Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRONG NHỮNG NĂM 1954 - 1975 - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.53 KB, 62 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



ĐINH THỊ LÝ




QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ
TRONG NHỮNG NĂM 1954 - 1975



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Sơn La, năm 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐINH THỊ LÝ




QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ
TRONG NHỮNG NĂM 1954 - 1975



Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: ThS. Bùi Mạnh Thắng



Sơn La, năm 2013


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo
Th.S Bùi Mạnh Thắng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong thời gian làm khóa luận! Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện
của các thầy, cô giáo trong Khoa Sử - Địa, Phòng Đào tạo, Thư viện Trường Đại
học Tây Bắc! Xin cảm ơn bạn bè trong lớp đã ủng hộ, động viên tôi trong quá
trình thực hiện khóa luận này!

Khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được
sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn để khóa luận này được
hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Tác giả

Đinh Thị Lý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 2
3.2. Nhiệm vụ của đề tài 2
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 3
4.1. Nguồn tài liệu 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục của khóa luận 3
Chương 1: KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRƯỚC
NĂM 1954 4
1.1. Khái quát quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước năm 1950 4
1.2. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1950 - 1954 11
Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRONG NHỮNG NĂM
1954 - 1975 16
2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1960 16

2.2. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1960 - 1964 20
2.3. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1964 - 1973 24
2.4. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1973 - 1975 32
Chương 3: NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI VÀ TÁC DỤNG CỦA QUAN
HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRONG NHỮNG NĂM 1954 – 1975 36
3.1. Những nhân tố chi phối đến quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những
năm 1954 - 1975 36
3.2. Tác dụng của quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1975
47
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã ghi nhận những kỳ tích tuyệt vời của dân tộc Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ cứu nước, trong
đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đi vào lịch sử như một sự kiện hào
hùng nhất của một dân tộc nhỏ bé đã vượt qua những thách thức vô cùng to lớn
để chiến đấu và chiến thắng một tên đế quốc sừng sỏ nhất thế giới. Trong cuộc
kháng chiến thần thánh đó, chúng ta đã nhận sự giúp đỡ to lớn của các nước anh
em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô - người
anh cả trong hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: " Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là
hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Vì lợi ích của
nhân dân hai nước, từ nay về sau, chúng ta tiếp tục phát triển hơn nữa tình đoàn
kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô. Chúng ta coi đó là
một đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc bảo vệ tổ quốc và xây dựng xã hội

chủ nghĩa trên bán đảo Đông Dương, đồng thời đó là một đóng góp tích cực vào
việc củng cố và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng cường cuộc đấu
tranh vì hoà bình và dân chủ thế giới " [18;3]. Tư tưởng đó trong bất cứ hoàn
cảnh nào vẫn luôn tỏ ra đúng đắn, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
xâm lược của nhân dân ta. Nhân dân Việt Nam cho tới nay vẫn chưa quên sự
giúp đỡ của Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô, đặc biệt trong những lúc
khó khăn nhất. Tình cảm của nhân dân Liên Xô về tinh thần cũng như về vật
chất thật sâu đậm, to lớn và mang ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc đấu tranh
giành độc lập thống nhất của Việt Nam.
Thực tế đã cho thấy, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, quan
hệ Việt Nam - Liên Xô luôn ấm nồng, tin cậy và vượt qua mọi thử thách của
thời gian cũng như biến động lịch sử.
Xuất phát từ thực tế trên, với mong muốn tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam -
Liên Xô, đặc biệt là tình hữu nghị, hợp tác, sự tương trợ, giúp đỡ của nhân dân
Liên Xô đối với nhân dân Việt Nam trong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, tôi mạnh dạn chọn đề đài: "Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những
năm 1954 - 1975" làm khoá luận tốt nghiệp. Thông qua đề tài này, tôi hi vọng
rèn luyện cho mình những phương pháp, kỹ năng nghiên cứu một vấn đề lịch sử
cụ thể nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập sau này.



2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm kháng chiến chống
Mỹ đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu của các tổ chức, cá
nhân ở trong cũng như ngoài nước.
Năm 1980, cuốn "Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan hệ (1950 - 1980)" do
Nhà xuất bản Ngoại giao Hà Nội và Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva đã sưu tầm
những văn kiện quan trọng, tiêu biểu nhất mà hai nước đã kí kết trong 30 năm kể

từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
Tác phẩm "Tình hữu nghị hợp tác Việt Nam - Liên Xô đời đời bền vững" do
Sở Văn hoá và Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản năm 1983 đã đề cập đến tình hữu
nghị thắm thiết và sự hợp tác toàn diện, đầy hiệu quả giữa Liên Xô và Việt Nam.
Tác phẩm "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Thắng lợi và Bài
học" do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995, của tập thể tác giả
trong Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh đã tổng kết những bài học quý báu trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, đặc biệt là bài học chiến lược đoàn
kết quốc tế mà trước hết là đoàn kết với Liên Xô.
Năm 2010, tác phẩm "Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam - Tác
động của những nhân tố quốc tế" của tác giả Nguyễn Khắc Huỳnh do nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia đã đề cập khái quát cuộc chiến tranh Việt Nam xung
quanh vấn đề "tam giác chiến lược" giữa Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc.
Có thể nói, nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đã đề cập đến
quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1975, nhưng với mong
muốn tiếp tục đi sâu nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Liên Xô, đặc biệt là tình hữu
nghị, hợp tác, sự tương trợ, giúp đỡ của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân Việt
Nam trong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên tôi chọn đề tài này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tất cả những công trình trên đã góp phần định
hướng và là nguồn tài liệu tham khảo quí để tôi đi vào nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô trong những
năm 1954 - 1975.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong lịch sử đến
năm 1954.


3

- Tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1975
- Tìm hiểu những nhân tố chi phối đến quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong
giai đoạn này và tác dụng của của mối quan hệ đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung tìm hiểu quan hệ Việt Nam - Liên Xô, đặc biệt đi sâu
nghiên cứu viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong những năm 1954 - 1975.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi tham khảo các văn kiện của Đảng, các
bài viết của của các nhà lãnh đạo cách mạng và các cơ quan chuyên môn cùng
các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp phương
pháp logic.
Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
phân tích để thấy được diễn biến, tác dụng và các nhân tố tác động đến quan
hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1975.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, đề tài được bố
cục thành 3 chương:
Chương 1. Khái quát quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước năm 1954
Chương 2. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 – 1975
Chương 3. Những nhân tố chi phối và tác dụng của quan hệ Việt Nam -
Liên Xô trong những năm 1954 - 1975










4
Chương 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRƯỚC NĂM 1954

1.1. Khái quát quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước năm 1950
Ngày 30/1/1950, Liên Xô và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao. Sự kiện này đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác
tốt đẹp giữa nhân dân hai nước. Nhưng không phải đến năm 1950 hai nước mới
có quan hệ với nhau mà mối quan hệ này đã từng bước được thiết lập từ những
năm trước đó.
Năm 1917, trên đất nước Nga rộng lớn diễn ra một cuộc cách mạng "vĩ đại
nhất trong lịch sử loài người”. Đó là cuộc cách mạng của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động nước Nga, cuộc cách mạng không những có ý nghĩa to lớn
đối với lịch sử nước Nga mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và
cục diện thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Xô viết đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ
thống hoàn chỉnh bao trùm thế giới. Thế giới đã phân chia thành hai hệ thống xã
hội đối lập - hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, Cách mạng tháng Mười đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử đấu tranh
giải phóng nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mĩ
Latinh. Thực tiễn Cách mạng tháng Mười không những đã thức tỉnh và cổ vũ mạnh
mẽ ý chí đấu tranh của các dân tộc bị áp bức mà còn chỉ ra con đường đúng đắn đi
tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái Đất.
Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và
sâu xa như thế” [14;461]. Và Việt Nam, lúc đó đang là một nước thuộc địa của

thực dân Pháp đã nhanh chóng tiếp thu con đường đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây
dựng nền móng cho quan hệ Việt Nam - Liên Xô. Trên hành trình gian khổ đi
tìm đường cứu nước, khi nghe tin Cách mạng tháng Mười Nga thành công,
Người đã có cảm nhận về một đất nước mà nắm quyền là những người lao động:
"Khi mặt trời Nga mọc ở phương Đông
Cây cay đắng cũng ra những quả ngọt
Người cay đắng cũng phải chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông”
(Chế Lan Viên)


5
Những ngày cuối năm 1919, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã có những hoạt
động đầu tiên ủng hộ cách mạng tháng Mười trong bối cảnh nước Nga đang bị
các thế lực thù địch tấn công dữ dội trên mọi lĩnh vực. Người đã tích cực hoạt
động trong Uỷ ban Quốc tế III của Đảng xã hội Pháp như đi quyên góp tiền
trong các phố Pari để giúp Cách mạng Nga vượt qua nạn đói. Người còn tham
gia phát truyền đơn của Đảng xã hội Pháp kêu gọi nhân dân Pháp lên án sự can
thiệp vũ trang của Chính phủ vào nước Nga, hoan nghênh cách mạng Nga.
Tháng 2/1920, Nguyễn Ái Quốc nói về chủ nghĩa Bônsêvich Châu Á tại Hội
nghị những người thanh niên cộng sản Quận 2 Pari. Tháng 3, Người nói về chủ
nghĩa xã hội với thanh niên Quận 3. Xuyên suốt cả cuộc đời mình, Người luôn
khẳng định: "Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân
tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử giải phóng các dân
tộc và cả loài người thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên toàn thế giới” [12;38].
Vào giữa năm 1920, Nuyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên
báo Nhân đạo. Người đã vô cùng xúc động và muốn nói cùng dân tộc: “ Hỡi

đồng bào bị đày đọa đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta” [17;127] và Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức vfa
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [17;127]. Cũng từ đây,
người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Ngày 7/11/1926, với bút
danh Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết hai bài: "Sơ lược ông Lênin” và "Kỉ niệm
nước Nga thành công” để ca ngợi vị lãnh tụ Lênin và ca ngợi nước Nga Xô viết.
Người cũng đề cập đến quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô: Cách mạng Nga như
đắp đường cho chúng ta cứ thế mà đi mà bước.
Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng là một trong những người Việt Nam đầu
tiên tiếp xúc với nước Nga Xô viết. Trước là công nhân thợ máy đóng tàu Sài
Gòn, năm 1916, Tôn Đức Thắng bị động viên vào Hải quân Pháp. Ngày
7/11/1917 khi Cách mạng vô sản Nga thành công, các nước đế quốc câu kết
nhau can thiệp vũ trang, hòng bóp chết nhà nước công nông đầu tiên trên thế
giới. Ngày 16/4/1919, một hạm đội Pháp gồm 5 chiến hạm: Phờrăngxơ, Phơrôtô,
Grăngba, Giuýtxtít và Vanđếch Rútxô tiến vào Biển Đen, bắn phá hải cảng
Xêvaxtôpôn. Lúc này, Tôn Đức Thắng là một thợ máy trên chiến hạm
Phờrăngxơ đã cùng anh em binh sĩ Pháp dũng cảm đứng lên phản chiến. Toàn
thể binh lính và công nhân đã cử đại biểu đến gặp Ban chỉ huy đòi đình chỉ cuộc
can thiệp chống nước Nga Xô viết và từ chối thi hành mệnh lệnh tiến công.


6
Được đồng đội phân công, Tôn Đức Thắng đã kéo cờ đỏ trên chiến hạm để chào
mừng nhà nước vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người. Kết quả, âm mưu tấn
công nước Nga Xô viết của đế quốc Pháp bị thất bại. Tháng 11/1967, nhân kỷ
niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Nhà nước Liên Xô đã
tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Lênin, huân chương cao nhất của
Liên Xô để ghi nhận công lao của đồng chí trong sự nghiệp bảo vệ Cách mạng
tháng Mười Nga và xây dựng tình hữu nghị Xô - Việt.

Cách mạng tháng Mười Nga thành công có ảnh hưởng rất to lớn đối với
cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thế giới nói chung. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có những nhận xét sâu sắc, toàn diện về Cách mạng tháng Mười
Nga. Từ đó, Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo cách mạng vô sản
bằng cách vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của nước Nga Xô viết,
và thực tế lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng
những bài học Cách mạng tháng Mười Nga vào cách mạng Việt Nam. Sau khi
đã tin và lựa chọn theo con đường của Lênin, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt
động, trau dồi kiến thức và truyền bá chủ nghĩa cộng sản và Cách mạng tháng
Mười về nước qua nhiều sách báo, đặc biệt là hai tác phẩm "Chế độ thực dân
Pháp” và "Đường Kách Mệnh”. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách
mạng trong nước đã dẫn đến yêu cầu cần phải có một tổ chức cách mạng tổ chức
và lãnh đạo quần chúng nhân dân. Nhận thức được yêu cầu đó, tháng 6/1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên gồm những
thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động lại
phân hoá thành các tổ chức cộng sản khác nhau: Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ
chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản
đảng. Tháng 8/1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và Kì bộ Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kì cũng quyết định lập An Nam Cộng
sản đảng. Tháng 9/1929, một số đảng viên tiến tiến trong Đảng Tân Việt tuyên
bố thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Trong vòng nửa năm, 3 tổ chức cộng sản đã liên tiếp ra đời và tranh giành
phạm vi ảnh hưởng ở trong nước làm ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách
mạng. Nhận được tin có ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động ở Việt Nam, Quốc
tế Cộng sản đã gửi thư kêu gọi các nhóm cộng sản thống nhất lại và cử đồng chí
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là Uỷ viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục
phương Nam, phái viên của Quốc tế Cộng sản tổ chức cuộc họp để hợp nhất các
tổ chức thành một Đảng duy nhất. Ngày 6/1/1930, tại Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được triệu tập. Sau khi
thảo luận, các đại biểu nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng



7
duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Sau khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam, lực lượng của Đảng càng mạnh, tổ chức được thống nhất,
cương lĩnh của Đảng được xác định rõ ràng. Đảng đã nhanh chóng tập hợp và
lãnh đạo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, cách mạng Việt Nam cũng rơi vào
một giai đoạn hết sức khó khăn, thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố dã man
kéo dài liên tục từ cuối năm 1930 đến năm 1935. Từ sau cao trào Xô viết Nghệ
Tĩnh đến năm 1935, phần lớn các tổ chức của Đảng bị tan rã hoặc bị tê liệt do
chính sách đàn áp của thực dân Pháp. Mối liên hệ giữa cơ quan Trung ương và
đảng bộ địa phương và giữa các cơ sở Đảng trong một địa phương bị cắt đứt,
toàn bộ Ban Thường vụ và một số cán bộ xứ uỷ, tỉnh uỷ cũng bị bắt và giết
hại. Các lãnh tụ và những cán bộ cốt cán của Đảng từ Nguyễn Ái Quốc, Trần
Phú, Nguyễn Phong Sắc, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh đều bị bắt, bị truy nã
hoặc bị kết án tử hình. Trước tình hình trên, việc khôi phục Đảng là một nhiệm
vụ lịch sử cấp thiết của sự nghiệp giải phóng nhân dân ta.
Trong thời gian này, Liên Xô trở thành hậu phương, nơi đào tạo nguồn cán
bộ cho Việt Nam, nhiều hạt giống cách mạng đã được học tập và làm việc ở
Liên Xô. Tháng 8/1927, Lê Hồng Phong cùng nhóm thanh niên tình nguyện Việt
Nam đang theo học tại Trường Không quân Quảng Châu (Trung Quốc) được cử
sang học tại Trường Không quân Liên Xô. Tuy nhiên, vì nhiều lí do, Lê Hồng
Phong là người duy nhất trong nhóm tiếp tục học tại trường Lêningrát (Liên
Xô). Từ tháng 12/1927 đến tháng 11/1928, Lê Hồng Phong theo học Trường
Không quân số 2 ở Bôrisôclít (Liên Xô). Từ tháng 12/1928, Lê Hồng Phong
theo học tại Trường Lao động Cộng sản phương Đông của Quốc tế Cộng sản
ở Mátxcơva (Liên Xô) với bí danh Litvinov. Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng
Phong tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc trung tá. Sau một thời gian

dài học tập và làm việc tại Liên Xô, tháng 11/1931, Lê Hồng Phong được cử
về nước tham gia công tác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng với nhiệm
vụ định hướng cho phong trào hoạt động cách mạng trong nước. Lê Hồng
Phong đã tham gia soạn thảo chương trình hoạt động của Đảng và được Quốc tế
Cộng sản thông qua.
Trong thời gian này, do tình hình trong nước không thuận lợi nên Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc chưa thể về nước được. Năm 1933 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
theo học Trường Lênin. Đây là trường Đảng cao cấp cho các lãnh tụ nước ngoài,
trường này có hai ban: ban dài hạn 3 năm và ban ngắn hạn 6 tháng. Lãnh tụ


8
Nguyễn Ái Quốc học ban ngắn hạn. Trong thời gian học ở trường, Người liên hệ
với nhóm cộng sản Việt Nam rất chặt chẽ. Học xong Trường Lênin, Người
chuyển hẳn sang Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời
làm việc ở Quốc tế Cộng sản. Tại đây, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng tranh
thủ dạy nhóm học sinh của Việt Nam về tổ chức và lịch sử Đảng nhằm bồi
dưỡng lòng trung kiên của các đồng chí. Vào mùa thu năm 1934, đồng chí Lê
Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và một đồng chí người Nùng quê ở Cao
Bằng tiếp tục sang Liên Xô theo học lớp đặc biệt của Viện Nghiên cứu các
vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Năm 1936, tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, "Trục phát xít
Beclin - Tôkyô - Rôma” được thiết lập với chính sách đối nội, đối ngoại cực kì
phản động. Sự ra đời của trục phát xít đã đặt nhân loại trước nguy cơ một cuộc
chiến tranh thế giới. Đứng trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản đã họp lần thứ
VII vào tháng 7/1935 để xác định kẻ thù và nhiệm vụ trước mắt là chống chủ
nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận
rộng rãi của nhân dân thế giới chống phát xít, chống chiến tranh. Sự chuyển
hướng chỉ đạo kịp thời của Quốc tế cộng sản mà đứng đầu là Đảng Cộng sản
Liên Xô có ý nghĩa hết sức to lớn. Các lực lượng dân chủ trên toàn thế giới đã

được tập hợp lại dốc sức đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến
tranh, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên toàn thế giới.
Tiếp thu chủ trương của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã có sự chuyển hướng chỉ đạo mới trong Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tháng 5/1941: Tạm gác khẩu hiệu "chống đế quốc Pháp và
phong kiến” mà trước mắt phải hòa chung với nhân dân tiến bộ trên thế giới
chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân
chủ, cơm áo, hoà bình.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan
rộng ra toàn thế giới. Giữa những năm 40, tại mặt trận châu Âu, trước những
đòn tấn công mạnh mẽ của quân đội Đồng minh, phát xít Đức và Italia đã đầu
hàng không điều kiện. Sau khi phát xít Đức và Italia đầu hàng, theo thoả thuận
giữa ba cường quốc Mỹ, Anh, Liên Xô tại Hội nghị Ianta tháng 2/1945, Hồng
quân Liên Xô đưa quân sang mặt trận Châu Á Thái Bình Dương để giải phóng
các dân tộc đang nằm dưới sự kiểm soát của phát xít Nhật. Trước sự tấn công
mạnh mẽ của Hồng quân Liên Xô và nhân dân các nước, ngày 14/8/1945, phát
xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện. Trong những năm tháng


9
đó, nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với quân đội và nhân dân Liên Xô,
cùng chung sức với lực lượng dân chủ thế giới đánh tan khối phát xít Đức - Ý -
Nhật. Đầu tháng 8/1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp
đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã chuẩn bị tiến hành Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đến giữa tháng 8/1945, khí thế
cách mạng đã sôi sục trong cả nước. Ngày 16/8/1945, theo lệnh Uỷ ban khởi
nghĩa, một đơn vị giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào
tiến về giải phóng Thị xã Thái Nguyên. Tiếp theo đó, các địa phương khác lần
lượt đứng lên giải phóng giành chính quyền. Ngày 28/8, Đồng Nai Thượng và

Hà Tiên là những địa phương giành chính quyền muộn nhất trong cả nước. Ngày
2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân và thế giới: nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. Cách mạng tháng Tám đã mở ra một
bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chấm dứt ách thống trị của thực dân
Pháp hơn 80 năm, ách phát xít Nhật gần 5 năm, đánh sụp chế độ phong kiến,
chủ động góp phần vào sự hình thành, mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới.
Tuy nhiên, ngay trong năm 1945, các đế quốc Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân
quốc lấy danh nghĩa quân "đồng minh" vào giải giáp quân đội Nhật Bản kéo vào
nước ta định "bóp chết" nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn trong trứng
nước. Với những hành động phá hoại, khiêu khích, gián điệp, lật đổ, bằng sức ép
tổng hợp, chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, chúng định diễn lại ở Việt Nam
cuộc can thiệp trắng trợn, bẩn thỉu như đối với Cách mạng tháng Mười và nước
Cộng hoà Xô viết Nga trước kia. Trong khi đó, chính quyền vừa thành lập còn
non trẻ, lực lượng vũ trang còn yếu. Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã để
lại hậu quả nặng nề cho đất nước ta: ngân khố quốc gia hầu như trống rỗng, kho
bạc Nhà nước chỉ có hơn 1,2 triệu đồng, trên 90% dân số mù chữ, nạn đói cuối
năm 1944 đầu 1945 chưa được khắc phục, các cơ sở công nghiệp chưa phục hồi
sản xuất Trong báo cáo của Pigon gửi Cao uỷ Pháp D.Agenliêu ngày
28/10/1945 nhận xét: "Chính quyền cách mạng Việt Nam ra đời không đồng
minh, không tiền, hầu như không vũ khí” [2;47]. Hoàn cảnh nước ta bấy giờ có
nhiều điểm tương đồng với nước Nga Xô viết khi Cách mạng tháng Mười vừa
thành công. Nhân dân Xô viết vừa phải đối mặt với các thế lực thù địch đe dọa
tấn công nhằm "bóp chết” chính quyền non trẻ lại vừa phải tập trung xây dựng
lại đất nước do bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lấy nước Nga Xô viết làm một
bài học quý báu, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo nhân dân ta tiến
hành xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền, tiến hành tổng tuyển cử trong cả



10
nước, giải quyết nạn đói và khó khăn về tài chính, đồng thời xoá nạn mù chữ,
nâng cao văn hoá cho nhân dân. Mặt khác, một nhiệm vụ quan trọng của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ lúc bấy giờ là thoát khỏi thế cô lập, để có
thể nhận được sự giúp đỡ của các nước anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
và lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô. Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà luôn khẳng định Liên Xô là trụ cột của hoà bình
thế giới của các lượng dân chủ và tiến bộ, trong đó có Việt Nam. Các hoạt động
đối ngoại của Việt Nam thời kì này vẫn nhằm mục tiêu nhất quán là tranh thủ sự
ủng hộ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta và tiến tới thiết
lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Chính phủ hai nước Việt Nam - Liên Xô.
Ngày 30/10/1945, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời ra Thông cáo về
chính sách đối ngoại của Việt Nam, khẳng định mục tiêu phấn đấu cho nền độc
lập của Việt Nam và hợp tác, thân thiện với các nước Đồng minh: "Đối với các
nước Đồng minh, Việt Nam luôn muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác
trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng nền hoà bình thế giới lâu dài”
[2;50]. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1949, vì nhiều lí do mà
Liên Xô - người anh cả trong phe xã hội chủ nghĩa chưa công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong những lí do ấy, có thể là trong thời gian
này, Liên Xô vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp ước Liên minh trong chiến tranh chống
chủ nghĩa phát xít và tương trợ sau chiến tranh giữa Liên Xô và Pháp được kí
ngày 10/12/1944 ở Matxcơva. Theo đó, mỗi bên không đựơc kí kết đồng minh
hoặc tham gia vào một khối liên minh nào nhằm chống lại bên kia. Chính điều
khoản này đã quy định đường lối ngoại giao của Nhà nước Xô viết với chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà những năm 1945-1949.
Trong giai đoạn 1946 - 1949, Việt Nam và Liên Xô có nhiều cuộc tiếp xúc
cấp cao nhưng vẫn chưa có cơ duyên để thiết lập ngoại giao giữa hai nước.
Tháng 11/1946, đáp lại lời hứa của Liên Xô sẽ ủng hộ Thái Lan gia nhập Liên
hợp quốc, chính phủ tiến bộ Thái Lan do Thủ tướng Priđi Panômiông đứng đầu
đã cho phép Liên Xô đặt một phái đoàn đại diện tại Băng Cốc. Chính phủ Liên

Xô muốn nhân cơ hội này củng cố sự có mặt ngoại giao của mình ở châu Á.
Thông qua cửa ngõ Băng Cốc, trong hai năm 1947 - 1948, đã diễn ra một loạt
các các cuộc tiếp xúc và hội đàm giữa các đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà với các đại diện của Liên Xô nhằm mở đường cho sự ủng hộ và công nhận
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên với Liên Xô diễn ra ở Băng Cốc vào tháng 2/1947
do Trần Văn Giàu thực hiện. Tiếp đó, tại Hội nghị Liên Á họp ở Niu Đêli (Ấn


11
Độ) tháng 4/1947, hai bên tiếp tục thảo luận và quyết định sẽ bố trí một cuộc
họp kín giữa phái viên chính phủ Việt Nam và phái viên Chính phủ Xô viết ở
châu Âu vào mùa thu năm đó. Cuộc họp đã được tiến hành tại Thụy Sĩ vào tháng
9/1947. Tại cuộc gặp này, phái viên đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà Phạm Ngọc Thạch đã chính thức đề nghị Chính phủ Liên Xô viện trợ
về tài chính và quân sự cho Việt Nam. Phạm Ngọc Thạch cũng chuyển cho đại
diện Liên Xô thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi J. Xtalin yêu cầu Liên Xô đưa
vấn đề xung đột Pháp - Việt ra trước Liên hợp quốc.
Với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đây là cuộc gặp có tính chất quan trọng,
có thể mở ra quan hệ có bước đột phá trong quan hệ Việt - Xô. Qua cuộc gặp
này, Liên Xô cũng dần bày tỏ một thái độ "ủng hộ phần nào” với cuộc chiến
tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, những đề nghị viện trợ của
Chính phủ Việt Nam đã không được chính phủ Liên Xô đáp ứng. Tại Đại hội
thanh niên Đông Nam Á họp ở Cancútta (Ấn Độ), tháng 2/1948, sự có mặt của
đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm Trần Văn Giàu, Mai Thế Châu, Trần
Văn Luân đã được hoan nghênh. Đại diện của tổ chức thanh niên thế giới và
Liên hiệp Công đoàn thế giới đã mời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cử đại diện
sang trụ sở của tổ chức ở Praha (Tiệp Khắc). Lần đầu tiên Liên Xô và các nước
dân chủ nhân dân biểu lộ thái độ ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau Đại
hội, hai đại diện của tổ chức công đoàn và phong trào thanh niên Việt Nam là

Lê Đức Chỉnh và Nguyễn Văn Hướng đã đến Thủ đô Praha (Tiệp Khắc) để thiết
lập quan hệ.
1.2. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1950 - 1954
Tới năm 1950, mặc dù đường lối ngoại giao Việt Nam có nhiều hoạt động
tích cực nhưng Việt Nam hầu như vẫn trong tình thế "đơn thương độc mã” trong
cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của Việt
Nam lúc này là thoát ra khỏi tình thế cô lập, kêu gọi sử ủng hộ của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em, các dân tộc dân chủ trên thế giới. Để tạo điều kiện thuận
lợi và kêu gọi các nước trên thế giới công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra lời tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là
Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên
quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh
thổ và chủ quyền của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp
dân chủ thế giới” [2;120]. Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng


12
định quan điểm và những mục tiêu chân chính của ngoại giao Việt Nam. Nó góp
phần xoá bỏ những tâm lí ngăn cản việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các
nước, đồng thời tạo ra cho thế giới cách nhìn mới và đúng đắn về Việt Nam.
Về phía Liên Xô, chính những thay đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới và
trước việc các thế lực hiếu chiến ở Anh, Mỹ, Pháp tập hợp lực lượng nêu chiêu
bài chống cộng sản, chống Liên Xô đã khiến Liên Xô phải điều chỉnh chiến lược
đối ngoại của mình trên thế giới, trong đó có Đông Dương và Việt Nam. Đã đến
lúc Liên Xô không chỉ đứng ngoài hay giữ một thái độ không rõ ràng trong cuộc
xung đột Việt - Pháp được nữa và phải công khai bày tỏ lập trường của mình.
Ngày 6/1/1950, Báo Sự thật đăng điện văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc
mừng Thống chế Xtalin với nội dung: "Nhân dịp mừng thọ Thống chế Xtalin 70

tuổi, nhân danh nhân dân Việt Nam, Chính phủ Việt Nam và nhân danh cá nhân,
tôi kính chúc Thống chế hạnh phúc và trường thọ" [15;6]. Ngày 25/1/1950 sau
khi nhận được điện chúc mừng sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thống chế
Xtalin gửi điện cảm ơn: "Nhân lễ sinh nhật của tôi, được điện chúc mừng của
Chủ tịch, tôi kính gửi lời cảm tạ" [9;228].
Ngày 18/1/1950, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sau khi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc chính thức được
thiết lập, ngày 23/1/1950 Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám đã gửi công
hàm cho Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô đề nghị hai nước kiến lập quan hệ ngoại
giao chính thức và trao đổi đại sứ.
Đáp lại công hàm của Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày
30/1/1950, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô A.Vưinxki đã gửi công hàm cho
Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám, khẳng định: “Sau khi xem xét lời đề
nghị của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhận thấy Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đại diện cho đa số nhân dân Việt Nam, Chính phủ Liên
Xô quyết định kiến lập bang giao giữa Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô
Viết và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trao đổi đại sứ” [9;229].
Việc Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là một sự kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Liên Xô.
Qua sự kiện này, Chính phủ Liên Xô không chỉ tạo ra những tiền đề về pháp lí
quốc tế cho sự hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc Việt Nam - Liên Xô, kéo theo
sự công nhận và đặt quan hệ ngoại giao của các nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa với Chính phủ Hồ Chí Minh, mà còn góp phần quyết định vào việc cô lập
Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, nâng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lên vị


13
thế mới trên trường quốc tế. Từ nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chính
thức được thừa nhận là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thành viên của hệ

thống xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi Liên Xô công nhận và thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hàng loạt nước dân chủ nhân dân
lần lượt chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà:
Ngày 31/1/1950: Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Triều Tiên
Ngày 2/2/1950: Chính phủ Cộng hoà nhân dân Tiệp Khắc và Chính phủ
Cộng hoà Dân chủ Đức.
Ngày 3/2/1950: Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Rumani và Hungari.
Ngày 4/2/1950: Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Ba Lan.
Ngày 8/2/1950: Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Bungari.
Ngày 11/2/1950: Chính phủ Anbani.
Trải qua những ngày tháng chiến đấu đầy gian khổ, khó khăn trong vòng
vây của chủ nghĩa đế quốc, đây thực sự là "một đại thắng lợi về chính trị” của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi đó là kết quả của sự nghiệp đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, của chính sách ngoại giao đúng đắn
với những hoạt động đối ngoại tích cực, năng động và không mệt mỏi của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi đó cũng đồng thời là kết quả của sự
lớn mạnh không ngừng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng
dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Đánh giá về tầm vóc mà hoạt động ngoại
giao mang lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Mấy năm kháng chiến đã
đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai
nước lớn nhất trên thế giới là Liên Xô và Trung Quốc dân chủ, và các nước dân
chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngang hàng trong đại
gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào
khối 800 triệu nhân dâ chống đế quốc.
Chắc rằng cuộc thắng lợi về chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi
quân sự sau này” [15;81].
Mùa xuân năm 1950, góp phần vào thắng lợi ngoại giao, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã tiến hành một hoạt động đối ngoại đặc biệt. Đó là chuyến công
du bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục đích của

chuyến đi là để giúp các nhà lãnh đạo hai nước, đặc biệt là Liên Xô hiểu thực trạng
tình hình, cũng như đường lối của nhà nước Việt Nam, từ đó tiến tới giúp đỡ và hợp
tác toàn diện với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong cuộc kháng chiến


14
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Ngày 2/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời
châu Tự Do (Tuyên Quang) lên đường, đây là chuyến đi bí mật, quân Pháp vẫn đóng
dọc biên giới, tàn quân Tưởng vẫn đầy rẫy ở Hoa Nam, phái đoàn lúc đi bộ, lúc đi
ngựa. Sau khi làm việc ở Trung Quốc, ngày 3/2/1950, đoàn rời Bắc Kinh tiếp tục
cuộc hành trình bí mật sang Mátxcơva. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và làm việc
trực tiếp với các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó như
Xtalin, Khơrupsốp, Môlôtốp, Kazanôvích
Trong lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước, chuyến đi thăm không chính
thức của Hồ Chí Minh có vai trò và ý nghĩa cực kì quan trọng. Đây là một cơ hội
thuận lợi để Hồ Chí Minh trực tiếp trình bày với các nhà lãnh đạo Liên Xô về
tình hình cách mạng Việt Nam, về những chủ trương, biện pháp mà Đảng Cộng
sản Đông Dương và Chính phủ Việt Nam đã tiến hành từ khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà được thành lập, nhằm mục đích giải toả những hiểu lầm và
ngộ nhận do thiếu thông tin hoặc thông tin không đầy đủ từ phía những nhà lãnh
đạo Liên Xô với đường lối chiến lược và sách lược của những người cộng sản
Việt Nam, từ đó tiến tới hoàn toàn ủng hộ và trực tiếp viện trợ vật chất cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Ngày 11/3/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lên đường về nước kết thúc chuyến thăm bí mật Trung Quốc và Liên Xô.
Sau chuyến đi của Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo Liên Xô hiểu rõ hơn về
tình hình cách mạng Việt Nam. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô nhờ đó được thúc
đẩy lên một giai đoạn mới, toàn diện, vững chắc và hiệu quả hơn. Tháng 4/1950,
Đại sứ quán Việt Nam ở Mátxcơva được thành lập, Nguyễn Lương Bằng là Đại
sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên
bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết. Đặc biệt, sau chuyến thăm, các nhà

lãnh đạo Liên Xô đồng ý viện trợ quân sự và giúp đỡ vật chất cho Việt Nam
kháng chiến. Cụ thể: Trước mắt Liên Xô viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn
pháo cao xạ 37 ly, một số xe vận tải Môlôtôva và thuốc quân y. Trung Quốc sẽ
trang bị vũ khí cho một số đại đoàn bộ binh và một đơn vị pháo binh, sẽ đảm nhận
việc vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Xtalin cũng yêu cầu
Trung Quốc lấy những hàng hoá mà Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc nhưng
chưa dùng tới đem cho Việt Nam dùng trước. Việc Trung Quốc và Liên Xô viện
trợ cho Việt Nam là sự ủng hộ kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân ta
đẩy cuộc kháng chiến lên giai đoạn phát triển mới trong những năm 1950.
Tháng 10/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng
sản Liên Xô. Sau Đại hội này, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô, Việt
Nam bắt đầu gửi học sinh, sinh viên sang các nước xã hội chủ nghĩa học tập.
Mùa hè năm 1951, trong khói lửa của cuộc chiến chống thực dân Pháp, Đảng và


15
Nhà nước ta đã cử nhóm lưu học sinh đầu tiên gồm 21 người sang Liên Xô để
đào tạo thành cán bộ khoa học, kĩ thuật với kỳ vọng sẽ là những viên gạch hồng
xây dựng cách mạng trong tương lai. Lần đầu tiên các trường Đại học ở
Matxcơva như trường thép, luyện kim, tài chính, trường xây dựng, trường trung
cấp máy móc công cụ đã tiếp nhận những công dân Việt Nam vào trường của
mình để đào tạo. Từ đó trở đi, hàng năm có những đoàn lưu học sinh Việt Nam
rời căn cứa địa Việt Bắc đi bộ lên biên giới Việt - Trung sang Liên Xô học tập.
Số lượng lưu học sinh đi học tại Liên Xô trong những năm đó lên tới 160 người.
Trong thời kỳ 1950-1954, Liên Xô triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ cuộc
đấu tranh vì độc lập của nhân dân Việt Nam về mặt vật chất và tinh thần, tạo
điều kiện cho Việt Nam đẩy nhanh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi
đến kết thúc. Được sự viện trợ của Mỹ, thực dân Pháp tiến hành nhiều kế hoạch
để có thể "kết thúc chiến tranh trong danh dự”. Dựa vào tương quan so sánh lực
lượng với quân Pháp, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định mở cuộc tiến

công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam buộc
thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Theo sáng kiến của Liên
Xô, Hội nghị Giơnevơ được tổ chức năm 1954, theo đó thực dân Pháp phải
chấm dứt chiến tranh và công nhận nền độc lập của 3 nước Đông Dương.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình
ở Việt Nam và Đông Dương được kí kết (21/7/1954), ngày 22/7/1954, Đoàn
Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã có điện gửi
Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí
Minh nhân dịp kí Hiệp định Giơnevơ, trong điện có đoạn: “Nhân dân Liên Xô
và Chính phủ Liên Xô chào mừng nhân dân Việt Nam anh dũng và Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhiệt liệt kính chúc nhân dân Việt Nam
mau chóng phục hưng đất nước, thu được nhiều thắng lợi trong công cuộc phát
triển kinh tế và văn hoá trong hoàn cảnh mới” [3;14].
Đáp lại tình cảm đó, ngày 10/8/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện
cảm ơn đến đồng chí C.Ê. Vôrôsilốp, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao
Liên Xô về lời chúc mừng khôi phục lại hoà bình ở Đông Dương.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam
kết thúc thắng lợi đã chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một
thế kỉ trên đất nước ta. Miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.



16
Chương 2
QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRONG NHỮNG NĂM 1954 - 1975
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã giải phóng hoàn
toàn miền Bắc, mở đường đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó,

lợi dụng sự thất bại của Pháp ở Đông Dương, đế quốc Mỹ đã tiến hành kế hoạch
xâm nhập vào miền Nam Việt Nam để thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền
Nam bằng chính sách thực dân mới. Trong hoàn cảnh đó, cách mạng Việt Nam
phải đồng thời thực hiện hai chiến lược: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm mục tiêu chung giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, góp phần vào cuộc chiến tranh của nhân
dân thế giới vì mục tiêu cách mạng của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Với đường lối cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp được
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên những nhân tố quyết định thắng
lợi của cuộc kháng chiến. Với vị trí là “một trong những tiêu điểm của sự kết
hợp các trào lưu cách mạng thế giới, là nơi tập trung tất cả những mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa xã hội với với chủ nghĩa tư bản và mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp
bức với chủ nghĩa đế quốc, là nơi diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử giữa một bên là
chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc với một bên là các thế lực xâm lược đứng
đầu là Mỹ” [1;10], do vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam trở thành
một điển hình cho trào lưu giải phóng dân tộc trên thế giới và nhận được sự ủng
hộ, giúp đỡ tận tình của bạn bè và nhân dân toàn thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô tiếp tục được
nâng lên một tầm cao mới. Với tư cách là người anh cả của phe xã hội chủ
nghĩa, Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô đã dành cho nhân dân Việt Nam
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn. Đáp lại, nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ công
cuộc xây dựng đất nước và đấu tranh vì sự nghiệp công bằng và tiến bộ xã hội
của nhân dân Liên Xô. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa Việt
Nam - Liên Xô không tránh khỏi những lúc "đậm nhạt”. Song, vượt lên trên tất
cả, mối quan hệ và tình cảm nhân dân hai nước dành cho nhau vẫn luôn nồng
ấm, vượt qua mọi thử thách.
2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1954 - 1960

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ, nhờ lợi dụng vị trí đặc
biệt và buôn bán vũ khí mà trở thành đế quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế


17
giới tư bản, đứng ra đóng vai trò sen đầm quốc tế để bảo vệ và cứu nguy cho hệ
thống tư bản chủ nghĩa đã bị suy yếu do sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của
hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước những đòn công kích quyết liệt của phong trào
giải phóng dân tộc và làn sóng đấu tranh dồn dập của phong trào công nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa. Để thực hiện "vai trò” của mình, Mỹ triển khai chiến
lược toàn cầu bằng việc khởi xướng cuộc Chiến tranh lạnh trên phạm vi toàn thế
giới, dẫn đến tình trạng đối đầu căng thẳng với Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa. Sang những năm 50, cùng với tình hình ngày càng căng thẳng của Chiến
tranh lạnh, Đông Dương cũng dần trở thành địa bàn xung đột giữa hai siêu
cường Mỹ, Xô và là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai hệ thống
trên thế giới. Theo đó, vị trí của Việt Nam trong chiến lược của Mỹ và Liên Xô
cũng bắt đầu có sự thay đổi. Theo quan điểm của Mỹ lúc đó, Việt Nam là điểm
nóng bỏng nhất và là một trong những vị trí sống còn trong tuyến ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản. Vì vậy, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mỹ liền
thay thế thực dân Pháp dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, thực
hiện âm mưu chia cắt nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự ở Đông Nam Á. Một lần nữa, nhân dân Việt Nam phải đứng lên cầm
súng để đấu tranh bảo vệ nền độc lập của mình. Cũng từ đây, quan hệ Việt Nam
- Liên Xô có bước phát triển mới. Cùng với sự thay đổi chiến lược ở Việt Nam
của Mỹ, các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng dần nhận thức được tầm quan trọng của
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng trong việc mở rộng phạm vi của
mình ở châu Á. Do vậy, Liên Xô đã từ chỗ không can dự vào cuộc xung đột ở
Việt Nam đến thể hiện sự ủng hộ của mình đối với Việt Nam đặc biệt từ khi Mỹ
tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu, Liên Xô đã hình thành quan hệ chính trị toàn diện với

Việt Nam, ủng hộ chủ trương và xây dựng đường lối khôi phục và xây dựng
miền Bắc của Việt Nam. Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 3 năm
khôi phục kinh tế 1955 - 1957 và kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế và văn hoá
1958 - 1960. Đặc biệt, hai nước đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao và kí
nhiều văn kiện quan trọng đưa mối quan hệ hai nước ngày một gần nhau hơn.
Theo lời mời của Chính phủ Liên Xô, đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà do Chủ tịch kiêm Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hồ Chí Minh dẫn đầu, đã đến thăm Liên Xô từ ngày 12 đến ngày 18/7/1955.
Trong thời gian đó, đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã tiến hành hội đàm với Chính phủ Liên Xô. Cuộc hội đàm đã diễn ra trong
không khí thân mật và hữu nghị. Một vấn đề quan trọng là cuộc hội đàm đã bàn
đến vấn đề củng cố và phát triển những quan hệ hữu nghị giữa nước Việt Nam


18
Dân chủ Cộng hoà và Liên Xô, và những vấn đề quốc tế liên quan đến lợi ích
chung của hai nước. Cuộc hội đàm đã nhất trí: “Trong các vấn đề về tình hình
quốc tế cũng như sự phát triển hợp tác sau này giữa nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà và Liên Xô về mọi mặt chính trị, kinh tế và văn hoá, quan điểm của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Liên Xô hoàn toàn
nhất trí” [3;16]. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ
Liên Xô đều xác định ý chí của mình là kiên quyết đấu tranh cho Hiệp định
Giơnevơ được thi hành triệt để và “lên án những mưu mô lôi kéo miền Nam Việt
Nam, Lào, Cao Miên vào khu vực hoạt động của khối quân sự xâm lược ở Đông
Nam Á (SEATO) và nhận rằng những mưu mô ấy hoàn toàn trái ngược với Hiệp
định Giơnevơ” [3;17].
Đặc biệt, nhằm mục đích góp phần vào việc phát triển quan hệ thương mại
có lợi cho hai nước, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ
Liên xô đã kí Hiệp nghị thương mại giữa hai nước, theo đó Liên Xô sẽ viện trợ
không hoàn lại cho Việt Nam 40 triệu rúp để xây dựng và khôi phục 146 xí

nghiệp công trình công nghiệp và cơ quan thuộc các ngành cơ khí, than, điện lực
và công nghiệp nhẹ. Tiếp đó, Liên Xô cho Việt Nam vay 100 triệu rúp để thực
hiện kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế nói trên. Ngoài ra Liên Xô còn giúp Việt
Nam xây dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn, 156 trạm thuỷ văn các cấp, cho Việt
Nam vay 350 triệu rúp để mua trang thiết bị máy móc và xây dựng một số nông
trường. Bên cạnh đó, khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa viện trợ từ năm 1955 - 1960 đạt 49,585 tấn gồm: 4,105
tấn hàng hậu cần, 45,480 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật trong đó Liên Xô viện trợ
29,996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19,589 tấn.
Cũng trong chuyến thăm và làm việc của đoàn đại biểu nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, Hiệp nghị về vấn đề học tập của những công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tại các trường trung và cao cấp ở Liên Xô cũng được kí
kết vào ngày 27/8/1955, trong đó nêu rõ: “Theo yêu cầu của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô
viết đồng ý nhận những người công dân Việt Nam làm học sinh, sinh viên bổ túc
(aspirants) tại các trường trung và cao cấp ở Liên Xô” [3;21]. Theo đó, trong
thời gian từ 1955 đến 1960, Liên Xô đã cử 1.547 chuyên gia các ngành sang
công tác tại Việt Nam và nhận 420 thực tập sinh và 1.267 sinh viên Việt Nam
sang học tập tại Liên Xô.
Mặc dù vậy, quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam trong giai đoạn này lại
không "đậm” bằng các nước khác. Biểu hiện là ngày 3/2/1950 Liên Xô mới đặt


19
quan hệ ngoại giao với Inđônêxia, nghĩa là sau Việt Nam 3 ngày, nhưng tháng
1/1953, Liên Xô đã cử đại sứ đi Giacácta; trong khi đó, mãi đến gần 2 năm sau,
tức ngày 4/11/1954, Liên Xô mới cử Lavátchi - Đại sứ đầu tiên của Liên Xô đến
Hà Nội. Tổng Bí thư Khơrútsốp và Bungarin đã đi thăm Ấn Độ, Miến Điện và
Ápganitxtan vào tháng 12/1955 và đã 2 lần đi thăm Trung Quốc vào tháng
8/1958 và tháng 10/1959 song chưa đi thăm Việt Nam. Đoàn đại biểu Xô viết tối

cao Liên Xô do Chủ tịch Vôrôsilốp dẫn đầu đi thăm Inđônêxia trước rồi mới đến
Việt Nam vào tháng 7/1957. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô cũng đã đi
thăm Ấn Độ và Miến Điện vào tháng 2/1957 nhưng lại không đi thăm Việt Nam.
Tính "thiếu đậm” trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô trong thời gian
trên có thể là do: mặc dù coi Việt Nam có vị trí chiến lược trong chiến tranh lạnh
nhưng cả Mỹ và Liên Xô vẫn không coi Việt Nam là khu vực trọng yếu trong
chiến lược của mình, so với châu Âu thì đây đây chỉ là khu vực "biên duyên
chiến lược” nên Mỹ cũng chưa đưa quân trực tiếp vào Việt Nam còn Liên Xô
thì chưa có nhiều sự ủng hộ cho Việt Nam như các nước khác. Hơn nữa, sau khi
Xtalin mất, Khơrútsốp lên thay đã đi vào con đường xét lại. Năm 1956, tại Đại
hội lần thứ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra đường lối "cùng tồn tại hoà
bình”, "quá độ hoà bình”, "thi đua hoà bình” và chương trình đầy tham vọng
"đuổi kịp và vượt Mỹ” về sản xuất sản phẩm tính theo đầu người trong thời
gian ngắn nhất. Vì mục tiêu và lợi ích của mình, Liên Xô đã chủ trương hoà
hoãn với chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, coi đó là nhiệm vụ chiến lược
hàng đầu nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật của Mỹ và phương Tây, giữ nguyên
trạng châu Âu để tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong giai đoạn 1954 - 1959 cũng
là thời kì tốt đẹp trong lịch sử quan hệ hai nước. Sự giúp đỡ và ủng hộ của Liên
Xô đối với nhân dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ xâm lược mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Ngày 1/9/1955, Chủ tịch
đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô đã gửi điện chúc mừng nhân dịp kỷ niệm lần
thứ 10 Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đáp lại tình cảm đó, Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã gửi điện cảm ơn tới Đảng và nhân dân Liên Xô, trong đó có đoạn:
“Nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn nhân dân Liên Xô đã dành cho nhân dân
Việt Nam sự ủng hộ đối với cuộc chiến tranh giành độc lập và sự giúp đỡ chân
thành hiện nay đối với công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế và văn hoá bị

tàn phá trong những năm tháng chiến tranh. Sự giúp đỡ khẳng khái, vô tư đó đã


20
cổ vũ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh kiên quyết thực hiện Hiệp định
Giơnevơ nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ
trong cả nước” [3;24]. Như vậy, mặc dù Liên Xô vẫn chỉ coi Việt Nam là vùng
"biên duyên chiến lược” so với những vùng trọng điểm khác, nhưng trong thời
gian này, Liên Xô đã dành những sự giúp đỡ to lớn về vật chất và tinh thần cho
những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam Việt Nam. Những hiệp nghị được kí kết giữa hai
nước trong thời gian này nói lên những bước tiến quan trọng trong lịch sử quan
hệ hai nước.
2.2. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong những năm 1960 - 1964
Trong giai đoạn tiếp theo từ năm 1960 đến năm 1964, quan hệ Việt - Xô
diễn ra trong bối cảnh mới. Đây là giai đoạn đường lối cách mạng Việt Nam có
sự thay đổi, Đảng ta chủ trương: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực
góp phần tăng cường sức mạnh hệ thống xã hội chủ nghĩa. Do sự phát triển của
phong trào cách mạng Việt Nam cuối những năm 50, đế quốc Mỹ lo sợ chính
quyền Ngô Đình Diệm không tồn tại được lâu và chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng thế.
Hơn nữa, việc Liên Xô công khai ủng hộ Việt Nam đã khiến Mỹ càng quyết tâm
hơn trong việc biến miền Nam Việt Nam thành bàn đạp để tiêu diệt chủ nghĩa
cộng sản, nhằm ngăn chặn "Đông Nam Á hoá đỏ”. Do vậy, trong những năm
1960 - 1964, Mỹ tiến hành chiến lược ''chiến tranh đặc biệt”, không ngừng tăng
viện trợ về kinh tế, cố vấn quân sự, vũ khí hiện đại cho chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm, dùng chiến trường Việt Nam để thí nghiệm các loại vũ khí hiện đại
nhất. Hành động đó của Mỹ làm cho tính chất của cuộc chiến tranh Việt Nam trở

nên khốc liệt. Là một nước nhỏ bé, nông nghiệp lạc hậu, lại phải đối phó với một
đế quốc hùng mạnh, đòi hỏi Việt Nam, bên cạnh sự đồng lòng của toàn dân, cần
phải có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ trên thế
giới, trong đó, sự ủng hộ của Liên Xô có ý nghĩa quan trọng, là nhân tố tác động
đến tương lai cuộc chiến tranh Việt Nam.
Mở đầu sự hợp tác toàn diện trong thời kì này, ngày 23/12/1960, Hiệp định
về việc Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết giúp đỡ về kinh tế và kỹ
thuật cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được kí kết với mục đích củng cố hơn
nữa tình hữu nghị anh em và mở rộng sự hợp tác về kinh tế giữa hai nước, để thực
hiện sự giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật của Liên Xô đối với việc thực hiện kế hoạch


21
5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chính phủ hai nước đã đàm thoại và đã đi đến những thoả thuận sau:
“Điều 1: Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết sẽ bảo
đảm giúp đỡ về kỹ thuật cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong việc xây
dựng các xí nghiệp xây dựng về điện, chế tạo máy móc, khai khoáng và các xí
nghiệp khác, tiến hành các công tác thăm dò tổng hợp, tìm các loại quặng khác
nhau, cũng như sẽ cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong những năm
1961 - 1963 các thiết bị, kim khí, phân bón và các hàng hoá khác cần thiết cho
sự phát triển kinh tế quốc dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều 2: Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết sẽ cho
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vay dài hạn số tiền 430 triệu rúp với mức lãi
hàng năm là 2 %
Điều 3: Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết muốn hết
sức giúp đỡ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong việc thi hành những biện
pháp hiệu quả nhằm chống bệnh sốt rét trong những năm 1961 - 1965, đã đồng
ý viện trợ cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà số tiền 20 triệu rúp
không phải hoàn lại và bảo đảm dùng số tiền đó để gửi sang Việt Nam một số

chuyên gia và cán bộ cần thiết, đồng thời cung cấp thuốc men, thuốc sát trùng
và thiết bị, phương tiện vận tải.

Điều 8: Chính phủ Liên Xô đảm bảo việc tổ chức Liên Xô sẽ giao cho các
tổ chức Việt Nam những tài liệu và thông tin kỹ thuật cần thiết cho việc tổ chức
lại sản xuất tại các xí nghiệp do Liên Xô giúp xây dựng theo Hiệp định này. Việc
trao các tài liệu đó sẽ thực hiện theo nguyên tắc không phải trả tiền ” [3;57].
Có thể nói rằng, nhờ có sự hỗ trợ đắc lực từ nguồn viện trợ to lớn và toàn
diện của Liên Xô, kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất của Việt Nam đã
căn bản hoàn thành, cải tạo và xây dựng được 90 công trình công nghiệp, đáng kể
là một số nhà máy thuỷ điện có tổng công suất là 71.300 kw, các công trình khai
khoáng như mỏ than Tĩnh Túc, mỏ Apatit Lào Cai, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà
máy supe phốt phát Lâm Thao, Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học
Nông nghiệp I Hà Nội Trên cơ sở đó, miền Bắc đã chuẩn bị cả vật chất và tinh
thần trở thành hậu phương cách mạng của cả nước, sẵn sàng đối phó với hành
động leo thang chiến tranh và đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ. Tổng kết lại quan hệ hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam trong những
năm đầu kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng
định rằng: "Trong 7 năm gần đây, với tư cách là Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ

×