theo dõi tổ chức và
hoạt động chung của Chính phủ; liên lạc với Ban vận động Thi đua ái quốc; theo dõi
dư luận các tầng lớp dân chúng về hoạt động của chính quyền; thông tin trong và
ngoài nước các hoạt động của Chính phủ; tổ chức các cuộc trưng bày; tổ chức các kì
họp Hội đồng Chính phủ [144, tr.18].
Ngày 02/8/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 87/SL về việc Văn
phòng Chủ tịch Chính phủ đổi tên thành Văn phòng Thủ tướng phủ. Đây là bộ máy
giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Hội đồng

Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng tối cao [146, tr.2 ]. Đến năm 1960, Văn phòng Thủ
tướng phủ được đổi tên thành Văn phòng Phủ Thủ tướng theo Luật Tổ chức Hội đồng
Chính phủ ban hành ngày 14/7/1960 [115, tr.34]. Thời kì này, Văn phòng Phủ Thủ
tướng có các bộ phận giúp việc về lĩnh vực kinh tế đối ngoại (gọi tắt là VP9) và bộ
phận phụ trách lĩnh vực văn xã (gọi tắt là VP15) cùng các bộ phận giúp việc khác.
Đến năm 1972, để phù hợp với tình hình mới của cách mạng Việt Nam, chức
năng, nhiệm vụ cơ bản của Văn phòng Phủ Thủ tướng được quy định: “là bộ máy làm
việc của Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý mọi mặt
công tác của Chính phủ, đảm bảo cho sự chỉ đạo của Hội đồng Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ đối với toàn bộ hoạt động của các ngành, các địa phương được tập
trung, thống nhất và thông suốt; đảm bảo giúp Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức có hiệu quả các Nghị quyết của Hội
19


đồng Chính phủ; đảm bảo sinh hoạt của Hội đồng Chính phủ được đều đặn” [118,
tr.8].
Ngày 18/12/1980, Quốc hội Khóa VI, Kỳ họp thứ 7 đã nhất trí thông qua Hiến
pháp mới, trong đó quy định cơ cấu tổ chức mới của bộ máy lãnh đạo Nhà nước, Văn
phòng Phủ Thủ tướng được đổi tên thành Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 14/7/1981, Quyết định số
161/HĐBT ngày 29/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ về chế độ làm
việc và quan hệ công tác của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp Thường vụ của
Hội đồng Bộ trưởng ngày 24/8/1982, Văn phòng Phủ Thủ tướng có tên là Văn phòng
Hội đồng Bộ trưởng, là bộ máy giúp việc của Hội đồng Bộ trưởng, có nhiệm vụ phục
vụ sự quản lý tập trung thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng; phục vụ sự chỉ đạo và
điều hành công việc hàng ngày của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
[119, tr.88].
* Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
UBKHNN có tên gọi đầu tiên là Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết được

thành lập theo Sắc lệnh số 78 ngày 31/12/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam DCCH, thực hiện nhiệm vụ “nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết
quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, hành chính, văn hóa và thảo ra những đề án
kiến thiết đưa lên Chính phủ” [01, tr.136]. Năm 1955, Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch
kiến thiết được đổi tên thành Ủy ban Kế hoạch Quốc gia tại phiên họp ngày
08/10/1955 của Hội đồng Chính phủ. Thông tư số 603/TTg ngày 14/10/1955 của Thủ
tướng Chính phủ quy định Ủy ban Kế hoạch Quốc gia thực hiện nhiệm vụ “kế hoạch
hóa công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa, tổ chức và chỉ đạo công tác thống kê và
kế toán trong nước” [08, tr.25].
Năm 1961, Ủy ban Kế hoạch Quốc gia được đổi tên thành UBKHNN và thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 158/CP ngày 09/10/1961 của Hội
đồng Chính phủ. Theo đó, UBKHNN “là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn
hóa quốc dân theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho các mặt
của nền kinh tế, văn hóa được phát triển theo đúng những quy luật của chủ nghĩa xã
hội và nâng cao không ngừng đời sống vật chất và văn hóa của quốc dân” [02, tr.28].
20


Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban là “xây dựng kế hoạch Nhà nước hàng năm và kế
hoạch Nhà nước dài hạn phát triển nền kinh tế quốc dân về các mặt, trình Hội đồng
Chính phủ phê chuẩn; nghiên cứu các vấn đề hợp tác kinh tế đối với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, hợp tác KHKT với các nước, tức là các vấn đề có quan hệ đến
công tác xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch [02, tr.28-29]. Thành phần tài liệu
trong phông lưu trữ UBKHNN đã phản ánh rõ nét chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban
trong quá trình hoạt động. UBKHNN là cơ quan xây dựng kế hoạch hàng năm và dài
hạn ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước. Trong lĩnh vực hợp tác đào
tạo ở nước ngoài (có Liên Xô), UBKHNN tổng hợp từ kế hoạch của các Bộ, ban
ngành trung ương và địa phương đề xuất, cân đối và trình Chính phủ phê duyệt. Cũng
như với mọi vấn đề về hợp tác kinh tế và KHKT với nước ngoài, UBKHNN được

Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch hợp tác giữa nước
ta với các nước. Những nhiệm vụ này đã lý giải vì sao phông lưu trữ UBKHNN là
một trong những đơn vị hình thành nhiều nhất tài liệu về kế hoạch và kết quả hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo.
Sau này, để thu gọn đầu mối quản lý theo xu hướng cải cách hành chính nhà
nước, ngày 21/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã ra Nghị quyết thành lập
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở hợp nhất UBKHNN và Ủy ban Nhà nước về Hợp
tác và Đầu tư.
* Ủy ban Khoa học Nhà nước
Năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kì khôi phục
và phát triển kinh tế, KHKT được Đảng và Nhà nước xác định là nguồn lực và động
lực vô cùng quan trọng đối với công cụộc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội nói
chung. Trong hoàn cảnh đó, tại kì họp thứ 8, Quốc hội Khóa I ngày 29/4/1958 đã
thông qua Nghị quyết về việc thành lập UBKhHNN. Ủy ban thực sự hoạt động ngay
sau Nghị quyết của Quốc hội, nhưng tới ngày 04/3/1959, Chủ tịch nước ban hành Sắc
lệnh số 016-SL thành lập UBKhHNN có quyền hạn và trách nhiệm ngang một Bộ.
Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN được quy định tại
Nghị định số 43-CP ngày 04/04/1962 của Hội đồng Chính phủ. Ủy ban “là cơ quan
của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác khoa học, kỹ thuật theo
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và
kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật, mở rộng hợp tác với nước ngoài về mặt
21


nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đưa nền khoa học kỹ thuật Việt Nam lên trình độ tiên
tiến, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng, góp phần đẩy
mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà” [65, tr.1].
Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban được quy định tại Nghị định bao gồm:
- Xây dựng chế độ đào tạo nghiên cứu sinh (gồm đào tạo trong nước và nước

ngoài) và theo dõi việc thực hiện chế độ ấy [65, tr.1-2]. Theo Thông tư số 445/LHSQL ngày 07/02/1963 của Bộ Giáo dục về việc thống nhất danh từ các loại LHS do Bộ
Giáo dục quản lý, hàng năm, NCS và TTSKH đi học nước ngoài qua con đường ĐSQ
của ta hoặc qua con đường kí hiệp định trao đổi văn hóa mà trung gian là Ủy ban
Liên lạc văn hóa với nước ngoài. Ngoài ra, còn có con đường thương lượng trực tiếp
giữa UBKhHNN với Viện Hàn lâm Khoa học nước bạn. Tuy nhiên, chế độ tổ chức và
chế độ đào tạo đều giống nhau, do UBKhHNN xây dựng và theo những quy chế
chung của Bộ Giáo dục Cao đẳng nước bạn.
- Trong phạm vi uỷ quyền của Chính phủ, UBKhHNN ký kết với các cơ quan
khoa học, kỹ thuật nước ngoài các hiệp định về hợp tác KHKT và các nhiệm vụ,
quyền hạn khác [65, tr.1-2]. Điều này lý giải cho việc có một số hiệp định và kế
hoạch hợp tác KHKT được kí kết giữa UBKhHNN Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa
học Liên Xô trong thành phần khối tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai nước giai đoạn
1950-1991 tại TTLTQGIII.
Ngoài ra, UBKhHNN được Chính phủ giao thêm các nhiệm vụ: Nghiên cứu và
trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn phương hướng, kế hoạch phát triển khoa học, kỹ
thuật của Nhà nước; tổ chức việc điều hòa, phối hợp công tác nghiên cứu khoa học,
kỹ thuật giữa các Bộ, các ngành, các cấp nhằm thực hiện phương hướng, kế hoạch ấy;
theo dõi tình hình đội ngũ cán bộ KHKT; thi hành các hiệp định mà nước ta đã ký kết
với nước ngoài về mặt nghiên cứu KHKT [65, tr.1-2]
Năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tách UBKhHNN thành
2 cơ quan độc lập là Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã
hội. Ngày 27/5/1967, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 67-CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.
Trách nhiệm của Ủy ban “vừa quản lý thống nhất và tập trung công tác khoa học tự
22


nhiên và kỹ thuật, vừa làm công tác của một Viện nghiên cứu khoa học (khoa học tự
nhiên và kỹ thuật) của Nhà nước theo đường lối của Đảng, các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện cuộc cách mạng kỹ thuật ở nước ta một

cách tốt nhất và nhanh nhất, phục vụ đắc lực cho sản xuất, chiến đấu và đời sống
nhân nhân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thực
hiện thống nhất nước nhà” [05, tr.155].
Đến năm 1990, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được đổi tên thành
UBKhHNN, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học tự nhiên,
KHKT, khoa học xã hội nhằm khuyến khích việc sáng tạo và ứng dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học và kỹ thuật, đưa lại hiệu quả thiết thực cho thời kỳ phát triển mới
của đất nước. Quá trình hoạt động của UBKhHNN kết thúc vào năm 1992, khi Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập.
* Bộ Giáo dục
Bộ Quốc gia Giáo dục (sau này là Bộ Giáo dục) là một trong 13 Bộ được
thành lập ngay từ thời kỳ đầu của chính quyền dân chủ nhân dân (trong bản Tuyên
cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Việt Nam DCCH). Ngày 09/7/1946, Chính phủ
ban hành Sắc lệnh số 119/SL về việc tổ chức Bộ Quốc gia Giáo dục [143, tr.2].
Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Giáo dục được quy định tại
Nghị định 198CP ngày 07/11/1961 của Hội đồng Chính phủ. Nghị định quy định “Bộ
Giáo dục có trách nhiệm quản lý công tác giáo dục theo đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm và kế hoạch phát triển sự nghiệp
giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người
lao động có giác ngộ XHCN, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ văn hóa và kỹ
thuật, có sức khỏe và góp phần nâng cao không ngừng trình độ văn hóa, kỹ thuật cho
cán bộ và nhân dân lao động; cùng với các Bộ có liên quan phụ trách việc đào tạo
cán bộ khoa học kỹ thuật để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa XHCN”
[03, tr.24].
Một số nhiệm vụ và quyền hạn chính Bộ Giáo dục:
“- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ,
thể lệ về giáo dục, tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ ấy;

23



×