Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

thảo luận hợp đồng buổi 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.7 KB, 12 trang )

THẢO LUẬN HỢP ĐỒNG LẦN 2
Vấn đề 1: Im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết

hợp đồng?
• Liên quan đến vai trò của sự im lặng trong giao kết hợp đồng, BLDS 2005 đã có quy
định tại khoản 2 Điều 404 với nội dung “Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao
kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận
im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”. Ở đây, BLDS 2005 đã ghi nhận vai trò của
im lặng nhưng không nêu trong phần chấp nhận giao kết hợp đồng mà trong phần
xác định thời điểm hợp đồng được giao kết và BLDS 2015 đã khắc phục nhược điểm
này. Cụ thể, trong quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Điều 393 BLDS
2015 có bổ sung thêm quy định mới mà trước đó chưa tồn tại trong BLDS 2005 với
nội dung “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã
được xác lập giữa các bên”.
• Ở đây, BLDS 2015 theo hướng thông thường im lặng không là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng nhưng có ngoại lệ, khi theo thỏa thuận hay thói quen giữa các bên,
im lặng vẫn là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Ngoài hai ngoại lệ này, chúng ta
nên theo hướng: bản thân sự im lặng không là chấp nhận nhưng nếu bên cạnh sự im
lặng (biết nhưng không nói gì) mà có yếu tố khác (như giao hàng, trả tiền, lời đề
nghị hoàn toàn vì lợi ích của người được đề nghị) thì vẫn có chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng (thực tiễn xét xử của Việt Nam cũng theo hướng vừa nêu).
(Theo Đỗ Văn Đại: Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, phần số 331,
tr.351)

2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy anh Đạt đã chuyển nhượng tài sản cho ông

Nâu?
Theo phần xét thấy của Tòa dân sự TANDTC “Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
thì ngày 30-3-2004 anh Nguyễn Phát Đạt lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Nguyễn


Văn Nâu (là chú ruột của anh Đạt) 670m2 đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng số
02164/QSDĐ/B2 ngày 16-4-1995 do Ủy ban nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp cấp
đứng tên anh Đạt với giá 250.000.000đ. Hai bên thỏa thuận ông Nâu trả trước 120.000.000đ
để trả Ngân hàng, khi làm xong thủ tục sang tên sẽ trả đủ. Anh Đạt đã giao đất cho ông Nâu
tại thời điểm đó.”
3. Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản anh Đạt chuyển nhượng là tài
sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt)?
Trong phần Xét thấy có đoạn như sau:


"Tuy nhiên, khối tài sản mà anh Đạt thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung
của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt),…”
4. Việc chuyển nhượng trên có cần sự đồng ý của chị Linh không? Vì sao? Nêu cơ sở

pháp lý khi trả lời.

Vì TANDTC đã xác định “Khối tài sản anh Đạt thế chấp cho ngân hàng là tài
sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ của anh Đạt)” nên việc chuyển nhượng bất
động sản là tài sản chung vợ chồng nên cần phải có sự đồng ý của chị Linh.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2, Khoản 3 Điều 219 BLDS 2005 và Điều 35 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014.
• Khoản 2, Khoản 3 Điều 219 BLDS 2005:
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi

người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.


Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:


1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2.

Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong
những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

5. Theo thực tiễn xét xử của Việt Nam, khi nào im lặng được coi là chấp nhận (đồng ý)
hợp đồng?
Theo khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự cũng được xem như
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận
im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”. Như vậy theo BLDS 2005 thì im lặng được coi là
chấp nhận hợp đồng nếu giữa hai bên có sự thỏa thuận với nhau về việc im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết.


Bản chất của hợp đồng là sự gặp gỡ ý chí giữa các bên, dựa trên “sự hiệp ý” và “sự
ưng thuận”. Và về nguyên tắc, hợp đồng chỉ có thể được giao kết nếu bên đề nghị “nhận
được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng” (khoản 1 Điều 404). Bởi vậy, quan điểm coi im
lặng là đồng ý không phải lúc nào cũng được các luật gia chấp nhận. Trong các Bộ Nguyên
tắc quốc tế về hợp đồng và các tập quán hợp đồng thương mại quốc tế đều không xem sự im
lặng là chấp nhận giao kết: “sự im lặng hoặc bất tác vi không mặc nhiên có giá trị một sự
chấp nhận”,1 hoặc “Bản thân sự im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng”,2 hoặc “Im lặng hay bất tác vi tự thân nó không phải là sự chấp
nhận đề nghị”.3
Tuy vậy, cũng có nhiều ý kiến bênh vực cho việc công nhận sự im lặng là trả
lời chấp nhận nếu có kèm theo những điều kiện khác. Theo luật Pháp, về nguyên
tắc, im lặng không được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng vì “người ta không thể

dựa vào sự im lặng để suy ra ý chí chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của bên
đó”, trừ một số trường hợp ngoại lệ do pháp luật qui định hoặc do án lệ thừa nhận.4
Trong án lệ ở Mỹ, ban đầu, các thẩm phán cũng không thừa nhận im lặng là đồng ý
giao kết hợp đồng. Tuy vậy, đã có một sự thay đổi tư duy của các thẩm phán, sau
khi Restatement of Contracts được ban hành. Tại Đoạn 72 Restatement of
Contracts có đưa ra nguyên tắc: “…khi người được đề nghị không trả lời một đề
nghị thì sự im lặng hoặc không hành động của họ có thể được xem như một sự
chấp nhận… nếu người đề nghị xác định được hoặc có lý do để tin rằng sự đồng ý
rõ ràng được biểu hiện bằng cách im lặng hoặc không hành động, và người được
đề nghị giữ im lặng nghĩa là có ý định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.” Với
sự hiện diện của qui định này đã làm cho “nguyên tắc bất di bất dịch im lặng không
phải là đồng ý trở nên khó giải thích thuyết phục”.5
Khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 công nhận im lặng là chấp nhận giao kết hợp
đồng khi thỏa mãn hai điều kiện là các bên có thỏa thuận trước, và các bên có xác
định thời hạn trả lời nhưng hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng.
Xuất phát nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, thiết nghĩ việc công nhận im lặng là
chấp nhận giao kết hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận là cần thiết. Nhưng qui
định này vẫn còn hạn chế vì chưa dự liệu các trường hợp sự im lặng chấp nhận
giao kết hợp đồng do pháp luật qui định. Trong luật thực định, có nhiều trường hợp
1 Đoạn 1 Điều 18 Công ước Liên hiệp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG).
2 Khoản 1 Điều 2.1.6 Bộ Nguyên tắc Unidroit về Hợp đồng thương mại Quốc tế.
3 Khoản 2 Điều 2: 204 Bộ Nguyên tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu.

4 Corinne Renault – Brahinsky, Sđd, tr. 35-6.
5Xem David Oughton & Martin Davis, Sđd, tr.51.


sự im lặng được qui định là chấp nhận giao kết hợp đồng. Ví dụ: qui định về trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản sau khi dùng thử: “…Trong thời hạn
dùng thử, bên mua có thể trả lời mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử

mà bên mua không trả lời thì coi như đã chấp nhận mua theo điều kiện đã thỏa
thuận trước khi nhận vật dùng thử.” (khoản 1 Điều 460 BLDS 2005). Ngoài ra, trong
trường hợp pháp luật có qui định một bên có nghĩa vụ phải phát biểu ý chí về việc
từ chối giao dịch, nhưng người có nghĩa vụ đã không hành động như vậy thì được
suy đoán là đồng ý. Ví dụ: khi người đại diện xác lập giao dịch vượt quá phạm vi
đại diện, nhưng người được đại diện “biết mà không phản đối…” thì phần giao dịch
được xác lập vượt quá phạm vi đại diện đó vẫn có hiệu lực đối với người được đại
diện (khoản 1 Điều 146 BLDS 2005).

(Trích Chuyên đề 7: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN”,
Lê Minh Hùng)


Theo thực tiễn xét xử tại Việt Nam, sự im lặng không đủ để suy luận sự đồng ý
hay không đồng ý chấp nhận hợp đồng. Tòa án sơ thẩm hay phúc thẩm không thể kết
luận ngay hợp đồng không có giá trị pháp lý khi chưa xác định rõ ý chí của người giữ
im lặng. Tuy nhiên, sự im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận nếu tồn tại
yếu tố khác. Sau đây là các yếu tố cho phép suy luận đã có sự chấp nhận hợp đồng:
• Yếu tố thứ nhất có thể là việc bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng nhưng
sau đó yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng .
VD: Theo Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30/05/2003 của HĐTP
TANDTC, ông Lung là chủ sở hữu diện tích 120m2 nhà trên diện tích
1199m2 đất. Vào ngày 24/09/1999, ông Lung thỏa thuận bán căn nhà trên cho vợ
chồng ông Thọ. Năm 2000, hai bên xảy ra tranh chấp. Khi sự việc chưa được giải
quyết thì ông Lung chết. Trong hợp đồng không có chữ ký của bà Hiền vợ ông
Lung. Theo Viện kiểm sát, đây là việc bán nhà thuộc sở hữu của vợ chồng mà
chưa có sự đồng ý của bà Hiền. Nhưng theo HĐTP: “Mặc dù bà Hiền là vợ ông
Lung không ký hợp đồng mua bán nhà với ông Thọ nhưng bà Hiền không những
không có ý kiến phản đối và còn yêu cầu ông Thọ thực hiện hợp đồng đã ký với

ông Lung, nên không có căn cứ cho rằng ông Lung đã bán nhà mà không được
sự đồng ý của bà Hiền như lập luận trong kháng nghị của Viện Kiểm sát”. Như
vậy, trong quá trình giao kết hợp đồng, bà Hiền không ký vào hợp đồng và cũng
không phản đối gì. Điều đó có nghĩa là trong quá trình giao kết hợp đồng, bà
Hiền đã im lặng. Mặc dù vậy, theo HĐTP, bà Hiền đã đồng ý chấp nhận hợp
đồng và điều đó được suy luận từ việc bà Hiền yêu cầu thực hiện hợp đồng .


Yếu tố thứ hai có thể là bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng tiếp
nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành thực hiện hợp đồng từ
phía mình.
VD: Theo Quyết định số 38/GĐT-DS ngày 29/03/2004 của Tòa dân sự
TANDTC, vào ngày 03/01/2003, anh Nguyên ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của hai vợ chồng anh cho vợ chồng anh chị
Kỷ, Lộc. Theo TANDTC, việc “Lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất
trên tuy không có mặt của chị Bá (vợ anh Nguyên) nhưng căn cứ vào biên bản
giám định và lời khai của chị Bá thì trong quá trình thực hiện hợp đồng, chị Bá
đã tham gia nhận tiền hai lần. Mặt khác, tháng 06/2001, khi vợ chồng chị Bá,
anh Nguyên chuyển về TP HCM đã bàn giao toàn bộ nhà, đất và tài sản khác
cho vợ chồng chị Kỷ, anh Lộc. Như vậy có cơ sở khẳng định chị Bá biết và


cũng đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng chị Kỷ, anh
Lộc.”


Yếu tố thứ ba có thể là bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc
thực hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì.
VD: Theo Quyết định số 27/2003/HĐTP-DS ngày 26/08/2003 của HĐTP
TANDTC: “Năm 1991 và 1993, ông Quang đã bán ao, đất vườn. Ông Khánh,

bà Vân, ông Tuyến và cụ Lạc (đồng thừa kế) có biết và được nhận tiền bán đất từ
ông Quang mà không có ý kiến gì. Nay các ông, bà này yêu cầu được chia thừa
kế lại, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của họ là chưa đủ căn cứ”. Ở
đây, theo TANDTC, người giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng biết
hợp đồng và không có ý kiến gì thì có nhiều khả năng họ đồng ý chấp nhận hợp
đồng.



Yếu tố thứ tư có thể là dựa vào lời khai của bên giữ im lặng trong quá trình
giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ im lặng đã đồng ý hợp
đồng.
VD: Theo Bản án số 228/DSPT ngày 02/02/2005 của TAND TP HCM, ông Xáng
ký giấy chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Đức, bà Hạnh nhưng không
có chữ ký của bà Muống – vợ ông Xáng. Theo TAND TP HCM: “Mặc dù bà
Muống không ký tên trên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cho ông Đức, bà
Hạnh nhưng tại tờ trình của ông Xáng, bà Muống lập ngày 15/01/2002 và tại
các biên bản lời khai của Tòa án lập vào các ngày 20/11/2002, ngày 25/09/2003
đều thể hiện việc bà Muống cùng ông Xáng đồng ý chuyển quyền sử dụng đất
cho ông Đức, bà Hạnh, sau đó lại đổi ý. Do đó, việc Tòa án xác định bà Muống
phải liên đới cùng ông Xáng chịu trách nhiệm về các giao dịch chuyển quyền sử
dụng đất đối với ông Đức, bà Hạnh là phù hợp với quy định…”.
(Theo Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản
án, NXB.CTQG năm 2013, bản án số 15-17)
Như vậy, dựa vào những lời khai sau khi hợp đồng được giao kết mà Tòa án xác
định bên không ký vào hợp đồng đã chấp nhận hợp đồng.Tham khảo tham luận của
Tòa DS TANDTC tại Hội nghị tổng kết ngành tòa án năm 2008: “Trên thực tế có
nhiều trường hợp người quản lý tài sản chung (một trong các đồng chủ sở hữu)
chuyển nhượng tài sản thuộc sở hữu chung nhưng không có đủ các đồng chủ sở hữu
tham gia ký kết văn bản chuyển nhượng hoặc sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở

hữu chung khác. Tuy nhiên, có căn cứ xác định là những chủ sở hữu chung này đồng ý


việc chuyển nhượng đó, sau này do giá trị tài sản tăng lên hoặc vì một lý do nào đó,
nên những chủ sở hữu chung này và cả người trực tiếp giao kết hợp đồng chuyển
nhượng tài sản đã lợi dụng việc khi chuyển nhượng tài sản không được sự đồng ý
bằng văn bản của các chủ sở hữu chung khác để yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Trong trường hợp này, Tòa dân sự cho rằng cần phải xác định đã có sự thống nhất ý
chí của các đồng chủ sở hữu về việc chuyển nhượng nên hợp đồng không vô hiệu do vi
phạm điều kiện về ý chí của các đồng chủ sở hữu.”
6. Chị Linh có biết, có phản đối việc chuyển nhượng trên không?


Trong phần Nhận thấy có đoạn như sau:

"Về Tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không
đưa chị Lê Thị Thúy Linh (vợ anh Đạt) và Ngân hàng Công thương chi nhánh Sa Đéc
vào tham gia tố tụng vơi tư cách là người có nghĩa vụ liên quan là thiếu sót"


Trong phần Xét thấy cũng có đoạn như sau:

"Tuy nhiên, khối tài sản mà anh Đạt thế chấp ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt
và chị Linh (vợ anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên mới chỉ có chữ kí của anh Đạt nên có biết việc chuyển nhượng hay không? Nếu
chị Linh biết mà không phản đối thì phải coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển
nhượng. Nếu chị Linh không biết và không đồng ý việc chuyển nhượng thì cần phải
căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết."
Từ các lập luận trên của Tòa án có thể thấy Quyết định này không đề cập cũng
như không cung cấp thông tin về việc chị Linh có biết hay có phản đối về việc chuyển

nhượng hay không.
Tuy nhiên, trên thực tế, do là khối tài sản chung của hai vợ chồng nên khi đi vay
nợ, ngân hàng cần có sự đồng ý và chữ ký của cả hai vợ chồng thì hợp đồng vay nợ
mới được chấp nhận. Vậy có nghĩa là nếu hợp đồng vay nợ làm theo đúng các trình tự
thủ tục luật định thì chị Linh có biết và không phản đối về việc chuyển nhượng của
anh Đạt.


7. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận, nếu chị
Linh biết và không phản đối việc chuyển nhượng thì có được coi chị Linh đồng ý
không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Trong phần xét thấy, theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu chị
Linh biết và không phản đối việc thế chấp thì phải coi chị Linh cũng đồng ý
việc chuyển nhượng, điều này được thể hiện ở đoạn: “Tuy nhiên, khối tài sản
anh Đạt thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ
của anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên mới chỉ có chữ ký của anh Đạt nên cũng cần phải xem xét chị Linh có biết
việc chuyển nhượng hay không? Nếu chị Linh biết mà không phản đối thì phải
coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển nhượng. Nếu chị Linh không biết và
không đồng ý chuyển nhượng thì cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật
để giải quyết.”
8. Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự đã có tiền lệ chưa? Cho biết
tiền lệ mà anh/chị biết.
Hướng giải quyết trên của Tòa án dân sự đã có tiền lệ. Có thể kể đến
như Quyết đinh số 32/2003/HĐTP-DS ngày 4-11-2003 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao1.
Trong Quyết định có nêu rõ vụ việc như sau: ông Sâm bán đất cho ông
Phong, hợp đồng có chữ ký làm chứng của cụ Mùi, ông Quang, bà Chất (vợ
ông Sâm) và ông Nguyễn Văn Mạnh. Diện tích nhà đất ông Sâm bán cho ông
Phong là một phần nhà đất do cụ Mùi và vợ chồng ông Quang đang sử

dụng.Việc bán nhà đất là do cụ Mùi quyết định, tiền bán nhà đất cụ Mùi cho
ông Quang sử dụng để giải quyết khó khăn cho ông Quang, ông Sâm đứng
tên trong hợp đồng mua bán chỉ là hình thức.Tuy nhiên, do nhà, đất mà ông
Sâm bán cho ông Phong là một phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng cụ Đạo, cụ Mùi. Cụ Đạo chết năm 1990 không để lại di chúc, nên tài
sản này là một phần di sản thừa kế của cụ Đạo chưa chia. Theo các lời khai
của bà Dương Thị Hà (tức Lành), Dương Thị Khởi và ông Dương Văn Chiến
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.CTQG
2011, bản án số 08
1


thì tại thời điểm cụ Mùi cùng ông Quang, ông Sâm bán nhà, đất các ông bà
này có biết, nhưng vì lý do tình cảm gia đình nên các ông bà này không có ý
kiến gì. Việc không có ý kiến của các ông, bà này chưa có cơ sở để xác định
các ông, bà này đồng ý hay không đồng ý với việc mua bán.
Theo Hội đồng Thẩm phán, những người không ký vào hợp đồng "có biết"
nhưng "không có ý kiến gì". Nói cách khác, những đồng thừa kế không ký vào
hợp đồng chuyển nhượng một phần di sản nhưng họ biết về hợp đồng này
nhưng họ im lặng1. Vậy nên, Tòa án đã theo hướng giải quyết "nếu có cơ sở
xác định những người này đồng ý với việc mua bán, nhưng do khó khăn
khách quan nên không thể hiện bằng văn bản thì công nhận hợp đồng, nếu
không đồng ý thì tuyên bố hợp đồng mua bán nhà, đất bị vô hiệu và giải quyết
hậu quả của hợp đồng mua bán nhà đất vô hiệu..."
9. Suy nghĩ của anh/chị về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng ở
Việt Nam.
Theo nhóm em, im lặng trong giao kết hợp đồng ở Việt Nam không đủ để
suy luận bên nhận được đề nghị chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng.
Tại khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 quy định:“Hợp đồng dân sự cũng xem như
được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng,

nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”, BLDS chỉ thừa
nhận trường hợp im lặng nghĩa là đồng ý giao kết hợp đồng khi đáp ứng được
điều kiện là có sự thỏa thuận giữa người đề nghị và người được đề nghị, khi
đó “im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết” hợp đồng. Tuy nhiên, đây là quy
định duy nhất của Bộ luật Dân sự về giá trị của im lặng trong quá trình giao
kết hợp đồng. Trong thực tế không phải lúc nào các bên cũng thoả thuận im
lặng có giá trị như chấp nhận hợp đồng. Nên trong thực tiễn pháp lý Việt Nam,
sự im lặng không đủ để khẳng định việc chấp nhận hợp đồng. Tuy nhiên, sự
im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận nếu tồn tại yếu tố khác. Như
việc một bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng sau đó yêu cầu
bên kia thực hiện hợp đồng; bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng
tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành thực hiện
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.CTQG
2011, bản án số 08
1


hợp đồng phía mình; bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc thực
hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì; dựa vào lời khai của bên giữ im
lặng trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người
giữ im lặng đã đồng ý hợp đồng. Có thể thấy, quy định “im lặng là đồng ý”
theo Khoản 2, Điều 404 BLDS 2005 còn nhiều bất cập khi áp dụng trong thực
tế. Vì vậy, cần bổ sung qui định về trường hợp pháp luật có qui định im lặng là
chấp nhận giao kết hợp đồng.
Vấn đề 2: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được
1. Nhìn từ góc độ văn bản, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu

trên cơ sở Điều 411 BLDS 2005 không?
Điều 411 BLDS 2005 đưa ra quy định về “hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được” như sau:

“1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho
bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn
lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.”
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 411 thì đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện
được vì “lý do khách quan” (là trường hợp do những trở ngại khách quan, ngoài ý chí
của các bên hoặc do sự thay đổi của pháp luật, chính sách của Nhà nước làm cho đối
tượng của hợp đồng không thể thực hiện được). Trong trường hợp này, ông An ký hợp
đồng bán cho ông Bình một máy đào Hitachi mà không nêu rõ số hiệu cũng như tình
trạng của máy dẫn đến hai bên không thống nhất với nhau về tình trạng máy khi giao
nhận là lỗi chủ quan. Ông An (bên bán), có trách nhiệm phải cung cấp những thông tin
sau: sản xuất năm nào, qui cách, chất lượng, công suất,…cho ông Bình (bên mua) biết.
Do đó, nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực vì lý do chủ quan của các bên
thì không áp dụng qui định trên để giải quyết. Trường hợp này, bên có lỗi làm cho đối
tượng của hợp đồng không thể thực hiện dược phải chịu trách nhiệm dân sự theo qui
định chung. Nếu một bên cố tình che giấu, hoặc cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc có


lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn nên đã giao kết hợp đồng trái ý chí của họ thì có thể xác
định vô hiệu theo các qui định về giao dịch bị vô hiệu do bị nhầm lẫn hay bị lừa dối.1
Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản thì không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên
vô hiệu trên cơ sở Điều 411 BLDS vì không thỏa mãn yêu cầu tại khoản 1: hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan ngay từ thời điểm ký kết.
2. Nhìn từ góc độ thực tiễn xét xử, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên


vô hiệu trên cơ sở Điều 411 BLDS 2005 không ?
Do khái niệm “Hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được” rất khó hiểu,
bởi ta thường nói “thực hiện hợp đồng” chứ không nói đến “thực hiện đối tượng hợp
đồng” mà cho đến nay, không có bất kỳ văn bản nào làm rõ khái niệm này, nên trong
thực tiễn xét xử, các Tòa án giải quyết “thoáng” hơn về khái niệm này so với quy định
tại điều 411 BLDS.
• Quyết định số 470/2010/DS-GĐT về việc ông Tuyên có hợp đồng mua một
mảnh đất hai mặt tiền của bà Thơm, đã thanh toán một phần hợp đồng, nhưng
trên thực tế mảnh đất không có hai mặt tiền như trên bản đồ. Tòa GĐT đã áp
dụng Điều 411 để tuyên bố hợp đồng vô hiệu do “đối tượng của hợp đồng không
thể thực hiện được”. Thực chất, do các bên không có sự thống nhất về đối tượng
của hợp đồng mà dẫn tới hợp đồng không thể thực hiện được.
• Quyết định số 41/2012/DS-GĐT: bà Quý chưa làm thủ tục sang tên đất thừa kế
từ cha mẹ mình nhưng lại tiến hành chuyển nhượng cho bà Nguyên bằng một
hợp đồng không có công chứng. Tòa án xét xử vụ việc trên theo hướng: Nếu bà
Quý có lỗi thì áp dụng Khoản 2 Điều 411, buộc bà Quý bồi thường cho bà
Nguyên. Điều 411 được áp dụng mặc dù đây là trường hợp Hợp đồng không thể
thực hiện “do yếu tố chủ quan.”
• Bản án số 04/2007/KDTM-ST ngày 5/9/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai: Theo thực tiễn xét xử thì theo hướng tại văn bản hợp đồng
trên, các bên không thể hiện rõ ràng về đối tượng của hợp đồng là tài sản phải
giao. Cụ thể, tại văn bản hợp đồng các bên không thể hiện việc bên bán phải giao
cho bên mua chiếc máy đào hiệu Hitachi được sản xuất năm nào; không thể hiện
quy cách chất lượng, công suất, cũng như số khung số máy của máy đào. Ngoài
văn bản hợp đồng, các bên không xuất trình được chứng cứ nào khác để chứng
minh lời khai của mình là có căn cứ. Vì vậy lời khai của các bên về đối tượng
của hợp đồng là không có cơ sở để chấp nhận. Hợp đồng mà các bên giao kết là
hợp đồng thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa theo quy định của Bộ
luật Thương mại. Thấy rằng các bên không chứng minh được đã có thỏa thuận rõ

ràng, chi tiết với nhau về đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, giữa các

1 Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức
2013, tr.196;


bên lại không có thói quen đã được thiết lập. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định,
đây là hợp đồng có đối tượng không thực hiện được nên hợp đồng vô hiệu.
Có thể thấy, trên thực tế, Tòa án vận dụng Điều 411 BLDS 2005 trong trường
hợp hợp đồng không thể thực hiện được do nguyên nhân chủ quan.
3. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và

BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
Điểm thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 nằm ở khoản 1 và khoản 3, cụ thể
là:
Khoản 1
Khoản 3

Điều 408 BLDS 2015
Bỏ “vì lý do khách quan”
Quy định tại khoản 1, 2
điều này → vẫn có hiệu
lực

Điều 411 BLDS 2005
Có quy định về “lý do
khách quan”
Quy định tại khỏan 2 điều
này → có giá trị pháp lý


Có thể thấy, Điều 408 BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bộ quy định này từ
Điều 411 BLDS 2005, chỉ khác là quy định mới đã bỏ đi yếu tố “lý do khách quan”
trong vấn đề hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. Việc
loại bỏ điều kiện này xuất phát từ thực tiễn xét xử, không quan tâm đến việc không thể
thực hiện được do khách quan hay chủ quan, cứ không thực hiện được là vô hiệu.
Điều 408 BLDS 2015 đã xóa bỏ yếu tố cứng nhắc của Điều 411 BLDS 2005, góp phần
quan trọng trong việc xét xử của Tòa án, bên cạnh đó thực tế đã xác định nguyên nhân
chủ quan cũng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu, chúng ta nên ghi nhận lại điều này.



×