Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của các công thức thí nghiệm đến sinh trưởng của cây đảng sâm(codonopsis javanica (blume) hook f ) tại xã hồng kim, huyện a lưới, tỉnh t t huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.74 MB, 73 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiên nhiên đã ưu đãi cho chúng ta một tài nguyên thực vật làm thuốc đa
dạng và nhiều giá trị sử dụng. Vì vậy từ xa xưa con người đã biết sử dụng để
làm thuốc chữa bệnh. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm nên Việt Nam có
hệ thực vật phong phú, đa dạng. Rừng Việt Nam với hơn 7.000 loài được mô tả
thì có tới 3.830 loài có dược tính được sử dụng làm thuốc (theo Thống kê của
Viện Dược liệu – Cây thuốc Việt Nam. Theo Võ Văn Chi, năm 2012 đã thống
kê được 4.700 loài cây thuốc, con số đó chắc hẳn là chưa đầy đủ bởi do kho tàng
và kinh nghiệm sử dụng thuốc của đồng bào các dân tộc vô cùng lớn mà ta chưa
thể tìm hiểu hết. Trong đó có một số cây thuốc và động vật quý hiếm có thể
chữa được những bệnh nan y và cũng là nguồn nguyện liệu phong phú để phát
triển công nghiệp dược phẩm. Trong gần 1.000 loài được khai thác thì có tới 500
– 700 loài là sản phẩm từ rừng thuộc các tỉnh miền núi. Trong y học cổ truyền
đã sử dụng 146 vị thuốc thì đã có 52 vị thuốc sử dụng từ nguồn dược liệu trong
nước và lấy từ rừng tự nhiên.
Đảng sâm hay là loài dây leo thân thảo, sống nhiều năm, theo Sách đỏ
Việt Nam thì Đảng sâm là một nguồn gen quý và là cây thuốc quý, được sử
dụng phổ biến trong y học. Đảng sâm có tác dụng bổ ngũ tạng, nâng cao thể lực,
tăng sức dẻo dai, tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể; có tác dụng ích
huyết, sinh tân dịch, chống mệt mỏi, giảm stress. Bộ phận làm thuốc duy nhất
của Đảng sâm là rễ.Rễ cây Đảng sâm chứa saponins, triterpenes và steroid.Các
hoạt chất có trong rễ Đảng sâm giúp cho các hoạt động trao đổi chất của cơ thể
tốt hơn. Về công dụng Đảng sâm được dùng thay thế cho nhân sâm trong các
bệnh thiếu máu, da vàng, bệnh bạch huyết, viêm thượng thận, nước tiểu có
abumin, hợp chân phù đau; dùng làm thuốc bổ dạ dày, chữa ho, tiêu đờm, lợi
tiệu. Do có tác dụng dược lý và có giá trị kinh tế nên người dân tập trung khai
thác rễ cây Đảng sâm trong rừng một cách triệt để; làm cạn kiệt và giảm khả
năng tái sinh của loài trong tự nhiên. Vì vậy để bảo vệ nguồn cây dược liệu
mang tính đặc hữu của các vùng cần có các hướng nghiên cứu, bảo tồn, nhân
giống, phát triển nguồn cây dược liệu này.


Ngoài ra, cây Đảng sâm còn có nhiều ưu thế như địa bàn phân bố rộng
(không hạn hẹp như Sâm Ngọc Linh), thời gian có thể thu hoạch chỉ 18-20 tháng
(ngắn hơn 1 năm so với Ba kích), rất thích hợp với đồng bào miền núi có thể
trồng đại trà hoặc xen canh với các loài cây khác như (như cây bắp) trên các
nương rẫy để góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo…
1


Phát triển loài cây thuốc này có thể tạo ra nhiều cơ hội mới về việc làm và
tạo thu nhập cho người dân miền núi trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số trọng
điểm của huyện A Lưới như xã Hồng Kim, khu vực thác A Nôr. Để phát triển
loài Đảng sâm theo hướng tạo sản phẩm hàng hóa, phục vụ cho người dân và du
lịch và tuyển chọn một số loài dược liệu chủ lực cho địa phương.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi thực hiện đề tài “Đánh giá ảnh hưởng của
các công thức thí nghiệm đến sinh trưởng của cây Đảng sâm(Codonopsis
javanica (Blume) Hook.f.) tại xã Hồng Kim, huyện A Lưới, tỉnh T.T Huế”
để hoàn thiện kỹ thuật gây trồng, quy trình nhân giống sản xuất cây Đảng sâm
tạo thêm nguồn dược liệu cho thị trường.

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về cây thuốc
2.1.1. Những nghiên cứu về cây thuốc trên thế giới
Nghiên cứu về các sản phẩm tự nhiên luôn là mục tiêu hấp dẫn cho các nhà
khoa học trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là đối với cây trồng. Trong lịch sử, thực
vật (trái cây, rau quả, dược liệu, v.v…) cung cấp một nguồn dồi dào một loạt các
hợp chất, chẳng hạn như các hợp chất phenolic, hợp chất nitơ, vitamin, terpenoid

và một số chất chuyển hóa trung gian khác, trong đó rất giàu hoạt tính sinh học
có giá trị, ví dụ như chất chống oxy hóa, chống viêm, kháng u, chống ung thư,
kháng khuẩn, kháng virus và các hoạt tính khác, v.v…[28].
Ở nhiều nước phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản, v.v…), các loại thuốc
thảo dược truyền thống đã được sử dụng rộng rãi trong hàng ngàn năm. Cây
thảo dược đã trở thành đối tượng chính của các nhà hóa học, hóa sinh học, và
dược phẩm.Nghiên cứu của họ đóng một vai trò quan trọng cho việc phát hiện
và phát triển các loại thuốc mới, có hiệu quả hơn và hy vọng không có những tác
dụng phụ giống như hầu hết các loại thuốc hiện đại.Bên cạnh đó, việc tập trung
vào chất hóa học của các hợp chất từ bất kỳ các loài cây thuốc, các nghiên cứu
cây thảo dược được dựa trên kinh nghiệm dân gian và sử dụng truyền thống. Có
một số lượng lớn và dồi dào cho việc phát triển dược phẩm thảo dược làm thuốc,
chỉ có khoảng 35.000 trên hơn 250.000 loài thực vật xác định. Đặc biệt, các khu
rừng nhiệt đới là một nguồn cung cấp quan trọng về cây dược liệu.Chỉ có
khoảng 1% cây từ rừng nhiệt đới ở thế giới đã được nghiên cứu trong lĩnh vực y
học. Điều này cho thấy rõ ràng rằng các nghiên cứu về cây dược thảo dược xuất
phát từ yêu cầu và nhu cầu của các nhà khoa học về sản phẩm tự nhiên...[28].
Tài liệu cổ về cây thuốc hiện nay còn không nhiều, tuy nhiên có thể coi
năm 2838 trước Công nguyên (TCN) là năm hình thành bộ môn nghiên cứu cây
thuốc và dược liệu. Cuốn “Kinh Thần Nông” vào thể kỷ I sau Công nguyên
(SCN) đã ghi chép 364 vị thuốc.Đây là cuốn sách tạo nền tảng cơ bản cho sự
phát triển liên tục của nền y học dược thảo Trung Quốc cho đến ngày nay [1].
Năm 1595, Lý Thời Trân (Trung Quốc) đã tổng kết tất cả kinh nghiệm về
cây thuốc và dược liệu để soạn thành cuốn: “Bản thảo cương mục”, đây là cuốn
sách vĩ đại nhất Trung Quốc về lĩnh vực này. Tác giả đã mô tả và giới thiệu
1.094 cây thuốc và vị thuốc từ cây cỏ [14].
Năm 384 – 322 (TCN), Aristote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm
nhất về kiến thức cây cỏ ở nước này. Sau đó, năm 340 (TCN), Theophrase với
3



tác phẩm “Lịch sử thực vật” đã giới thiệu gần 480 loài cây cỏ và công dụng của
chúng.Tuy công trình của ông chỉ mới dừng lại ở mức mô tả, thống kê, song nó
mở đầy cho một giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này [25].
Thầy thuốc người Hy Lạp Dioscoride năm 60 – 20 (TCN) giới thiệu 600
loài cây cỏ chủ yếu để chữa bệnh.Đồng thời, ông cũng là người đặt nền móng
cho nên y dược học [25].
Năm 79 – 24 (TCN), nhà tự nhiên học người La Mã Plinus soạn thảo bộ
sách “Vạn vật học” gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây có ích [25].
Ai Cập đã tìm ra tài liệu cho thấy dược thảo được dùng từ năm 2000 TCN.
La Mã – Hy Lạp đã dùng dược thảo từ thời Aristote và sách dược thảo
Dioscorides viết vào thế kỷ thứ nhất SCN có ghi trên 600 vị thuốc cỏ cây. Từ
thời cổ xưa các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadenisis Mill.) để rửa vết thương, vết loét, v.v., chóng lành sẹo mà ngày nay
khoa học đã chứng minh là dịch của cây này có tác dụng liền sẹo thông qua khả
năng kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hoá.
Như vậy, những công trình nghiên cứu về dược liệu đã có từ lâu đời, hình
thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên, do sự
hạn chế của trình độ khoa học đương thời nên những công trình này chỉ dừng lại
ở mức độ mô tả, thống kê và chỉ ra những công dụng của chúng, chưa có cơ sở
khoa học để chứng minh thành phần hoá học của chúng có tồn tại trong đó và
tham gia vào việc chữa bệnh như thế nào. Chỉ đến khi khoa học kỹ thuật phát
triển thì vấn đề này mới được làm sáng tỏ, tạo độ tin cậy đối với người bệnh khi
sử dụng.
Theo đánh giá chung của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì có tới 80% dân số
toàn Thế Giới vẫn thường xuyên sử dụng cây thuốc cho việc chăm sóc sức khoẻ
ban đầu. Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng cây thuốc tăng lên
đáng kể đang tạo ra thị trường sôi động ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Ở Mỹ có khoảng
35 triệu người dùng thuốc đông y và phương pháp châm cứu, xoa bóp. Ở Trung
Quốc, doanh thu từ cây thuốc tăng lên nhanh chóng, hàng năm tiêu thụ 700.000

tấn dược liệu, sản phẩm y học dân tộc đạt giá trị 1,7 tỷ USD vào năm 1986, chiếm
33,1% thị trường thuốc năm 1995. Tại Nhật Bản, năm 1979 nhập 21.000 tấn, năm
1980 tăng lên 22.640 tấn dược liệu, tương đương 50 triệu USD, chiếm 12% giá trị
tổng sản lượng thuốc. Ở Cameroon, vỏ một loại cây thuốc là Prunus (họ
Rosaceae) được khai thác để xuất khẩu trong những năm 1990, có đến 3.000 tấn
loại này được xuất khẩu hàng năm cho giá trị cỡ 220 triệu USD.
Các nước trên thế giới đang hướng đến chương trình quốc gia kết hợp sử
dụng, bảo tồn và phát triển cây thuốc. Trong tương lai, để phục vụ cho mục đích
sức khoẻ con người, cho sự phát triển không ngừng của xã hội, để chống lại các
4


bệnh nan y, thì cần thiết phải có sự kết hợp giữa Đông – Tây y, giữa y học hiện
đại với kinh nghiệm cổ truyền dân tộc. Chính những kinh nghiệm truyền thống
đó là điểm mấu chốt để nhân loại khám phá ra những loại thuốc chống lại các
căn bệnh hiểm nghèo. Vì vậy, việc khai thác kết hợp bảo tồn các loài cây thuốc
là điều hết sức quan trọng.
2.1.2. Những nghiên cứu về cây thuốc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Có thể nói, nó xuất
hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thuỷ. Trong
quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công
dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng
ta đã dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất cây rừng để
làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
Từ những buổi đầu dựng nước, dưới thời các vua Hùng, ông cha ta đã biết
sử dụng hành, tỏi, gừng, riềng… để làm gia vị trong những bữa ăn hằng ngày.
Thế kỷ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng,
uống nước chè xanh cho mát, v.v. Điều đó nói lên những hiểu biết về dinh
dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc [7].
Thế kỷ II (TCN), hàng trăm loại thuốc đã được phát hiện như: sắn dây,

khoai lang, mơ, quýt… và trong thời kỳ Bắc thuộc, nhiều vị thuốc của ta đã
được xuất sang Trung Quốc [13]. Dưới triều nhà vua Lý (1010 – 1244) có nhiều
lương y nổi tiếng, trong đó có nhà sư Minh Không (Nguyễn Chí Thành) ở chùa
Giao Thuỷ đã có công chữa bệnh cho Lý Thần Tông. Nhà Lý đặt quan hệ với
Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc [13].
Dưới triều Trần (1244 – 1399), đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng
chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã
Hưng Đạo, Chí Linh, Hải Dương) để cung cấp cho quân y [12].
Thế kỷ thứ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1927 – 1791) đã
thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bán thảo”, nội dung
gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm 300 vị nữa.
Tư liệu vĩ đại nhất của ông là bộ sách: “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66
quyển viết về lý luận cơ bản, phương pháp chuẩn đoán, trị bệnh [11].
Triều Tây Sơn (1788 – 1808), Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với
620 vị thuốc với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền [12].
Triều Nguyễn (1802 – 1845) có quyển “Nam dược tập nghiệm quốc âm”
của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian [12].
Sau Cách mạng tháng 8/1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành
tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Y tế cùng y học hiện đại, sức khoẻ của
người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn.
5


Sau khi nước nhà thống nhất (1975), việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta
được quan tâm nhiều.Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện
thêm nhiều cây thuốc mới.
Dược điển Việt Nam tập 2 (1983) của Nhà xuất bản Y học do nhiều thành
viên và các cơ quan tham gia xây dựng, đã mô tả công dụng của hơn 430 loài
cây thuốc [3].
Trần Đình Lý (1995) đã xuất bản “1900 loài cây có ích” cho biết trong số

các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài cho nhựa thơm,
160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 50 loài cây gỗ có
giá trị, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây [23].
Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với tác phẩm “Cây thuốc
Việt Nam” (1995) đã mô tả hơn 830 loài cây thuốc và giới thiệu cách trồng, hái,
chế biến, trị bệnh ban đầu [13].
Đỗ Tất Lợi (1970 – 2005) khi nghiên cứu các loài cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam đã công bố 793 loài thuốc 146 họ ở hầu hết các tỉnh của nước ta.
Trong tài liệu này, tác giả cũng đã tiến hành mô tả từng cây, cách thu hái và chế
biến, thành phần hoá học, công dụng và liều dùng. Tuy nhiên, nơi phân bố của
từng loài tác giả giới thiệu rất khái quát [6].
Võ Văn Chi (1996) với bộ sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” đã giới
thiệu 3.200 loài cây mọc hoang và trồng ở Việt Nam. Tác giả đã mô tả khá chi
tiết từng loài, bộ phận dùng, nơi sống và thu hái, tính vị, công dụng của chúng.
Ngoài ra, sách còn có hình vẽ và ảnh chụp một số loài cây nên thuận lợi cho việc
tra cứu [24].
Cùng với sự ra đời các công trình nghiên cứu, nhiều tổ chức về y học dân
tộc được thành lập: Hội Đông y Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông y,… đã thành
công trong việc điều tra, sưu tầm dược liệu, sưu tầm được 1.863 loài cây thuốc
thuộc 238 họ thực vật, thu thập 8.000 tiêu bản của 1.296 loài [4].
Đồng thời, nhằm đào tạo và nâng cao kiến thức cho nghiên cứu sinh và
thực tập sinh về điều tra, bảo tồn và tạo nguồn nguyên liệu chất lượng cao làm
thuốc phòng và chữa bệnh, Viện dược liệu, năm 2006 đã cho ra đời cuốn
“Nghiên cứu thuốc từ thảo dược” [2]. Cùng năm, cuốn “Cây có vị thuốc ở Việt
Nam” của Phạm Hoàng Hộ đã góp phần quan trọng trong việc điều tra về y
dược thiên nhiên và y dược dân tộc của nước ta [21].
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều đánh giá cao sự phong phú, ý nghĩa
thực tiễn, giá trị khoa học cũng như giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên cây
thuốc.Cây thuốc dân tộc và đặc biệt tri thức y học dân tộc cổ truyền Việt Nam
đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì, tồn tại và phát triển của dân tộc ta từ

xưa đến nay. Việc ứng dụng những kinh nghiệm dân gian và nghiên cứu Thực
vật học dân tộc ở Việt Nam nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng là rất cần
6


thiết để góp phần phát triển nền kinh tế của đồng bào dân tộc. Vì vậy, để phát
huy truyền thống văn hoá tốt đẹp cũng như góp phần bảo tồn đa dạng sinh học,
bảo tồn nguồn gen, bảo tồn những kinh nghiệm phong phú và quý báu thì vấn đề
điều tra, thu thập cây thuốc, công tác nghiên cứu, nhân giống các loài cây dược
liệu là hoạt động quan trọng nhất trong công tác bảo tồn.
2.2. Sơ lược về cây Đảng sâm Codonopsis javanica (Blume) Hook.f.).
Cây Đảng Sâm là một loài dây leo, củdùng làm thuốc bổ. Tại Kontum, dân
địa phương thường gọi là cây “Hồng đảng sâm”. Cây còn có nhiều tên khác như
“cây đùi gà”, “mằn ráy cáy” (dântộcTày), “co nha đòi” (Thái), “canh ho”
(H’Mông).Trong Đông y, vị thuốc Đảng sâm được khai thác từ nhiều loài khác
nhau, cùng thuộc chi Codonopsis - thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae).
Có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Indonexia và Việt Nam.
Ở Việt Nam, đẳng sâm mọc rải rác ở các tỉnh miền núi phía Bắc như: Lai Châu, Lào
Cai, Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn. Ở phía
Nam chỉ được phát hiện ở cao nguyên Langbian (tỉnh Lâm Đồng) và xung quanh
chân núi Ngọc Linh (Đắc Glây - Kon Tum và Quảng Nam - Đà Nẵng).
Mọc ở ven rừng, nương rẫy đã bỏ hoang lâu ngày, trảng cỏ tranh, độ cao
khoảng 700m trở lên đối với các tỉnh phía bắc và 1300m trở lên đối với các tỉnh
phía nam. Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể chịu bóng, ưa mọc nơi đất tốt, nhiều mùn.
Cây thường leo lên các loại cây cỏ khác. Có một số nơi mọc tương đối tập trung
nhưng không trở thành cây ưu thế.
Đảng sâm là cây thuốc qúy, được sử dụng phổ biến trong y học dân tộc. Rễ củ
phơi khô làm thuốc chữa ho, chữa vàng da do thiếu máu và bệnh về thận.
Trong 44 loài thuộc chi Codonopsis Việt Nam có 2 loài được mô tả và dùng
làm thuốc với tên Đảng sâm. Thứ nhất là loài Codonopsis pilosula (Đảng sâm leo,

Phòng Đảng sâm, Đảng sâm bắc) còn gọi là Rầy cấy, Mần cấy. Codonopsis
pilosula mọc tự nhiên ở những vùng rừng ẩm thấp miền núi Đông Bắc và Tây Bắc
Việt Nam, ở Lạng Sơn, Cao Bằng và khu Tây Bắc. Thứ hai là loài Codonopsis
javanica Blume (Đảng Sâm, Kim tiền báo, Thổ Đảng sâm, Đảng Sâm nam) còn có
tên là cây Đùi gà, Mằn rày cáy (Tày), Cang hô (Mèo), có nhiều ở Cao Bằng, Lạng
Sơn, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái. Ở miền núi người dân tộc đã trồng xen Đảng sâm
với ngô mang lại hiệu quả cao.
Đảng sâm được xếp vào mức độ sắp nguy cấp (VU) trong Sách Đỏ Việt Nam
2007 và nằm trong nhóm IIa của Nghị Định 32-CP. Loài có giá trị là cây thuốc quý,
bị khai thác mạnh.Trước kia đẳng sâm bị khai thác nhiều, kích thước quần thể giảm.
7


Từ lâu đời, người dân đã biết khai thác và sử dụng cây Đảng sâm phục vụ cho
nhu cầu sống và buôn bán trên thị trường để kiếm thêm thu nhập. Rễ Đảng sâm tạo
thu nhập khá ổn định cho cuộc sống người dân. Tuy nhiên, số lượng quần thể và sản
lượng ngày càng bị giảm do nhiều nguyên nhân. Trong đó, các nguyên nhân chủ yếu
là người dân thường xuyên thu hái tận thu ngoài tự nhiên, thiếu kết hợp với tái sinh
và bảo tồn. Bên cạnh đó, việc phát triển diện tích rừng trồng cũng dẫn đến mất các
sinh cảnh tự nhiên cho sự phát triển của loài.
Chính vì vậy, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp kỹ thuật toàn diện cho việc
phát triển các mô hình phục hồi và gây trồng loài Đảng sâm tại khu vực phân bố tự
nhiên của loài là một việc làm hết sức cấp thiết.
2.3. Sơ lược về phương pháp nhân giống bằng hom
2.3.1. Khái niệm nhân giống sinh dưỡng
Nhân giống sinh dưỡng (vegatative propagation) là sự nhân giống từ một bộ
phận sinh dưỡng của cây (củ, thân, lá, cành, mô phân sinh) hoặc sự tiếp hợp các bộ
phận sinh dưỡng (ghép) để tạo thành một cây mới.
Nhân giống sinh dưỡng là một bộ phận của nhân giống vô tính (asexual
propagation).Vì nhân giống vô tính bao gồm cả nhân giống bằng bảo tử

(propagation of spore) lẫn nhân giống sinh dưỡng.
Theo nghĩa rộng thì nhân giống sinh dưỡng bao gồm nhân giống bằng hom,
chiết cành, ghép cành, ghép cây, nuôi cấy mô phân sinh, v.v… Theo nghĩa hẹp,
nhân giống sinh dưỡng thường được hiểu là nhân giống hom [19].
2.3.2. Khái niệm nhân giống bằng hom
Nhân giống bằng hom: là phương pháp dùng một phần lá, một đoạn thân, đoạn
cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới gọi là cây hom. Cây hom có đặc tính di truyền
như cây mẹ. Nhân giống bằng hom là phương pháp có hệ số nhân giống lớn nên
được dùng phổ biến trong nhân giống cây rừng, cây cảnh và cây ăn quả. Các loại
hom được dùng trong nhân giống ở cây rừng có thể là thân cây non, cành, lá, rễ,
v.v…
Hom thân và hom cành là hom được cắt từ một phần của thân cây non từ chồi
vượt hoặc từ cành non của cây. Một số loài như Tre(Bambusa sp.,),
Luồng(Dendrocalamus membrabaceus) hom giâm có thể là một đoạn thân, đoạn
thân có gốc, đoạn cành hoặc gốc cành sát thân. Hom của các loài cây gỗ đều được
lấy từ thân cây non hoặc cành non của cây (bao gồm cả chổi vượt). Các loại cành
giâm thường gặp là cành non, cành hoá gỗ yếu, cành nửa hoá gỗ và cànhhoá gỗ. Tuỳ
8


loài cây và điều kiện thời tiết lúc giâm hom mà chọn cành có khả năng ra rễ cao
nhất.
Hom rễ là loại hom được cắt từ rễ cây. Một số loài cây có thể dùng rễ để giâm
hom như Xoan (Melia azedarach), Long não (Cinnamomum camphora), Keo phấn
trắng (Acacia dealbata) (Longman, 1993), Hợp hoan (Albizia julibrissin), Lê (Pyrus
sp,.), Hồng (Diospyros kaki), v.v…
Ngoài ra, ở một số loài thực vật người ta có thể giâm hom từ lá (Thu hải
đường, Sống đời) hoặc từ củ (Khoai lang, v.v…), song không thuộc nhóm cây thân
gỗ nên không có ý nghĩa trong chọn giống cây rừng [19].
2.3.3. Ý nghĩa của nhân giống bằng hom

Nhân giống bằng hom truyền đạt các biến dị di truyền của cây mẹ (lấy vật liệu
giâm hom) cho cây hom. Cây hom không những giữ được các đặc trưng hình thái
giải phẫu của cây mẹ, giữ được các biến dị di truyền mong muốn được thể hiện
trong các kiểu hình của cây mẹ lấy cành, mà cây con giữ được các biến dị di truyền
về sinh trưởng nhanh và cho năng suất cao của chúng.
Nhân giống hom có thể giữ được ưu thế lai của đời F 1 và khắc phục được hiện
tượng phân li đời F2.
Nhân giống hom làm rút ngắn chu kì sinh sản, chu kì kinh doanh, đồng thời rút
ngắn thời gian thực hiện chương trình cải thiện giống cây rừng.
Nhân giống bằng hom góp phần quan trọng trong việc bảo tồn nòi giống cho
các loài cây khó thu hái và bảo quản hạt.
2.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến ra sự rễ của giâm hom
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom giâm thành hai
nhóm là nhóm các nhân tố nội sinh và nhóm các nhân tố ngoại sinh.
Thuộc nhóm nhân tố nội sinh bao gồm: đặc điểm di truyền của loài, của xuất
xứ và của cá thể, vai trò của tuổi cây, tuổi cành, vị trí cành, pha phát triển của cành
và các chất điều tiết sinh trưởng. Thuộc nhóm nhân tố ngoại sinh là các loại hóa chất
kích thích ra rễ và các nhân tố hoàn cảnh như độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ v.v.
Đặc điểm di truyền: Nhiều nghiên cứu cho thấy không phải tất cả các loài đều
có khả năng ra rễ như nhau. Theo khả năng giâm hom có thể chia thực vật thành 2
nhóm chính:
Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hom cành, là nhiều loài cây thuộc họ Dâu tằm
(Moraceae) như Dâu tằm, Đa, Sung, Dương v.v.
9


Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hạt, khả năng ra rễ của hom giâm bị hạn chế ở
các mức độ khác nhau. Những loài dễ ra rễ như Sở đến 35 tuổi vẫn có khả năng
ra rễ 70-90% [18], Liễu sam (Cryptomeria japonia) 40-50 tuổi vẫn có khả năng
ra rễ 90%, Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis) 40-50 tuổi vẫn ra rễ 80-90% [9].

Những loài cây khó ra rễ như Mỡ (Manglietia glauca) 5 tuổi chỉ ra rễ 14% [22],
đối với cây nhóm này muốn ra rễ với tỉ lệ cao phải dùng các cây non và phải xử
lí các chất kích thích ra rễ thích hợp.
Tuổi cây mẹ: Khả năng ra rễ không những do tính di truyền quy định mà còn
phụ thuộc rất lớn vào tuổi cây mẹ lấy cành. Cây càng già khả năng ra rễ của hom
càng kém.Ở một số loài cây, thậm chí khả năng ra rễ của hom chỉ tồn tại ở cây 1-2
tuổi.
Cây non không những có tỉ lệ ra rễ lớn mà thời gian ra rễ cũng ngắn hơn.
Ví dụ ở Vân sam hom lấy từ cây 30-35 tuổi phải dau 150 ngày mới ra rễ, trong
lúc hom lấy từ cây 6-8 tuổi thì sau 60-70 ngày đã ra rễ [20].
Vị trí lấy hom: Hom lấy từ các phần khác nhau trên thân sẽ có tỉ lệ ra rễ khác
nhau. Thông thường thì hom lấy từ cành ở tầng dưới dễ ra rễ hơn cành ở tầng trên,
cành cấp 1 dễ ra rễ hơn cành cấp 2, cấp 3.Một đặc điểm khá rõ nét là cành chồi vượt
dễ ra rễ hơn cành lấy từ tán cây, vì vậy đối với nhiều loài cây, người ta thường xử lí
cho cây ra chồi vượt để lấy hom giâm.
Các chất điều hòa sinh trưởng: Trong các chất điều hòa sinh trưởng thì
auxin được coi là chất quan trọng nhất trong quá trình ra rễ của cây hom. Song
nhiều chất khác tác động cùng auxin và thay đổi hoạt tính của auxin cũng tồn tại
một cách tự nhiên trong các mô của hom giâm và tác động đến quá trình ra rễ
của chúng. Trong đó quan trọng nhất là: Rhizocalin, đồng nhân tố ra rễ và các
chất kích thích và kìm hãm ra rễ [5].
Thời vụ giâm hom: Tỉ lệ ra rễ của hom giâm phụ thuộc vào trạng thái sinh
lí trong thời kì lấy hom. Một số loài cây có thể giâm hom quanh năm, song có
nhiều loài cây có tính thời vụ rõ rệt. Do đó không thể xác định lịch nhân giống
chung cho các loài vì tỉ lệ ra rễ phụ thuộc vào thời kỳ dinh dưỡng, nhịp độ sinh
trưởng và phát triển chồi không giống nhau [3].
Ánh sáng: Ánh sáng đóng vai trò sống còn trong ra rễ của hom giâm.
Không có ánh sáng và không có lá thì hom không có hoạt động quang hợp, quá
trình trao đổi chất khó xảy ra, do đó không có hoạt động ra rễ.
Các loài cây khác nhau yêu cầu ánh sáng khác nhau, những cây ưa sáng yêu cầu

ánh sáng cao hơn cây chịu bóng. Trong bóng tối hom các loài cây ưa sáng hoàn toàn
không ra rễ. Trong quá trình giâm hom cần sử dụng nhà kính hay màng PE trắng để
10


duy trì ánh sáng. Yêu cầu ánh sáng còn phụ thuộc vào mức độ hóa gỗ của hom. Hom
hóa gỗ yếu yêu cầu ánh sáng cao hơn hom hóa gỗ hoàn toàn [15].
Nhiệt độ: Cùng với ánh sáng, nhiệt độ là một trong những nhân tố quyết định
tốc độ ra rễ của hom giâm. Ở nhiệt độ quá thấp hom nằm ở trạng thái tiềm ẩn và
không ra rễ, còn ở nhiệt độ quá cao lại tăng cường hô hấp và bị hỏng, từ đó làm
giảm tỉ lệ hom ra rễ. Hom Ca cao (Theobroma cacao) ra rễ tốt nhất ở nhiệt độ trung
bình 25ºC (thay đổi 20ºC - 32ºC) khi nhiệt độ xuống 8 - 20ºC thì bị chết [5].
Độ ẩm: Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể là nhân tố hết sức quan trọng trong
quá trình giâm hom. Các hoạt động quang hợp, hô hấp, phân chia tế bào và chuyển
hóa vật chất trong cây đều cần nước.Thiếu nước thì hom bị héo, nhiều nước quá thì
hoạt động của men thủy giải tăng lên, quá trình quang hợp bị ngưng trệ.Khi giâm
hom mỗi loài cây đều cần một độ ẩm thích hợp, làm mất độ ẩm của hom 15 – 20%
thì hom hoàn toàn mất khả năng ra rễ [15].
Giá thể giâm hom: Giá thể cũng góp phần vào thành công của giâm hom. Các
loại giá thể được dùng hiện nay chủ yếu là cát tinh, mùn cưa hoặc xơ dừa băm nhỏ
hoặc đất vườn ươm. Một giá thể giâm hom tốt là có độ thoáng khí tốt và duy trì
được độ ẩm trong thời gian dài mà không ứ nước, tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt
đồng thời phải sạch, không bị nhiễm nấm và không có nguồn sâu bệnh, độ pH
khoảng 6,0 - 7,0 [15].
2.4. Các nghiên cứu về nhân giống bằng hom
2.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, những thành tựu về nhân giống vô tính nói chung và
nhân giống bằng hom nói riêng đã được khẳng định. Đặc biệt, từ năm 1900 đến
nay, con người đã thành công trong công tác nghiên cứu nhân giống một số loài
cây thông qua con đường sinh sản vô tính. Nhân giống bằng hom được ứng dụng

rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Nhân giống bằng hom đã được áp dụng vào
thực tiễn sản xuất từ nhiều thế kỷ qua, ban đầu chỉ để trồng cây cảnh, sau này
được đưa vào sản xuất, phục vụ công tác trồng rừng… Liễu Sam (Cruptomeris
japonica) đã được nhân giống bằng hom cành vào năm 1400 ở Nhật Bản, Dương
Populus đã được nhân giống vô tính và trồng các hom chưa ra rễ từ trước đây 5
thế kỷ. Các nước có những thành tựu đáng khích lệ trong công tác nhân giống
bằng hom và trồng rừng các dòng vô tính như Brazil, Australia, Congo,
Colombia, Nam Phi, Ấn Độ, New Zeland, Pháp, Đức, Thụy Điển, Nhật Bản,
Mỹ… Các loài cây rừng được tập trung nghiên cứu nhân giống như các loài Bạch
đàn, các loài Keo, các loài cây lá kim, các loài cây lá rộng Châu Âu, các loài đặc
11


hữu quốc gia, các loài cây quý hiếm, các loài cây truyền thống…[19].
Bạch đàn phân bố chủ yếu ở Australia nhưng lại được trồng nhiều nhất ở Brazil
và phát triển nhanh trên đất nước này.Vào đầu những năm 1950, người ta cho rằng
Bạch đàn là loài cây không thể nhân giống bằng hom cành.Vào cuối những năm
1950, nhân giống hom Bạch đàn vẫn được coi là khó. Song từ đó đến nay, do tìm
được các biện pháp giải quyết thích hợp mà Bạch đàn trở thành loài cây nổi tiếng
trong việc đưa trồng dòng vô tính vào thực tiễn sản xuất lâm nghiệp. Nhân giống
bằng hom thân Bạch đàn non thường cho tỉ lệ ra rễ cao.Ngay từ năm 1961, Giordano
đã giâm hom Bạch đàn (Eucalyptus camaldulensis) một năm tuổi đạt tỉ lệ ra rễ trên
60%. Sau đó không lâu, nhà nghiên cứu người Pháp là Franclet (1963) đã đưa ra một
danh sách bao gồm 58 loài bạch đàn đã được thử nghiệm giâm hom và thành công ở
từng mức độ khác nhau [19].
Các loài cây lá kim được nhiều nước trên thế giới tập trung nghiên cứu, ứng
dụng giâm hom nhằm phục vụ cho các chương trình trồng rừng bằng dòng vô tính
đã được tuyển chọn. Riêng hai nước Australia và New Zeland sản xuất hàng năm
trên 10 triệu cây hom Pinus radiata, Canada sản xuất hàng năm trên 3 triệu cây hom
Vân sam đen (Picea mariana), Vân sam (Picea sitchensis) được 3 nước trên tạo ra

gần 4 triệu cây hom mỗi năm. Năm 1989, ở Nhật Bản sản xuất 31,4 triệu cây hom
Liễu Sam (Cryptomeris japonica). Vân sam Na Uy (Picea abies) là loài cây lá kim
cũng thu được thành công trong việc nhân giống bằng hom với số lượng lớn phục
vụ công tác trồng rừng bằng dòng vô tính, nhất là ở Châu Âu. Chỉ tính riêng một số
cơ sở giâm hom chính của 11 nước mà hàng năm sản xuất gần 11 triệu cây hom.
Qua hơn 10 năm khảo nghiệm ở Mỹ, mới đưa vào sản xuất đại trà cây Thông Noel
(Pinus attenuata x P. radiata) với các đặc tính tốt của cây trang trí, sinh trưởng
nhanh, chịu lạnh, chịu hạn [19].
Các loài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae), là họ đặc hữu phân bố chủ yếu ở
vùng nhiệt đới Đông Nam Á, được xem là khó ra rễ hoặc tỉ lệ ra rễ thấp khi nhân
giống bằng hom. Ngày nay, việc nghiên cứu nhân giống bằng hom cho một số
loài cây họ Dầu đã được tiến hành tương đối thành công ở một số nước nhiệt đới
như Indonesia, Philippinnes, Brunei-Darussalam,… Ở Indonesia, nhờ áp dụng
phương pháp mới trong việc nhân giống bằng hom cây họ Dầu mà tỉ lệ ra rễ đã
đạt từ 90% đến 100% với các loài Anisopterra marcinata, Shorea smihiana, S.
laevis, S. leprosula, S. oralis, S. blanco và S. paucifolia.23 loài trong số 60 loài
thuộc chi Dipterocarpus đã thành công nhờ sử dụng kỹ thuật nhân giống mới
này (Smith, 1990) [19]. Kết quả cũng rất khả quan ở Malaysia, tỉ lệ ra rễ cho các
loài thuộc chi Dipterocarpus như D. chartacen là 60% đến 68%, D. baudi là
12


70% đến 74%, D. kunstleri là 28%, trong khi đó một số loài thuộc chi Shorea có
thể cho tỉ lệ ra rễ 80% đến 90% (Aminah, 1996) [7]. Một số loài cho tỉ lệ ra rễ
khá cao Shorea bracteolate (85%), Shorea assamica (82%), Shorea ovalic
(79%), hay loài Sao đen (Hopea odorata) (86%) [19].
Những thành tựu đạt được trong nhân giống bằng hom và trồng rừng vô tính
cây hom là kết quả nghiên cứu hàng chục năm qua nhiều thế hệ của các nhà khoa
học lâm nghiệp trên thế giới. Các kết quả trên là điều khích lệ cho các nước khác đổi
mới trong công tác nghiên cứu nhằm cải thiện giống cây rừng, tạo tiền đề cho việc

tăng sản lượng và chất lượng rừng trồng, đáp ứng nhu cầu đời sống ngày càng cao
của xã hội [14].
2.4.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm hom đã và đang đưa vào sử
dụng ngày một nhiều và đóng vai trò không thể thiếu trong công tác chọn giống,
bảo tồn tài nguyên di truyền ở trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng.
Chính vì thế việc nghiên cứu nhân giống bằng hom là việc làm thiết thực nhằm
góp phần đẩy nhanh sản xuất cây con bằng hom phục vụ cho việc trồng rừng [3].
Ở Việt Nam nhân giống bằng hom được tiến hành từ những năm cuối thập kỉ 70,
ban đầu chúng ta nhập một số dây chuyền công nghệ từ Trung Quốc để sản xuất
cây con bằng mô hom. Đến nay, kĩ thuật nhân giống bằng hom được đưa vào
ứng dụng rất phổ biến trong các đơn vị nghiên cứu cũng như các đơn vị sản xuất
cây con trồng rừng và đã thu được những kết quả bước đầu, có thể đưa vào sản
xuất đại trà cho một số đối tượng cây trồng chính phục vụ cho bảo tồn và chọn
giống [16].
Hiện nay nhiều loài cây gỗ đã được thử nghiệm giâm hom thành công và cây
hom một số loài đã được đưa vào trồng rừng trên diện tích rộng như bạch đàn, keo,
phi lao. Một số loài cây bản địa quý cũng đã được nhân giống thành công bằng hom
và bước đầu trồng có triển vọng như Bách xanh, Thông đỏ, Hồng tùng, Re gừng, Vù
hương, v.v... Nhân giống hom là một biện pháp có hiệu quả để nhân giống hàng loạt
các loài cây bản địa quý hiếm, đặc biệt là cho mục đích bảo tồn nguồn gen cây rừng.
Các kết quả nhân giống bằng hom và bước đầu trông thử nghiệm các dòng vô
tính cây rừng ở nước ta rất khả quan. Đó là cơ sở khoa học và có ý nghĩa thực tiễn
rất lớn, tạo điều kiện cho chúng ra tiếp tục đi sâu nghiên cứu, ứng dụng các thành
tựu khoa học công nghệ vào việc cải thiện giống, bảo tồn nguồn gen của cây rừng.

13


14



PHẦN 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.

Mục tiêu

3.1.1. Mục tiêu chung
-

Hướng đến mục tiêu phát triển gây trồng cây Đảng sâm để cung cấp nguồn
nguyên liệu sử dụng và tiêu thụ của người dân.
Góp phần bảo tồn loài cây Đảng sâm trước tình trạng khai thác không hợp lí
hiện nay.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể

-

Tìm hiểu một số đặc tính sinh vật học, sinh thái học và công dụng làm thuốc của
cây Đảng sâm.
Đánh giá được ảnh hưởng của các loại hỗn hợp giá thể và chế độ che bóng đến
kết quả nhân giống của loài cây này.
Bước đầu đề xuất một số chỉ tiêu kỹ thuật trong nhân giống sinh cây Đảng sâm
ở huyện A Lưới.
3.2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu:

-

Đảng sâm có tên khoa học: Codonopsis javanica (Blume) Hook.f.
Chi Codonopsis
Họ Hoa chuông (Campanulaceae)
Bộ Hoa chuông (Campanulales)
Lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida)
Ngành Hạt kín (Magnoliophyta)
Giới Thực vật (Plantae).
Địa điểm nghiên cứu:
Các thí nghiệm được bố trí tại vườn ươm ở thôn 5, xã Hồng Kim, huyện
A Lưới.
-

- Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 1/2016 – 6/2016, bao gồm quá trình làm đất, đóng bầu, cắt hom, cấy
cây, theo dõi và đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng cây Đảng sâm qua các giai đoạn.
Vật liệu nghiên cứu:
• Cây con từ hạt có sẵn tại vườn ươm xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
-

15


Hom giống Đảng sâm thu thập từ các nguồn giống sẵn có ngoài thực địa và tại
Trung tâm Y tế huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên Huế.
• Các loại giá thể: đất, cát, xơ dừa; phân chuồng hoai.



3.3.

Nội dung thực hiện

3.3.1. Điều kiện tự nhiên,kinh tế, xã hội của xã Hồng Kim, huyện A Lưới,
tỉnh Thừa Thiên Huế
-

Vị trí địa lý.
Điều kiện tự nhiên.
Điều kiện kinh tế xã hội.
3.3.2. Tìm hiểu đặc tính sinh vật học, sinh thái học và công dụng làm thuốc
của cây Đảng sâm Codonopsis javanica (Blume) Hook. F.
- Tên gọi và phân loại
- Đặc điểm về hình thái
- Đặc điểm về sinh thái
- Công dụng làm thuốc của cây Đảng sâm
3.3.3. Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm đến sinh trưởng của
hom
- Ảnh hưởng của hỗn hợp giá thể đến sinh trưởng của hom Đảng sâm
- Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến sinh trưởng của hom Đảng sâm
3.3.4. Đánh giá ảnh hưởng của nhân tố thí nghiệm đến sinh trưởng của cây
con
- Ảnh hưởng của hỗn hợp giá thể đến sinh trưởng của cây con Đảng sâm
- Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến sinh trưởng của cây con Đảng sâm
3.4.

Phương pháp nghiên cứu


3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.1.1. Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp
-

Thu thập số liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu
vực nghiên cứu dựa trên số liệu tổng hợp của Ủy ban Nhân dân các Xã và
các Ban ngành địa phương.

-

Kế thừa những tài liệu liên quan đến phân bố, đặc điểm sinh học, sinh thái
học, giá trị, kỹ thuật gây trồng, quản lý, bảo tồn… cây Đảng sâm.

-

Các bài báo, báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu đã được
công bố và sách tra cứu chuyên ngành và các nguồn thông tin khác.

3.4.1.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm và thu thập số liệu thứ cấp
a. Bố trí thí nghiệm và thu thập số liệu
 Bố trí thí nghiệm:

Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi
16


công thức thí nghiệm có 3 lần lặp, mỗi lần lặp có dung lượng mẫu n = 30 cây.

Hình 3.1. Bố trí thí nghiệm nhân

giống Đảng sâm
 Thí nghiệm 1: Thí nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá

trình ra rễ và sinh trưởng
Bố trí thí nghiệm theo khối ngẩu nhiên đầy đủ 3 lần lặp 5 công thức giá thể
khác nhau. Công thức bố trí thí nghiệm lần lượt:
Công thức 1: 100% đất
Công thức 2: Hỗn hợp 50% đất, 50% cát
Công thức 3: Hỗn hợp 50 % đất, 30% cát, 20% xơ dừa
Công thức 4: Hỗn hợp 50% đất, 30% cát, 20% phân chuồng hoai
Công thức 5: Hỗn hợp 50% đất, 30% xơ dừa, 20% phân chuồng hoai.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Lặp 1
CT1
CT2
CT3
CT4
CT5
Lặp 2
CT3
CT4
CT5
CT1
CT2
Lặp 3
CT5
CT1
CT2
CT3
CT4

Tiến hành quan sát và ghi chép số liệu định kì
 Thí nghiệm 2: Thí nghiệm ảnh hưởng độ che bóng đến quá trình sinh

trưởng và phát triển.
Tiến hành bố trí 1 nhân tố 3 lần lặp theo khối ngẫu nhiên đầy đủ 30/cây/lần
lặp/công thức. thí nghiệm gồm 4 công thức che bóng khác nhau: 0%, 25%,
50%, 75%.
Công thức 1: Độ che bóng: 0%
Công thức 2: Độ che bóng: 25%
Công thức 3: Độ che bóng: 50%
Công thức 4: Độ che bóng: 75%.
17


Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Lặp 1
CT1
CT2
Lặp 2
CT3
CT4
Lặp 3
CT2
CT3
Tiến hành quan sát và ghi chép số liệu định kỳ.

CT3
CT1
CT4


CT4
CT2
CT1

b. Phương pháp lấy hom, xử lí và cấy hom.
- Dụng cụ: Kéo bấm cành, kéo cắt hom, xô, chậu.
- Kĩ thuật chọn hom: Công tác chọn hom là rất quan trọng quyết định đến thành

-

-

-

-

-

-

công hay thất bại của việc giâm hom. Hom được lấy trên cây ưu tú đã chọn.
Chọn những dây già, mọc trực tiếp từ thân mẹ ra, cành có nhiều mắt. Hom càng
mập chất dinh dưỡng dự trữ càng nhiều, sẽ là nguồn cung cấp năng lượng cho
hom ra rễ, ra lá và giúp cho hom sinh trưởng ở giai đoạn đầu được tốt, tỷ lệ sống
cao.
Thời điểm, cách thu hái hom và xử lý hom: Cắt dây lấy hom được tiến hành vào
buổi sáng sớm, lúc trời còn dịu mát. Trên đường vận chuyển hom được bọc bao
tải ướt tưới thêm nước thường xuyên.
Cắt và xử lý hom:
+ Dùng kéo sắc để cắt hom, chiều dài hom tùy theo loại hom. Mỗi hom có

từ 2 mắt trở lên, có một vài chồi ngủ.
+ Cắt hết lá và chồi ở phần dưới chỉ để lại 3 - 4 lá.
+ Mặt trên cắt bằng, mặt dưới cắt vát.
+ Sau khi hom được cắt ngâm ngay hom vào nước lã, rồi vớt hom ra để ráo
nước, thành từng mẫu.
Cách giâm hom:
+ Dùng que cấy để chọc lỗ vào giá thể với độ sâu khoảng 3 - 4cm, cắm
hom vào lỗ nhẹ nhàng không làm xây xát gốc hom. Dùng hai ngón tay bóp nhẹ
đất xung quanh gốc hom để đất tiếp xúc chặt với gốc hom. Sau khi cắm tưới
nước nhẹ bắng nước sạch.
Chăm sóc hom giâm:
+ Tưới ẩm cho hom giâm bằng hệ thống tưới phun tự động. Giai đoạn đầu
giâm hom, thời gian giữa 2 lân phun cách nhau 3 – 4 phút, mỗi lần phun từ 5 – 7
giây. Giai đoạn hom bắt đầu có rễ và có lá mới, thời gian giữa 2 lần phun cách
nhau 5 – 7 phút, mỗi lần 5 – 7 giây.
+ Cách đo đếm số liệu.
Dụng cụ đo đếm các chỉ tiêu: Thước đo có đơn vị tính là centimet(cm), dùng
mắt để quan sát.
Trước khi nhổ cây lên phải tưới đẫm cho bầu mềm để nhổ cây không bị đứt rễ.
Khi nhổ cây phải nhẹ nhàng, nhổ từ từ tránh làm đứt rễ. Nhổ toàn bộ phần rễ của
cây lên rồi rửa sạch sau đó quan sát và đo đếm các chỉ tiêu.
Việc thu thập số liệu được thực hiện vào thời điểm 60 ngày sau khi tiến hành thí
18


nghiệm, các chỉ tiêu thu thập bao gồm:
+ Tỉ lệ sống (tỉ lệ hom ra rễ, tỉ lệ hom chưa ra rễ), tỉ lệ chết.
+ Chiều dài rễ dài nhất.
+ Số lá
+ Đường kính gốc

+ Chiều cao vút ngọn.
3.4.2. Phương pháp xử lí số liệu.
-

19

Sử dụng phần mềm Excel xử lý thống kê trong Lâm nghiệp để phân tích
và xử lý số liệu:
+

Các số liệu sau khi đo đếm được nhập vào Excel và tính theo giá trị
trung bình cộng;

+

Dùng tiêu chuẩn khi bình phương để đánh giá tỷ lệ sống giữa các
công thức và tìm ra công thức nghiệm tốt nhất;

+

Sử dụng phương pháp phân tích phương sai 1 nhân tố để xác định
sự sai khác về các chỉ tiêu sinh trưởng của cây Đảng sâm ở các điều
kiện khác nhau. Dùng tiêu chuẩn t (Student) để tìm công thức thí
nghiệm tốt nhất/ kỹ thuật trồng tốt nhất.


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU – THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên

4.1.1.1. Vị trí địa lí
Hồng Kim là xã nằm ở phía Bắc của huyện A Lưới, cách trung tâm của huyện
A Lưới 3 km về phía Nam. Ranh giới hành chính được xác định như sau:
Xã Hồng Kim là xã thuộc huyện miền núi nằm ở phía tây của tỉnh Thừa Thiên
Huế là một xã nằm sát trung tâm thị trấn A Lưới về phía Nam.
+ Phía Bắc giáp xã Bắc Sơn.
+ Phía Nam giáp thị trấn huyện A Lưới.
+ Phía đông giáp xã Hồng Hạ.
+ Phía tây giáp xã Hồng Bắc.

Hình 4.1. Bản đồ hành chính huyện A Lưới
(Nguồn: thuathienhue.gov.vn)
Hồng Kim có tổng diện tích đất tự nhiên 4066,1 ha, toàn xã có 6 thôn và 1
Làng gồm: Thôn 1, Thôn 2, Thôn 3, Thôn 4, Thôn 5, Thôn 6 và Làng Việt Tiến.
4.1.1.2.
20

Địa hình và đất đai


-

Địa hình:

Xã Hồng Kim kéo dài theo hướng Bắc - Bắc, xã có đường Hồ Chí Minh chạy
qua theo hướng Bắc - Nam nối liên với các xã trong huyện. Địa hình của xã chủ yếu
là đồi núi phân bố ở phía Nam và Bắc và phía tây, độ cao trung bình là 1500m so
với mức nước biển, nơi cao nhất là khu vực núi Đông Nai cao 1700 m, còn lại là
những đồi núi thấp. Dựa vào đặc điểm địa hình của xã được chia làm hai bộ phận
chính đó là:

+ Vùng đất thấp chạy theo sông Tà rinh.
+ Vùng núi thấp và trung bình chiếm diện tích lớn, được phân bố đều từ Bắc
đến Nam.
Ngoài ra, độ dốc cũng được đánh giá là một yếu tố quan trọng trong tiềm
năng tự nhiên lãnh thổ, nó ảnh hưởng đến quá trình xói mòn và kỹ thuật canh tác.
-

Đất đai:

Diện tích đất đai các loại (có biểu chi tiết kèm theo trong phần phụ lục).
Hồng Kim có diện tích đất tự nhiên 4.066,1 ha, trong đó đất nông nghiệp
3895,59ha, chiếm 95,33 %; đất phi nông nghiệp 76,59ha, chiếm 1,88 %; đất chưa sử
dụng 108,61ha, chiếm 2,7 %. Đất đai chủ yếu là đất feralit vàng nâu phát triển trên
đất đá mẹ phiến sa thạch. Ngoài ra còn có các loại đất vàng nâu trên dốc tụ, phù sa
không bồi tụ, đất vàng nhạt phát triển trên đá cát và có chứa một ít đất xám bạc màu.
Bảng 4.1. Diện tích đất đai các loại tại xã Hồng Kim
Loại đất

Diện tích ( ha )

Cơ cấu ( % )

Diện tích đất tự nhiên

4.066,1

100

3895,59


95,33

2. Đất phi nông nghiệp

76,59

1,88

3. Đất chưa sử dụng

108,61

2,7

1. Đất nông nghiệp

(Nguồn: ĐềánXây dựng nông thôn mới xã Hồng Kim, 2011–2015)
Tài nguyên đất xã Hồng Kim khá đa dạng và thích hợp với nhiều loại cây
trồng song tính chất không đồng đều tạo nên sự canh tác phân tán, điều kiện cơ giới
hóa gặp nhiều khó khăn.Bên cạnh đó quy trình canh tác không đúng làm giảm độ
phì và gây thoái hóa đất.
Khí hậu - thủy văn
-

Đặc điểm khí hậu

Xã Hồng Kim nằm trong khu vực thuộc khí hậu miền trung chịu ảnh hưởng
của gió mùa, hình thành hai mùa mưa nắng rõ rệt, mùa hè gió tây nam nắng nóng
21



4.

kéo dài từ tháng tư đến tháng chín, mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc
lạnh kéo dài từ tháng mười đến tháng ba năm sau, xen giữa hai mùa có gió đông
nam ẩm và gió Tây Bắc khô rét.
Nhiệt độ trung bình trong năm là: 310C, nhiệt độ cao nhất là: 390C, nhiệt độ
thấp nhất là: 80C.
Lượng mưa bình quân là 3120mm, thấp nhất là 2520mm, cao nhất là
4570mm. Số ngày mưa trong năm là 210 ngày, thường tập trung vào tháng 10, 11,
12. Độ ẩm trung bình là 68%.
Hướng gió chính là Tây Nam thổi từ tháng 4 – tháng 9, hướng gió Đông Bắc
thổi từ tháng 10 – tháng 4 năm sau
Nhìn chung, khí hậu ở xã Hồng Kim có nền nhiệt độ tương đối cao và khá ổn
định, nhiệt độ trung bình 310C do đó rất phù hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản.
- Đặc điểm thủy văn
Do nhận được lượng mưa hằng năm lớn nên trên địa bàn xã Hồng Kim có
mạng lưới khe sông suối khá dày đặc như suối Ta Rinh, suối A Nor mặc dù
không rộng lắm nhưng cũng phục vị đắc lực cho việc tưới tiêu cũng như cung
cấp nước sinh hoạt cho người dân nơi đây. Ở đây lũ chỉ xảy ra trong 3 tháng
cuối mùa mưa (tháng 9, 10, 11), tức là lũ xảy ra chậm một tháng và kết thúc
trước một tháng so với mùa mưa. Điều này chứng tỏ ở đây có tầng đất dày và
thảm thực vật rừng che phủ tốt nên có tác dụng điều tiết dòng chảy ở khu vực,
chính vì vậy về mùa khô nhờ nguồn có nguồn nước ngầm cung cấp nên các con
sông suối ở đây ít khô cạn.
Tài nguyên thiên nhiên
-

Tài nguyên rừng


Hiện nay xã Hồng Kim có diện tích rừng là 3800,16ha với rừng tự nhiên là
3486,6ha, trong đó có 408,52ha đất rừng sản xuất, 489,90ha đất rừng phòng hộ và
2890,38ha đất rừng đặc dụng. Rừng giàu đạt 2182,1ha, rừng trung bình đạt
1251,8ha, và rừng phục hồi có 52,7ha. Do yếu tố địa hình phức tạp và thảm thực vật
ở đây còn khá tốt nên trong rừng có nhiều loài động vật hoang dã sinh sống.
UBND xã đã triển khai theo Nghị quyết của HĐND xã về việc giao đất, giao
rừng cho nhóm cộng đồng, nhóm hộ gia đình, cá nhân quản lý, chăm sóc và bảo vệ
rừng. Dự án BBC đầu từ trồng rừng kinh tế 15ha (Keo, Bời lời). Trồng làm giàu
rừng 40 ha trong đó rừng cộng đồng thôn 3: 31ha, rừng cộng đồng thôn 4: 9ha (Dự
án BBC), chủ yếu trồng cây Lim, Gõ, Sến. Chủ yếu là giao cho cộng đông các thôn,
kết quả là: thôn 1 được giao 68,8ha, thôn 2 được giao 69,5ha, thôn 3 được giao
58,3ha, thôn 4 được giao 63,8ha, thôn 5 được giao 79,5ha và thôn 6 được giao quản
lý 58ha.
22


+ Cây Keo: diện tích các hộ tự mua giống để trồng mới là 20ha vào diên tích đất
rừng đã khai thác
+ Cây mây: diện tích năm 2014 là 17,5ha, trồng tại rừng cộng đồng thôn 3 (thuộc dự
án BBC đầu tư).
-

Cảnh quan thiên nhiên và du lịch sinh thái

Khu du lịch sinh thái nổi tiếng nhất là khu du lịch sinh thái A Nôr. Thác A Nor
cách trung tâm huyện chỉ 3 km về phía Đông Bắc. Khu này có diện tích hơn 10ha,
mây mù bao phủ quanh năm gợi cho du khách gần gũi với cảnh vật nơi đây. Phong
cảnh tuyệt đẹp với 3 thác nước không cách xa nhau cao 8m, 60m và 120m tựa như
bức màn nhung trắng muốt.

Bên cạnh đó kết hợp với kết hợp với những cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp như
suối nước nóng Tôm Trung, thác Pông Chất, hang động Kềnh Crâm ( xã A Roàng),
hồ mặt nước ngầm A Co ( xã Phú Vĩnh, Hồng Thượng), đèo Pe Ke (xã Hồng Vân,
Hồng Thủy)…
-

Tài nguyên nước

+ Nguồn nước mặt: chủ yếu là nhờ vào nguồn nước trời và nước của các con sông
suối cung cấp cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Diện tích mặt nước
chuyên dùng là: 13,53ha trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản 7,3ha. Nguồn mặt
nước của xã Hồng Kim chủ yếu từ sông các khe như Tà Rinh, A Nôr. Nhìn chung
nguồn tài nguyên nước mặt thuận lợi cho việc xây dựng các hồ đập tự chảy.
+ Nguồn nước ngầm: là nguồn tài nguyên quan trọng bổ sung cho nguồn nước mặt.
Hồng Kim là nơi có nguồn nước nhập phong phú, mạch nước ngầm trong khu vực
khá cao, thuận lợi cho việc đào giếng, cung cấp nguồn nước sạch cho hoạt của đồng
bào trong vùng.
-

Tài nghuyên khoáng sản

Theo tài liệu của Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường thì
trên địa bàn xã chủ yếu là cát, sạn phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng.
4.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
4.1.2.1. Đặc điểm dân cư
Tổng số họ xã đang quản lý là: 479 hộ, với 1.869 nhân khẩu, trong đó: nam
917 người, nữ 947 người, nhân khẩu trên 14 tuổi trở lên là 1.372 người.
Cơ cấu lao động theo các ngành là: dịch vụ 7%, nông lâm nghiệp 97%. Lao
động ở đây có trình độ chuyên môn thấp, chủ yếu là dựa và kinh nghiệm nên năng
suất còn thấp.

Cuộc sống của người dân nơi đây rất thấp, số hộ nghèo đói vần còn còn cao
so với mặt bằng chung của toàn huyện, các chương trình xóa đói giảm nghèo được
phổ biến toàn huyện song tình trạng đói nghèo vẫn còn cao.
23


Nhà ở dân cư nông thôn:
+ Số nhà tạm 116 nhà, tỷ lệ 27,35%.
+ Tỷ lệ nhà kiến cố và bán kiến cố chiếm 75,4%.
+ Tình trạng về xây dựng nhà ở dân cư thực hiện theo đúng quy hoạch còn
hơi lúng túng, tỷ lệ nhà kiến cố ngày càng tăng nhưng ở mức độ trung bình.
4.1.2.2. Tình hình kinh tế và tổ chức sản xuất:
Cơ cấu kinh tế hiện nay xác định Nông - Lâm nghiệp; Dịch vụ và Công
nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp.
Tình hình các ngành sản xuất:
+ Nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, năng suất, chất lượng
sản phẩm được nâng lên. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng trong trồng
trọt và chăn nuôi; việc cơ cấu cây trồng, vật nuôi từng bước được chuyển đổi. Trong
sản xuất lúa nước nông dân đã sử dụng các loại phân như: NPK, Lân, Kali…, giống
lúa được xác nhận, thay đổi phương thức canh tác nên đưa năng suất cây lúa lên cao,
hàng năm đạt 50 tạ/ha/vụ. Các loại cây màu phong phú về chủng loại ngày càng
phát triển.
+ Chăn nuôi: Qua thống kê ngày 20 tháng 5 tổng đàn hiện có 725 con, trong đó:
trâu 51 con; bò 220 con; lợn 356 con; dê 98 con. Tổng đàn gia cầm hiện có 2.850
con.
Nuôi cá nước ngọt đang được nông dân đầu tư nuôi có hiệu quả, nhiều
loại giống cá phù hợp đã được thả nuôi như trăm cỏ, mè, rô phi đơn tính… hàng
năm có một số hộ đã có thu nhập cao từ nuôi cá hồ, hiện nay diện tích ao hồ
7,3ha.
+ Lâm nghiệp:Cây keo những năm gần đây đã cho thu nhập cao nên đã thu hút

nhiều người tham gia trồng rừng kinh tế. Hiện nay toàn xã 107ha.Những khó
khăn trong công tác trồng rừng là nhiều diện tích hiện nay không có đường để
khai thác nên làm sản phẩm rừng trồng bị mất giá.Công tác quản lý bảo vệ rừng;
phòng chống chữa cháy rừng được thực hiện tốt.
Thu nhập bình quân/đầu người năm 2010: 10,5 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2010: 29,95%.
4.1.2.3. Các đặc trưng về văn hóa, xã hội và môi trường
- Về văn hóa – giáo dục:
+ Tỷ lệ thôn đạt chuẩn văn hóa có 2/6 thôn với 335 hộ đạt 73,64% hộ trên toàn
xã.
+ Phổ cập giáo dục THCS: Đạt

24


+ Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ
túc, nghề ): 65%.
- Y tế:
+ Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
+ Tỷ lệ tham gia các hình thức bảo hiểm y tế 45 %.
- Môi trường:
+ Số công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: 75 %.
+ Tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 95 %
+ Tỷ lệ hộ có đủ 3 công trình (nhà tắm, hố xí, bể nước ) đạt chuẩn 5,6 %.
+ Tỷ lệ hộ có cơ sở chăn nuôi hợp vệ sinh: (Có 01 hộ ở thôn A Tia 3).
+ Xử lý chất thải: Chưa có.
+ Tỷ lệ cơ sở sản xuất chưa đạt tiêu chuẩn môi trường: Không
+ Nghĩa trang: đã quy hoạch và có địa điểm nhưng chưa thiết kế, đóng cột mốc
cụ thể từng khu vực (Đã xác định 03 khu vực).
Tình hình chung về môi trường và quản lý môi trường trên địa bàn xã:

nước sinh hoạt chủ yếu là nước giếng và nước tự chảy chưa qua xử lý; các công
trình vệ sinh tỷ lệ còn thấp, hố xí đa số chưa đảm bảo vệ sinh; việc thu gom rác
thải đang chỉ mới thực hiện được ở từng hộ gia đình trên địa bàn xã, còn ở các
thôn thì chưa bảo đảm; nghĩa địa tuy đã quy hoạch nhưng chưa có quy chế quản
lý cụ thể.
 Thuận lợi:
- Có sự chỉ đạo chặt chẽ và cụ thể của Đảng ủy và UBND xã về triển khai thực
hiện chương trình dự án.
- Có sự tham gia tích cực của toàn thể cán bộ cốt cán thôn trong quá trình xem
xét, lựa chọn hộ hưởng lợi từ dự án.
- Người dân có điều kiện để phát triển sản xuất đem lại hiệu quả thu nhập cho
gia đình.
 Khó khăn:
- Một số hộ không tích cực tham gia lao động sản xuất dẫn đến đói, nghèo còn
nhiều.
- Một số hạng mục triển khai thực hiện đầu tư thiếu đồng bộ, chấp vá làm nhiều
lần do nguồn vốn quá ít do vậy kết quả đem lại đạt chất lượng không cao.
 Đánh giá chung:
Với thực trạng tình hình địa phương như đã nêu trên, một số lĩnh vực đã
đạt so với tiêu chí nông thôn mới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tiêu chí chưa đạt chủ
25


×