Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

thực trạng của ngành thủy sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.93 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU:
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI -------------------------------------------- 01
I.1. CÁC HỌC THUYẾT VỀ LI THẾ SO SÁNH--------------------------------------- 01
I.1.1. Nội dung các lý thuyết --------------------------------------------------------- 01
I.1.2. Ứng dụng cho ngành Thuỷ sản Việt Nam -------------------------------- 01
1.2. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG ------------------------------------------------------- 01
1.2.1. Khái niệm về thò trường ------------------------------------------------------ 01
1.2.2. Nghiên cứu thò trường để phân khúc, lựa chọn thò trường mục tiêu,
đònh vò thò trường----------------------------------------------------------------------- 02
I.3. GIỚI THIỆU SƠ LƯC VỀ NHẬT BẢN --------------------------------------------- 02
I.3.1.Vò trí đòa lý Nhật Bản----------------------------------------------------------- 02
I.3.2.Dân số và con người Nhật Bản ----------------------------------------------- 02
I.3.3.Kinh tế Nhật Bản---------------------------------------------------------------- 03
I.3.4. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản --------------------- 05
I.4. VAI TRÒ CỦA NGÀNH THUỶ SẢN ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI -------------------------------------------------------------------------------------------- 07
I.4.1. Đóng góp của ngành trong Tổng sản phẩm quốc dân----------------- 07
I.4.2.Đóng góp của ngành đối với hoạt động xuất khẩu ở nước ta -------- 07
I.4.3. Vai trò của ngành thuỷ sản trong tạo công ăn việc làm-------------- 08
Chương II : THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TẠI THỊ
TRƯỜNG NHẬT BẢN ------------------------------------------------------------------------- 09
II.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH THUỶ SẢN
VIỆT NAM --------------------------------------------------------------------------------------- 09
II.1.1. Đặc thù của ngành thuỷ sản Việt Nam ---------------------------------- 09
II.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của ngành Thuỷ sản Việt Nam09
II.2. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG THỜI GIAN QUA CỦA NGÀNH THUỶ
SẢN VIỆT NAM -------------------------------------------------------------------------------- 11
II.2.1. Về mặt chế biến và quản lý chất lượng sản phẩm -------------------- 11
II.2.2. Về mặt hoạt động Marketing ---------------------------------------------- 12
II.2.2.1. Về sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản12


II.2.2.2. Về giá cả sản phẩm xuất khẩu ---------------------------------- 17
II.2.2.3. Về phân phối sản phẩm xuất khẩu ----------------------------- 18
II.2.2.4. Về xúc tiến thương mại ------------------------------------------- 19
II.2.3. Về mặt Thông tin thương mại ---------------------------------------------- 19
1

II.2.4. Về tình hình lao động trong ngành thuỷ sản --------------------------- 20
II.2.5. Về mặt Tài chính -------------------------------------------------------------- 21
II.2.6. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu ------------------------------------------- 21
II.3.CÁC YẾU TỐ BÊN NGOÀI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN -------------------------------------- 22
II.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường Vó mô -------------------------------------- 22
II.3.1.1. Về cơ chế quản lý --------------------------------------------------- 22
II.3.1.2. Về bộ máy tổ chức ngành ---------------------------------------- 23
II.3.1.3.Về các chính sách kinh tế vó mô hỗ trợ cho phát triển thủy
sản --------------------------------------------------------------------------------- 23
II.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường Vi mô ------------------------------------- 24
II.3.2.1.Vài nét về thò trường thủy sản Nhật Bản --------------------- 24
II.3.2.2. Các đối thủ cạnh tranh-------------------------------------------- 33
II.3.2.3. Đánh giá về nguồn cung cấp cho xuất khẩu thủy sản ----- 37
II.3.3. Đánh giá cơ hội và nguy cơ ------------------------------------------------- 42
II.4. Đánh giá chung ---------------------------------------------------------------------------- 43
II.4.1. Ưu điểm ------------------------------------------------------------------------- 43
II.4.2. Nhược điểm --------------------------------------------------------------------- 43
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG NHẬT
BẢN CHO NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 -------------------- 44
III.1.MỤC TIÊU NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH THUỶ SẢN ĐẾN NĂM 2010 ------ 44
III.1.1. Những quan điểm về mục tiêu ,nhiệm vụ của ngành thủy sản
Việt Nam --------------------------------------------------------------------------------- 44
III.1.2. Những mục tiêu --------------------------------------------------------------- 45

III.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP-------------------------------------------------------------------- 46
III.2.1. Giải pháp phát huy những ưu điểm sẵn có ---------------------------- 46
III.2.2. Giải pháp khắc phục nhược điểm tồn tại ------------------------------ 49
III.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác ------------------------------------------------- 54
III.3. KIẾN NGHỊ ------------------------------------------------------------------------------- 58
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


Đưa ra các giải pháp có tính chất toàn diện và đồng bộ để phát triển và
mở rộng thò trường Nhật Bản cho ngành Thủy sản Việt Nam đến năm 2010.

MỞ ĐẦU
Trong những năn gần đây, thủy sản Việt Nan đã có những bước phát
triển khả quan, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên và từ chỗ đứng vò
trí thứ ba sau dầu thô và dệt may, nay đã tiến lên đứng vò trí thứ hai chỉ sau
dầu thô, đóng góp nhiều vào nguồn ngọai tệ cho đất nước và góp phần giải
quyết việc làm cho hàng triệu lao động nghề cá trên cả nùc, nhất là các vùng
ven biển. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam,
có phần rất quan trọng của thủy sản xuất khẩu vào thò trường Nhật Bản.
Tuy nhiên xuất khẩu thủy sản vào thò trường Nhật Bản trong thời gian
qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là mặt hàng xuất khẩu
còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa ổn đònh , giá trò gia tăng chưa cao, giá
cả sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh còn thấp, các rào cản kỹ thuật và
thuế quan gia tăng, hiểu biết vềø khách hàng còn hạn chế, việc xúc tiến thương
mại chưa được chú trọng làm cho thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản chưa tăng
đúng với năng lực có thể.


Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng,
và các phương pháp cụ thể khác như: Điều tra phân tích kinh tế, phương pháp
hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp đồ thò, phương pháp phân tích
thống kê, nghiên cứu thò trường, Marketing Mix .
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liêu tham khảo, đề tài có kết
cấu như sau:
Chương I : Cơ sở lý luận của đề tài
Chương II: Thực trạng của thủy sản Việt Nam tại thò trường Nhật Bản.
Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng thò trường Nhật Bản cho
ngành Thủy sản Việt Nam.

Để mở rộng thò trường Nhật Bản cho ngành thủy sản Việt Nam cần xây
đựng một đònh hướng phát triển lâu dài có tính đến những lợi thế và bất lợi ,
từ đó đưa ra những giải pháp có tính chất tòan diện, phát triển theo hướng
bền vững và hiệu quả.
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu với mục đích nêu lên thực trạng và tồn tại của xuất
khẩu thủy sản Việt Nam tại thò trường Nhật bản, từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm mở rộng, phát triển hơn nữa sản phẩm thủy sản vào thò trường
này đến năm 2010 .
Đối tượng nghiên cứu :
Trong khuôn khổ nghiên cứu, đề tài tập trung vào việc nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thò trường
Nhật Bản qua việc phân tích, đánh giá sự phát triển của chế biến thủy sản, về
marketing, xúc tiến thương mại, thông tin thi trường, về tài chính, về khách
hàng, về đối thủ cạnh tranh…
Ý nghóa khoa học và thực tiễn:
Phân tích thực trạng ngành thủy sản và xuất khẩu thủy sản Việt Nam

vào thò trường Nhật Bản.
Đánh giá đúng và phân tích một cách khách quan những ưu điểm, nhược
điểm của lónh vực xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thò trường Nhật bản.
Xác đònh được một hệ thống những quan điểm, đònh hướng và mực tiêu
nhằm phát triển ngành thủy sản Việt Nam nói chung, lónh vực xuất khẩu vào
thò trường Nhật Bản nói riêng đến năm 2010.
3

4


I.2.- LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG:
I.2.1.Khái niệm thò trường:

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
I.1.- CÁC HỌC THUYẾT VỀ LI THẾ SO SÁNH VÀ ỨNG DỤNG CHO
THỦY SẢN VIỆT NAM:
I.1.1.- Nội dung các học thuyết:
I.1.1.1.- Lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối của Adam Smith:
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học cổ điển người Anh, người
được suy tôn là “cha đẻ của kinh tế học” A. Smith khuyến khích tự do thương mại.
Ông cho rằng, nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối (tức chi phí lao động thấp hơn so
với các nước khác) và nhập khẩu những mặt hàng mà mình không có lợi thế tuyệt
đối thì tất cả các quốc gia đều có lợi. Lợi thế tuyệt đối có được là do sự khác biệt
về nguồn tài nguyên thiên nhiên từ vò trí đòa lý mà có.
I.1.1.1.- Lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của David Ricardo:
David Ricardo (1772 - 1823) là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, người
đã được C. Mác đánh giá là người đã “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trò
tư sản cổ điển”. Theo D.Ricardo, nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất

và xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu những
sản phẩm mà mình không có lợi thế so sánh thì tất cả các quốc gia đều có lợi.
Tuy nhiên, lợi thế so sánh ở đây không phải là dựa vào sự khác biệt về tài
nguyên thiên nhiên như quan điểm của A.Smith, mà dựa vào trình độ phát triển
của yếu tố sản xuất của mỗi quốc gia (ví dụ như: trình độ của nguồn nhân lực,
trình độ công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật….) và lợi thế so sánh không phải là
bất di bất dòch mà nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào thời gian và trình độ phát triển
của mỗi quốc gia/đòa phương.
I.1.2.- Ứng dụng các học thuyết về lợi thế so sánh cho thủy sản Việt Nam:
-Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối của A.Smith để phát triển
cho sản xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, chúng tôi thấy Việt Nam có điều
kiện thuận lợi để phát triển ngành thủy sản, (có dãi bờ biển dài suốt thuận lợi
cho việc đánh bắt thủy sản, có điều kiện khí hậu và đất đai để phát triển nuôi
trồng thủy sản, có đội ngũ lao động đông đảo, cần cù, chi phí lao động thấp) vì
vậy nên tăng cường phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản để xuất
khẩu qua Nhật Bản và các nước khác.
-Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo để phát triển sản
xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, theo chúng tôi ngành Thuỷ sản Việt nam
nên tiếp tục hoàn thiện các dự án đánh bắt xa bờ, các chương trình nuôi trồng
thủy sản, cải thiện môi trường … để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm để có thể nâng cao sức cạnh tranh trên thò trường thế giới.

5

Theo quan điểm thương mại , thò trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của
sản phẩm. Các doanh nghiệp “cung ứng “ các sản phẩm của mình cho người tiêu
thụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ được thể hiện dưới hình thức “mức cầu”.
Thò trường là tổng thể các mối quan hệ xã hội kinh tế được hình thành và
phát triển trước, trong và sau quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội bao gồm
bốn giai đoạn; sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.

I.2.2. Nghiên cứu thò trường để phân khúc, lựa chọn thò trường mục tiêu,
đònh vò sản phẩm:
Để họat động sản xuất kinh doanh thành công, doanh nghiệp phải nghiên cứu,
nhận dạng những thò trường hấp dẫn và dự đóan tiềm năng tiêu thụ cho các sản
phẩm của nó càng chính xác càng tốt. Một doanh nghiệp phải đánh giá quy mô
của thò trường, các đặc tính của nhu cầu, các yêu cầu của người tiêu dùng, các
kênh thương mại cũng như những khác biệt về văn hóa và xã hội có thể ảnh
hưởng đến việc kinh doanh trên thò trường.
Nhiều đơn vò bán hàng trên thò trường đều nhận thấy không thể thu hút hết
mọi khách hàng của thò trường. Người mua đông đảo, ở rải rác, khác biệt trong sở
thích và nhu cầu, thói quen mua hàng nên mỗi doanh nghiệp phải xác đònh được
các phân khúc thò trường hấp dẫn mà họ có thể phục vụ hữu hiệu nhất.
Phân khúc thò trường là sự phân chia thò trường thành các nhóm người mua
sắm khác biệt nhau bằng việc xác đònh các căn bản cho phân khúc thò trường và
phác họa các nét khái quát về các phân khúc đã nhận ra.
Lựa chọn thò trường mục tiêu là đánh giá mức lôi cuốn của mỗi phân khúc và
chọn một hay nhiều phân khúc để xâm nhập.
Đònh vò thò trường là hình thành vò thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình
cùng với một Marketing Mix thật chi tiết.
I.3.- GIỚI THIỆU SƠ LƯC VỀ NHẬT BẢN:
I.3.1.- Vò trí đòa lý:
Nhật Bản là một quần đảo nằm ở phía Đông Bắc Châu Á, gồm 4 đảo lớn là
Honsu, Hokkaido, Shikoku, Kyushu và khoảng 6.850 các đảo nhỏ. Diện tích Nhật
Bản khoảng 377.835 km2, trong đó núi chiếm 71% tổng diện tích, đất đai canh
tác nông nghiệp chỉ chiếm 1/6 tồng diện tích.
I.3.2.- Dân số và con người Nhật Bản:
Dân số Nhật Bản tính đến tháng 7/2003, vào khoảng 127.500.000 người,
đứng thứ bảy trên thế giới, mật độ dân số khoảng 331 n/km2.
Về tôn giáo, 84% người Nhật theo Thần Đạo và Đạo Phật. Còn lại các tôn
giáo khác chiếm 16%..

Tuổi thọ bình quân của Nhật Bản năm 2003 là 82,5 tuổi (cao nhất thế giới),
điều này phản ánh phần nào mức sống, phúc lợi xã hội của nước Nhật rất cao.
Tuy nhiên, việc chỉ có 18% dân số có độ tuổi dưới 15, trong khi đó cứ 6 người

6


Nhật có đến một người lớn hơn 65 tuổi đã gây ra mối quan ngại: Tỷ lệ người sung
sức sáng tạo làm nhiều của cải vật chất cho xã hội thấp hơn số người được xã hội
chăm lo phúc lợi.
Nước Nhật rất nghèo về tài nguyên thiên nhgiên, lại phân bổ rải rác với
trữ lượng thấp, đa số các nguyên liệu chiến lược phục vụ cho phát triển kinh tế
đều dựa vào nhập khẩu: Dầu mỏ, gang, sắt thép, cao su… Trong khi đó, nước Nhật
không được tiếp quản các thành tự kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai,
nhưng bây giờ đây Nhật Bản trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới và đứng
đầu châu Á về phát triển kinh tế. Thành tựu kinh tế kỳ diệu này có sự đóng góp
quan trọng bậc nhất, đó là nguồn nhân lực, con người Nhật Bản.
Là dân cư có truyền thống nông nghiệp nên lương thực chính của người
Nhật Bản là cơm (gạo). Ngoài nguồn cung cấp dinh dưỡng từ gạo và các loại rau
quả. Từ xa xưa người Nhật Bản đã có cái nhìn hướng biển và có năng lực khai
thác biển. Do vậy, nguôn cung cấp chất đạm chủ yếu của dân cư Nhật Bản là hải
sản chứ không phải thòt như nhiều dân tộc khác. Năm 1999, trong cuốn “sách
trắng về nghề đánh cá” do chính phủ Nhật Bản công bố thì nước này vẫn là quốc
gia chiếm vò trí thứ tư về mức tiêu thụ hải sản hàng năm tíunh theo đầu người.
Hàng năm mỗi người tiêu thụ đến 70,6kg hải sản. Như vậy, hàng năm mỗi người
Nhật Bản tiêu thụ một lượng hải sản có trọng lượng trung bình nặng hơn cơ thể
họ và với quy mô dân số như trên, chắc chắn Nhật Bản là quốc gia đứng đầu về
mức tiêu thụ hải sản trên thế giới.
Trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm Nhật Bản có thể khai thác
được 6,626 triệu tấn cá, nhưng sản lượng khai thác đang giảm dần. Nguyên nhân

chủ yếu là sự đánh bắt quá mức trước đây đã gây thiệt hại về nguồn cung cấp hải
sản. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, một mặt Nhật Bãn thực hiện
chính sách nhập khẩu, mặt khác mở rộng năng lực khai thác ở nhiều vùng biển
quốc tế, nhưng vấp phải sự phản đối của các tổ chức bảo vệ môi trường hoặc họ
cùng đẩy mạnh việc nuôi trồng thủy sản theo phương pháp nhân tạo và bán nhân
tạo nhưng không nhiều.
I.3.3.- Kinh tế của Nhật Bản:

Bảng 1.1: GNP của các nước G8 năm 2002.
QUỐC GIA
TỔNG GNP (TỶ USD)
Mỹ
10.100
Nhật Bản
4.200
Đức
2.200
Anh
1.600
Pháp
1.500
Italy
1.300
Canada
780
Nga
310
Từ năm 1990 đến nay, gần 15 năm trôi qua, nền kinh tế Nhật Bản trải qua
3 thời kỳ suy thoái, giảm sút về tốc độ tăng trưởng, đưa mức tăng trưởng xuống
thấp dưới 1%, thậm chí năm 1998 là -1,7% (xem biểu đồ 1.1)


STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản:
4.00
3.00

7

2.90
2.20

2.00
1.00
0.40
0.00

0.60 0.60 0.60

0.30

-0.50


0.60

East

-0.20

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
-1.00
-2.00

Nhật Bản là nước duy nhất chòu hậu quả bom nguyên tử trút trên đất nước
của mình. Sau Thế chiến thứ hai (năm 1945), Nhật Bản là nước bại trận, đất nước
lâm vào thảm họa suy vong: sự đổ vỡ và hoang tàn sau cuộc chiến với quân Đồng
Minh, nền kinh tế bò tê liệt, số người thất nghiệp chiếm đến 1/3 tổng lực lượng
lao động. Nhưng do sự nỗ lực của các nhà lãnh đạo, của nhân dân Nhật, nền kinh
tế Nhật Bản chẳng những phục hồi mà còn tăng trưởng với tốc độ nhanh và liên
tục suốt một thập kỷ rưỡi từ 1956 – 1970 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
của nước Nhật là 10,9% và tiếp theo trong hai thập niên sau đó 1970 - 1990 do
chòu ảnh hưởng của hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ, tốc độ tăng trưởng giảm,
nhưng tốc độ bình quân vẫn gia tăng. Sự tăng trưởng kinh tế ổn đònh gần 45 năm
đã đưa vò thế kinh tế của Nhật Bản đứng hàng thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ (xem
bảng 1.1)

2.90

-0.70
-1.70

Nguồn” Viện Nghiên Cứu Nhật Bản”.

Mặc dầu có sự suy giảm kinh tế liên tục, nhưng do nhiều mặt hàng xuất
khẩu của Nhật Bản vẫn đứng đầu thế giới: xe hơi, hàng điện tử, hàng điện, sản
phẩm cơ khí chính xác… mà vò thế cường quốc thứ hai trên thế giới về kinh tế của
Nhật Bản vẫn chưa bò đe dọa. Ngoài ra, vai trò quan trọng của nền kinh tế Nhật
Bản đối với thế giới được củng cố khi Nhật Bản là nước xuất khẩu tư nhân ra
nước ngoài lớn nhất thế giới: 50 năm qua (1951 – 2001) các doanh nghiệp Nhật
Bản đầu tư 92.107 dự án ra nước ngoài với tổng số vốn đầu tư 111.624.100 triệu
Yên. Nước Nhật có mức dự trữ ngoại tệ cao nhất thế giới 200 tỷ USD và là đất
nước xây dựng mô hình phát triển kinh tế “dựa vào thương mại”, cán cân thương
mại xuất siêu lớn (trong khi đó, nền thương mại của Hoa Kỳ nhập siêu lớn) (minh
hoạ ở bảng 1.2)

8


Bảng 1.2: Tình hình thương mại của Nhật Bản 1997 – 2003

Tiêu thức

1998

1999

2000

Đơn vò tính : Triệu đô la Mỹ
2001
2002
2003


Xuất khẩu

387.927

419.367

479.249

403.496

416.726

430.352

Nhập khẩu

280.484

311.262

379.511

349.089

337.194

341.945

Xuất siêu


107.443

108.105

99.738

60.407

79.532

79.532

Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, CHLB Đức, Thụy Só và Mỹ. Chúng ta
có thể hình dung tình hình hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản ở
những năm gần đây qua biểu đồ số 1.2 sau:
Biểu đồ 1.2: Tình hình hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
trong những năm gần đây.
ĐVT: Triệu USD
2 ,9 9 3 .9 0
2 ,9 0 9
2 ,4 3 8 .1 0

3000
2 ,5 7 5 .2 0

2500

Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2003

2 ,3 0 0 .9 0


2000

Theo số liệu của bảng 1.2, cả xuất khẩu và nhập khẩu của Nhật Bản đều đạt
đỉnh cao vào năm 2000 nhưng lại sụt giảm vào năm 2001, tuy nhiên 2 năm gần
đây tình hình lại có chiều hướng tăng lên chứng tỏ nền kinh tế Nhật Bản đang
trong giai đọan phục hồi.
Vò trí quan trọng của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới được nâng lên khi
Nhật Bản trở thành nhà tài trợ ODA lớn nhất thế giới với mức tài trợ bình quân
mỗi năm là 12 tỷ USD và là nước đóng góp nhiều nhất về tài chính cho hoạt động
của các tổ chức của Liên Hiệp Quốc.
I.3.4.Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
Ngày 21/10/1973, Hiệp đònh Paris được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh
của Mỹ ở Việt Nam, thì đến ngày 21/9/1973 sau nhiều nỗ lực, Chính phủ Việt
Nam và Nhật Bản ký kết Hiệp đònh chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa
hai nước và cũng từ mối quan hệ đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật
Bản mở sang một trang mới. Và hơn 30 năm qua, quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1973-1975: Giai đoạn trước khi thống nhất đất nước Việt Nam:
mặc dù hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức, nhưng do đồng thời tồn tại hai thể chế chính trò khác nhau ở Miền Bắc và
Miền Nam nên quan hệ hợp tác nói chung và hiệu quả thương mại nói riêng giữa
Nhật Bản và Miền Bắc Việt Nam chỉ phát triển ở mức độ nhất đònh Khối lượng
buôn bán hai chiều giữa Miền Bắc Việt Nam với Nhật Bản đạt 50 triệu USD năm
1974 và tăng lên 70 triệu USD trong năm 1975.
Giai đoạn 1976-1986: Ngay từ năm 1976, Nhật Bản đã chiếm lónh vò trí
bạn hàng lớn thứ hai (sau Liên Xô cũ) về xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam.
Năm 1978, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước đạt 267,65 triệu USD.
Trong thời kỳ 1979 – 1982, quan hệ thương mại giữa hai nước không bò gián
đoạn nhưng giảm xuống còn 161,71 triệu USD năm 1980 và 128,36 triệu USD

năm 1982.
Từ năm 1983 đến năm 1986, thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát
triển trở lại và tăng lên 272,11 triệu USD trong năm 1986 và Nhật Bản là một
trong 5 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam..
Giai đoạn 1987 đến nay: Quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản bước vào
một giai đoạn mới với hai đặc trưng là sự tăng lên vững chắc về khối lượng buôn
bán và sự quan tâm ngày càng cao của các nhà kinh doanh và các công ty Nhật
Bản đối với thò trường Việt Nam. Trong giai đoạn này, Nhật Bản đứng đầu trong
số 10 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, gồm: Nhật Bản, Singapore, HongKong,

9

1500
1000

2 ,5 0 9 .8 0

2 ,5 0 4 .7 0

2 ,1 8 3 .1 0

1 ,7 8 6
1 ,4 6 1

N h a äp l h a å u

1 ,6 1 8 .3 0

X u a át k h a åu
9 1 5 .7


500
0
1995

1999

2000

2001

2002

2003

Nhìn vào biểu đồ số 1.2, ta thấy kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam
và Nhật Bản trong các năm trở về đây đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 13,74% tổng kim
ngạch thương mại quốc tế của Việt Nam. Như vậy, theo công bố của Bộ Thương
mại Việt Nam thì tính đến tháng 12/2003, Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với 180 nước và khu vực lãnh thổ và Nhật Bản đã trở thành thò trường quan
trọng thứ hai của Việt Nam (sau thò trường Hoa Kỳ) về cả hoạt động xuất khẩu
lẫn nhập khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thò trường
Nhật Bản thể hiện qua bảng 1.3
Bảng 1.3: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Nhật Bản
TT
1
2
3
4
5

6

Mặt hàng
1995
2000
2001
Dệt may
22.600
60.391
74.021
Thủy sản
15.304
46.780
52.561
Dầu thô
23.759
37.420
58.939
Đồ nội thất, thủ công mỹ nghệ
1.879
10.674
11.592
Sản phẩm gỗ
1.200
3.703
4.383
Than đa’
2.799
5.903
5.427

Nguồn: Japan-ASEAN Import- Export Statistical Booklet

2002
76.607
57.690
52.534
16.593
6.210
5.810

Theo số liệu bảng 1.3 cho thấy các mặt hàng thuỷ sản từ vò trí thứ ba đã vươn
lên chiếm vò trí thứ hai trong các mặt hàng của Việt nam xuất khẩu sang Nhật
Bản và ngày càng khẳng đònh vò trí vững chắc của mình.
Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản (xem bảng
1.4)

10


Bảng 1.4: Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản:
Loại hàng
Tỷ lệ (%)
+ Phương tiện giao thông vận tải (như ôtô, xe máy)
22,6
+ Máy móc (thiết bò động cơ, máy dệt, máy xây dựng)
20,7%
+ Sản phẩm và nguyên liệu dệt
11,5
+ Sản phẩm khác
45,2

100,0
Tổng cộng
Nguồn: JETRO
Qua 2 bảng trên ta thấy: Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản những mặt
hàng mang lợi thế của Việt Nam, trong khi đó nhập khẩu những mặt hàng chủ
yếu phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, nếu so sánh với bảng 1.2 ta thấy xuất khẩu của
Việt Nam sang Nhật Bản chỉ chiếm 0,6% thò phần nhập khẩu của Nhật Bản, một
con số khiêm tốn so với tiềm năng lợi thế của Việt Nam và sự nhiệt tình hỗ trợ
của Chính phủ Nhật Bản. Và việc nghiên cứu các giải pháp để đẩy mạnh xuất
khẩu sang thò trường Nhật Bản có ý nghóa quan trọng trong chiến lược hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Tóm lại, Nhật Bản là nước có nền kinh tế lớn nhất châu Á, sự phát triển
quan hệ toàn diện với Nhật Bản là cơ sở để nền kinh tế Việt Nam cất cánh và
hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới.
I.4.- VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGÀNH THỦY SẢN ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, ngành thủy sản đóng vai trò
trọng trong sự phát triển KTXH, nhất là hơn 20 năm qua với tốc độ phát
nhanh chóng cả về sản lượng và giá trò xuất khẩu, ngành kinh tế thủy sản
ngày càng khẳng đònh vò thế là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước
một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp CNH-HĐH hiện nay.
Ngành thủy sản bao gồm những hoạt động SXKD, giống như những ngành
sản xuất và kinh doanh khác nó là một bộ phận kinh tế nằm trong tổng thể
KTXH của đất nước. Do đó, nó chòu sự tác động của tất cả các ngành khác trong
hệ thống KTXH. Mặt khác nó cũng tác động trở lại tới hệ thống có tính tổng thể
cũng những từng thành phần của hệ thống đó tùy thuộc ở vò trí và vai trò của nó
trong nền KTQD và cộng đồng xã hội.
Ngành thủy sản có vò trí, vai trò quan trọng nhưng hiện nay vẫn chưa được
ưu tiên trong nền kinh tế , mức đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng của
ngành. Vì vậy, với tiềm năng nguồn lợi phong phú và đa dạng ngành thủy sản

muốn phát triển thì một điều quan trọng là ngành phải được nhìn nhận như là
một trong những ngành cần ưu tiên phát triển. Vai trò quan trọng của ngành thủy
sản được thể hiện ở các mặt sau:
I.4.1.- Đóng góp của ngành trong tổng sản phẩm quốc dân:
quan
triển
đang
và là

nghiệp: 1,16 lần) nên đã góp phần đáng kể cho quá trình chuyển dòch cơ cấu
ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp. Tỷ trọng của ngành thủy sản trong nông ngư
nghiệp ngày càng tăng, năm 1990 là 10%, năm 2003 là 21,3%.
I.4.2.- Đóng góp của ngành thủy sản đối với hoạt động XK ở nước ta.
Ngành thủy sản cũng như các ngành kinh tế khác tham gia vào hoạt động
xuất khẩu nhằm tiêu thụ một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội ở thò trường
nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu ngành thủy sản góp phần cùng với
các ngành kinh tế khác tạo nên sức mạnh vật chất của nền ngoại thương nước ta,
thu về một lượng ngoại tệ đáng kể cho đất nước, tạo điều kiện cho nền KTQD mở
rộng sản xuất trên cơ sở chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế, tạo thêm công ăn
việc làm, tạo thêm GTGT và mở rộng thò trường tiêu thụ ra nước ngoài. Mặt
khác, ngành thủy sản tiến hành xuất khẩu là nhằm đưa chất lượng và trình độ kỹ
thuật sản phẩm của ngành ra đọ sức với thò trường quốc tế, mở rộng giao lưu kinh
tế.
Trong những năm qua, ngành thủy sản Việt Nam đã trở thành ngành xuất
khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu năm 1997 là 776 triệu USD đã tăng lên 2,240
tỷ USD vào năm 2003 và luôn giành vò trí thứ 3 chỉ sau dầu khí và dệt may. Theo
công bố mới đây của FAO, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt mức tăng trưởng
kỷ lục tới 64,4%, mức tăng trưởng cao nhất thế giới, từ vò trí thứ 19 năm 1999 đã
vượt qua 8 bậc lên vò trí thứ 11 trên thế giới vào năm 2000. Đây chính là đóng
góp lớn nhất của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam và đó

cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dòch
vụ hậu cần của ngành.
I.4.3.- Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm.
Dân số nước ta khoảng 84 triệu vào năm 2003, riêng 29 tỉnh ven biển chiếm
tới gần 42.5 triệu người, khoảng 52% dân số toàn quốc. Trong đó, dân sống ờ 116
huyện thò ven biển và hải đảo chiếm 38%. Do nước ta có bờ biển dài, nhiều sông
suối nên có tiềm năng phát triển ngành thủy sản. Mặt khác, ngành thủy sản có
nhiều khâu sản xuất từ nuôi trồng, khai thác đến chế biến cộng thêm có nhiều
thành phần kinh tế tham gia: kinh tế hộ gia đình, tiểu chủ, DNNN, HTX, Liên
doanh, vì vậy giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động ở
các vùng ven biển, trong đó đặc biệt phải kể đến thành phần kinh tế hộ gia đình.

Tỷ trọng GDP bình quân hàng năm của ngành thủy sản trong tổng thu nhập
quốc nội (GDP) thời kỳ 1990 – 2003 khoảng 3 – 3,5%. Trong hơn 12 năm qua,
ngành thủy sản đã tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn các ngành khác trong khối
Nông – Lâm – Ngư nghiệp (Thủy sản 1,95 lần, Nông nghiệp 1,66 lần; Lâm

11

12


CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG THỦY SẢN VIỆT NAM
TẠI THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
II.1.- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỦY SẢN VIỆT
NAM
II.1.1.- Đặc thù của ngành thủy sản Việt Nam:
Xét một cách tổng thể thì ngành thủy sản có các đặc thù sau:
-Là một ngành vừa mang tính công nghiệp, nông nghiệp, thương mại lại vừa

chòu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên.
-Là một ngành có nhiều thành phần kinh tế tham gia, hoạt động sản xuất
rất đa dạng: Tư bản Nhà nước (100% vốn nước ngoài, liên doanh, cổ phần) tập thể
(HTX, tập đoàn), tư nhân (hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
-Là ngành sản xuất có liên quan tới việc sử dụng diện tích mặt nước cũng
như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt nước. Các sản phẩm thủy sản
có khẩu vò ngon, dễ chế biến, lượng đạn không tích mỡ, đa dạng, có giá trò dinh
dưỡng và kinh tế cao.
-Là ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có thể thu được sản phẩm và
tiêu thụ trong thời gian ngắn. Thực tiễn đã chứng minh rằng việc đầu tư lao động
sống và lao động vật hóa vào hoạt động sản xuất thủy sản một cách hợp lý sẽ đưa
lại hiệu quả kinh tế cao. Một ngư dân bình quân hàng năm đánh bắt được từ 2,04
– 2,07 tấn cá biển, trò giá tương đương với khoảng 10 tấn thóc. Trong khi đó, một
lao động nông nghiệp nếu thực hiện 1 ha gieo trồng lúa chỉ đạt được 3-4 tấn
thóc/năm.
-Hoạt động sản xuất của ngành diễn ra trong phạm vi rộng lớn: các cơ sở
chế biến, bến cảng, biển, ao, sông, hồ…..
-Là ngành có tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn tạo khả năng khai
thác quy mô lớn nhưng phải có sự tác động của con người để tái tạo nguồn tài
nguyên này.
II.1.2.- Quá trình hình thành và phát triển của ngành thủy sản Việt
Nam:
Việc khai thác các nguồn lợi thủy sản để phục vụ những nhu cầu đa dạng
của con người đã có từ lâu đời cùng với sự hình thành và phát triển của dân tộc
Việt Nam. Tuy vậy, trải qua hàng nghìn năm, nghề cá Việt Nam, trước hết là
nghề đánh bắt vẫn mang nặng nét đặc trưng của một nền sản xuất tự cấp, tự túc
và chỉ đóng vai trò một nghề phụ cho dân cư. Mãi cho đến nửa đầu thế kỷ này,
nghề cá vẫn hết sức thô sơ, lạc hậu và chưa được xem như một ngành kinh tế.
II.1.2.1.- Giai đoạn Từ 1954 đến 1975:
Từ sau 1954 xác đònh khả năng đóng góp mà nghề cá mang lại cho nền

KTQD, Đảng và Nhà nước đã chú trọng phát triển nghề cá. Vụ Ngư nghiệp thuộc
Bộ Nông lâm đã được thành lập. Đây là cơ quan quản lý Nhà nước đầu tiên của
nghề cá miền Bắc và sự ra đời của nó đã đánh dấu một cách nhìn nhận mới đối
với nghề cá nước ta.

13

Tháng 4 năm 1960, Bộ Nông Lâm sắp xếp lại, chia thành 4 tổ chức mới là
Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường quốc doanh, Tổng cục Lâm nghiệp và Tổng cục
Thủy sản. Ngày 5 tháng 10 năm 1961, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
ban hành nghò đònh 150CP quy đònh nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Tổng cục Thủy sản. Đây là thời điểm ra đời của Ngành Thủy sản Việt Nam như
một chính thể ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển toàn diện về khai thác, nuôi
trồng, hậu cần dòch vụ, chế biến, nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác quốc tế
để phát triển.
II.1.2.2.- Giai đoạn 1975-1980:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Ngành Thủy sản Việt Nam bước
sang giai đoạn phát triển mới trên phạm vi cả nước, Bộ Hải sản được thành lập
vào năm 1976 và tổ chức lại thành Bộ Thủy sản vào năm 1981, bao gồm cả các
hoạt động nuôi trồng thủy sản nước ngọt và kinh doanh XNK thủy sản.
Sự suy giảm phương tiện khai thác hải sản diễn ra liên tục suốt từ năm
1975-1980. Nếu năm 1976 tổng số tàu thuyền đánh cá của toàn quốc có 51.520
chiếc, trong đó có 34.833 chiếc thuyền có động cơ với tổng công suất 543.431 CV
thì đến năm 1980 cả nước chỉ còn 39.500 thuyền đánh cá trong đó thuyền máy
còn lại 28.021 chiếc với tổng công suất 453-431 CV và thuyền thủ công 11.479
chiếc. Kinh nghiệm việc phát triển nghề cá ở miền Nam trước năm 1975 và bước
đầu cơ giới hóa tàu thuyền nghề cá ở miền Bắc cho thấy việc sử dụng cơ giới hóa
nhỏ trong bước đi ban đầu là con đường phù hợp đối với công nghiệp hóa nghề cá
biển của Việt Nam.
II.1.2.3.- Giai đoạn 1981-1995:

Nghò quyết Hội nghò TW lần thứ VI khóa 4 đã bắt đầu “cởi trói”, ngành
Thủy sản là một trong những ngành đầu tiên được Nhà nước cho phép áp dụng
thử nghiệm mô hình “tự cân đối, tự trang trải”. Do vậy, các công ty xuất khẩu
thủy sản đã lấy XNK làm điểm xuất phát, lấy thu nhập từ XNK để tự cân đối
đồng thời xây dựng thêm nhà xưởng, thiết bò nhằm phát triển sản xuất làm cho
ngay trong kế hoạch 5 năm 1981-1985 ngành thủy sản đã chận đứng được sự sa
sút và những năm sau đó tiếp tục tăng trưởng một cách vững chắc. Nhòp độ tăng
trưởng của ngành thủy sản hàng năm 7%, trong đó khai thác hải sản tăng từ
416.000 tấn năm 1981 lên 582.000 tấn năm 1986; 700.000 tấn năm 1990; 928.000
tấn năm 1995 và 1.078.000 tấn năm 1997.
Sản phẩm chế biến đã không ngừng tăng lên, giá trò ngoại tệ thu được ngày
một tăng nhanh, năm 1981 mới đạt 15,2 triệu USD, năm 1985 đạt 105 triệu USD,
năm 1990 đạt 205 triệu USD, năm 1995 đạt 550 triệu USD. Tuy nhiên phần lớn
các nhà máy đông lạnh thời kỳ này là các xí nghiệp nhỏ làm nhiệm vụ sản xuất
sơ chế nguyên liệu là chính, chưa có các xí nghiệp sản xuất các mặt hàng có
GTGT.
II.1.2.4.- Giai đoạn từ 1995 đến nay:
Ngành thủy sản đã triển khai đồng bộ các chương trình KTXH mục tiêu:
Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản; Chương trình phát triển XK thủy
sản: Chủ trương phát triển hải sản xa bờ và ổn đònh khai thác vùng gần bờ; tăng
cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của

14


ngành thủy sản Việt Nam trên thò trường quốc tế, đưa ngành thủy sản thực sự là
một ngành kinh tế XK mũi nhọn của đất nước, đưa Việt Nam thành một cường
quốc thủy sản của thế giới. Giai đoạn này cũng đã chứng tỏ sự lớn mạnh của
ngành, sản lượng khai thác tăng bình quân 6%/năm. Sản lượng nuôi trồng thủy
sản đạt 976 nghìn tấn vào năm 2002, đặc biệt kim ngạch xuất khẩu thủy sản

trong một thời gian ngắn đã vượt qua được con số 2 tỷ USD đóng góp đáng kể vào
tổng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng
nông ngư dân ven biển. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự hội nhập của ngành thủy
sản Việt Nam với khu vực và thế giới. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, trở thành
thành viên của APEC và đang phấn đấu gia nhập vào WTO đã mở nhiều cơ hội về
thò trường và công nghệ cho ngành cũng như tạo ra một đội ngũ cán bộ ngày càng
năng động trong hội nhập và cạnh tranh.
II.2.- Kết quả hoạt động trong thời gian qua của ngành thủy sản
Việt Nam:
Để có thể có những giải pháp mở rộng thò trường Nhật bản cho ngành thủy
sản Việt Nam, ta cần đánh giá đúng đắn, khách quan hiện trạng và tiềm năng
của ngành.
II.2.1. Chế biến thủy sản và quản lý chất lượng:
Đến nay, nhìn chung ngành chế biến thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã
được đổi mới và hoàn thiện về nhiều mặt, trong đó đáng kể nhất là việc nâng cấp
và cải thiện điều kiện sản xuất của các cơ sở chế biến và áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo nguyên lý phòng ngừa HACCP nhằm đạt các yêu cầu về đảm
bảo an toàn thực phẩm của các thò trường nhập khẩu quốc tế và việc tăng cường
kiểm soát chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu kết hợp với cải tiến các thủ tục
trong các khâu quản lý Nhà nước.
Năm 2002, cả nước có khoảng 275 doanh nghiệp chế biến thủy sản đông
lạnh, trong đó có 68 doanh nghiệp có code xuất khẩu vào Châu Âu và 128 doanh
nghiệp áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ. Đến năm 2003, đã có
100 doanh nghiệp được cấp code xuất khẩu vào Châu Âu, trong tổng số gần 300
doanh nghiệp, với công suất thiết bò là 3147 tấn / ngày. Điều này đã chúng tỏ sự
chuyển biến tích cực về nhận thức của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy
sản Việt Nam đối việc quản lý chất lượng. Đó cũng là kết quả của phong trào
nâng cấp, cải tạo mặt bằng, đầu tư thiết bò tiên tiến và đổi mới công nghệ chế
biến, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo GMP, SSOP, HACCP diễn ra rất
rầm rộ trên hầu khắp cả nước, nhất là các tỉnh có nguồn nguyên liệu dồi dào như

Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Bình Đònh…. Cụm từ “sản
xuất sạch hơn “ được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản và đã
mang lại những kết quả khả quan, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanhcho các
doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
-Về tình hình trang thiết bò: Do mất cân đối giữa công suất thiết bò và khả
năng cung cấp nguyên liệu, khiến nhiều nhà máy chế biến chưa sử dụng hết năng
lực thiết bò, chủ yếu do phát triển công nghiệp chế biến chưa gắn với vùng nguyên
liệu. Gần đây nhiều nhà máy đã trang bò các dây chuyền thiết bò hiện đại, song

15

việc thiếu nguyên liệu khiến cho chưa phát huy hiệu quả, thậm chí nhiều khi còn
trở thành gánh nặng do vốn tài sản cố đònh bò ứ đọng mà phải trả lãi vay.
-Về tình hình bảo quản nguyên liệu và thành phẩm : Hệ thống kho lạnh bảo
quản hàng thuỷ sản có sức chứa trên 83 ngàn tấn, năng lực sản xuất nước đá gần
4 ngàn tấn… Nhiều cảng cá đã và đang được xây đựng trên phạm vi cả nước, phần
nào phục vụ cho sự phát triển của ngành thuỷ sản.
- Về tỉ lệ sản phẩm sống mà ngư dân đánh bắt được:
Bảng 2.1: Tỉ lệ sản phẩm sống mà ngư dân đánh bắt được năm 2002
Vùng, miền
Tổng số
Nhóm
Số đếm %
Bắc
Trung
Nam
Số đếm %
Số đếm %
Số đếm %
< 20

16
36,4
37
82,2
83
92,2
136
76,0
20 - 40
13
29,5
13
7,3
40 – 60
12
27,3
1
2,2
13
7,3
> 80
3
6,8
7
15,6
7
7,8
17
9,5
Tổng cộng

44
100
45
100
90
100
179
100
Nguồn: Dự án nghiên cứu về thò trường và tín dụng nghề cá tại Việt
Nam.(12/2002)
Với con số thống kê trên, có thể thấy tỉ lệ sản phẩm sống sau khi khai thác là rất
thấp, nhóm thấp nhất (có tỉ lệ sản phẩm sống dưới 20%) chiếm đến 76% trong
tổng số, điều này cho thấy kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch của chúng ta còn
nhiều hạn chế, đây là một trong những trở ngại lớn khi mà xu hướng tiêu dùng
của thế giới hiện nay và của người Nhật nói riêng hướng về sử dụng các sản
phẩm tươi sống.
II.2.2.- Về mặt hoạt động marketing
II.2.2.1. Về các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản:
Bảng 2.2: Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thò
trường Nhật
NĂM
STT
1997
1998
1999
2000
2003
CHỈ TIÊU
1
Khối lượng (tấn)

02,1
80,0
00,0
2
Giá trò (triệu USD)
78
10
13
63
00
3
Tốc độ tăng giảm (%)
2
3
5
30
4
Giá trò xuất khẩu bình quân
• Nguồn: Bộ Thủy sản
Qua bảng 2.2, ta thấy khối lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang
thò trường Nhật Bản có xu hướng giảm, nhưng giá trò xuất khẩu tăng nhanh trong
ba năm gần đây, đặc biệt ở hai mặt hàng tôm và cá vì trò giá xuất khẩu bình
quân gia tăng.

16


Theo nguồn tin từ Bộ Thủy sản : Năm 2003, Việt Nam xuất sang Nhật Bản
được gần 104 nghìn tấn thủy sản các loại, kim ngạch đạt 575 triệu USD. Như vậy,
năm này kim ngạch xuất khẩu sang thò trường Nhật bản đã tăng hơn năm 2002

gần 5,5%.
Trong cơ cấu XK, mặt hàng chiếm tỷ trọng cao cả về lượng và trò giá là
tôm đông lạnh (chiếm 57,3% về lượng, 81,8% về trò giá), mực đông lạnh (10,3% về
lượng, 9,4% về trò giá). Chiếm tỷ trọng cao về lượng tiếp đó là bạch tuộc đông
lạnh (5,9%), cá tươi, ướp đá và đông lạnh (4,9%) nghêu đông lạnh (4,6%), mực khô
(2,7%), ghe đông lạnh (2,0%),… Tuy vậy, ngoài tôm đông lạnh, các mặt hàng chiếm
tỷ trọng cao về trò giá không nhiều, bao gồm: cá tươi, ướp đá và đông lạnh (3,2%),
bạch tuộc đông lạnh (2,4%), ghẹ đông lạnh (1,6%), mực khô (0,4%),…
• Về mặt hàng tôm:
Năm 2003, trong giá trò thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang thò trường
Nhật Bản đạt 575 triệu USD thì riêng tôm đạt giá trò trên 300 triệu USD, tăng
8,1% so với năm 2002. Ta có thể hình dung phần nào đối thủ cạnh tranh của mặt
hàng tôm xuất khẩu của Việt Nam trên thò trường Nhật Bản qua bảng 2.3 sau
đây:
Bảng 2.3: Các nước xuất khẩu tôm chủ yếu sang Nhật Bản
ĐVT: Tấn, triệu Yên
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Quốc gia Lượng Lượng Lượng Lượng Trò giá Lượng
TG
Lượng
TG
(%)
(%)
Indonesia 57.495 54.247 50.688 49.916 68.729 55.778 21,8 70.664 23,5
n Độ

59.997 51.128 53.430 50.970 59.957 43.593 17,1 47.477 15,8
Việt Nam 31.134 26.711 30.271 33.105 32.766 35.676 14,0 34.856 15,8
Thái Lan
24.104 17.783 19.328 18.657 28.870 20.580
8,1
27.249
9,1
Trung
15.249 12.198 13.672 16.654 15.248 14.981
5,9
13.344
4,4
Quốc
Nước khác 93.410 88.963 91.674 90.264 119.301 85.005 33,3 106.863 35,6
Tổng cổng 281.388 251.031 259.062 259.565 324.871 255.613 100,0 300.453 100,0
EU
1.311
1.076
1.362
1.375
1.483
1.775
0,7
2.052
0,7
Nguồn: Japan Exports and Imports
Tính tổng lượng cả năm 2003, Nhật Bản đã nhập khẩu từ Việt Nam 47.626
tấn tôm đông lạnh, kim ngạch đạt 44,55 tỷ yên, tăng 14,7% về lượng và 8,4% về
trò giá so với năm trước. Về thò phần, tôm Việt Nam đã chiếm 22,42% trong tổng
lượng cung cấp cho thò trường Nhật Bản, giúp Việt Nam giữ vững vò trí thứ hai

trong số nước cung cấp tôm lớn cho thò trường này (sau Indonexia).
Theo các chuyên gia thì khối lượng xuất khẩu tôm của Việt Nam xuất sang thò
trường Nhật Bản khá lớn trong năm 2002 và năm 2003, nhưng giá trò vẫn thấp vì
tôm của Việt Nam đưa vào Nhật Bản chủ yếu dưới dạng nguyên liệu, ít qua chế
biến, trong khi đó, Indonesia và Thái Lan có tỷ lệ Tôm chế biến có giá trò cao rất
lớn nên có lợi thế hơn (xuất ít nhưng giá trò cao).
Có thể khẳng đònh Nhật Bản là một thò trường rất quan trọng cho xuất khẩu
thủy sản nói chung và tôm đông lạnh nói riêng của chúng ta. Chúng ta cần đẩy

17

mạnh xuất khẩu tới thò trường này trong khi thò trường vẫn đang ổn đònh và các
đối thủ cạnh tranh khác chưa có được vò trí đáng kể. Vì vậy, ngay từ đầu năm
2004 này, bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn vệ
sinh sản phẩm, chúng ta cần nỗ lực xúc tiến mở rộng các mối quan hệ bạn hàng
với các đối tác Nhật Bản.
• Về mặt hàng cua, ghẹ:
Chủ yếu Việt Nam xuất khẩu ghẹ vào thò trường Nhật Bản, là nhà cung cấp
ghẹ lớn thứ hai (sau Trung Quốc). Ghẹ của Việt Nam được ưa chuộng vì ngọt và
thơm. Tuy nhiên, khả năng cung ứng của Việt Nam vẫn còn hạn chế.
Bảng 2.4: Các nhà xuất khẩu cua, ghẹ hàng đầu vào Nhật Bản trong năm
2000
ĐVT: Tấn
Chủng loại Dạng sản phẩm
Sản
Vò trí thứ Thò phần Vò trí thứ Thò
phần
lượng
nhất
hai

(%)
Cua
Đông lạnh
22.190 Nga
84,5
Mỹ
12,5
Huỳnh đế Sống, tươi, ướp lạnh
20.948 Nga
99,9
Mỹ
0,1
Đông lạnh
33.807 Canada
47,4
Nga
34,6
Cua tuyết
Sống, tươi, ướp lạnh
27.113 Nga
82,2
Triều Tiên 17,4
Ghẹ
các Đông lạnh
12.886 Trung Quốc 54,0
Việt Nam
22,8
loại
Sống, tươi, ướp lạnh
1.506

Trung Quốc 77,1
Hàn Quốc 21,8
Nguồn: Số liệu xuất nhập khẩu – JETRO
Trong chủng loại mặt hàng này, Việt Nam chỉ có khả năng xuất khẩu
chính là ghẹ đông lạnh. Xuất khẩu ghẹ đông lạnh của Việt Nam sang Nhật Bản
trong năm 2003 đạt 1.636 tấn, đạt kim ngạch 854 triệu yên, tăng hơn năm 2002
là 1,4% về trò giá. Trong cơ cấu xuất khẩu, ghe chiếm 2,0% về lượng và 1,6% về
trò giá. Còn trong số các nước xuất khẩu ghẹ đông lạnh vào Nhật, Trung Quốc
cung cấp tới 52,5% trong tổng lượng nhập khẩu của Nhật Bản, tiếp tho là Việt
Nam đứng thứ hai với thò phần 25,5%.
Trong năm 2003, Nhật Bản nhập khẩu rất ít mặt hàng sò đông lạnh, giảm
hơn rất nhiều so với năm trước. Trong tháng 12/2003, Việt Nam xuất sang Nhật
16,6 nghìn tấn sò đông lạnh, cao hơn các tháng trước đó và nâng tổng cả năm lên
42,97 tấn. Với mặt hàng nghêu đông lạnh, năm 2003, xuất khẩu tăng lên gần
1.000 tấn, trò giá xuất khẩu 78 triệu yên. Bên cạnh đó, mặt hàng thòt nghêu muối
và thòt ghẹ đóng hộp trong năm qua không xuất được sang thò trường Nhật Bản.
Bảng 2.5: Tình hình xuất khẩu ghẹ, nghêu và sò của Việt Nam vào Nhật Bản
Mặt hàng

Năm 2002
Năm 2003
Lượng
Trò giá
Lượng
Trò giá
(tấn)
(nghìn yên) (tấn)
(nghìn yên)
Ghẹ đông lạnh
1.459,67 842,111

1.636,02 853,903
Nghêu đông lạnh 2.838,70 58,037
3.805,27 78,041
Sò đông lạnh
114,03
35,653
42,97
6,442
Sò khô
0,21
13
10,47
494
Nguồn: Tạp chí thông tin thủy sản

Năm 2003
so với năm
2002 (tấn)
+176, 35
+966,57
-71,06
+10,26

18


• Về mặt hàng nhuyễn thể (mực và bạch tuộc)

Năm 2003, chúng ta xuất sang Nhật bản 8.584 tấn mực đông lạnh, kim
ngạch đạt 5,12 tỷ yên. Mặc dù các tháng cuối năm, xuất khẩu mực đông lạnh của

Việt Nam vào Nhật đã tăng nhẹ, nhưng tổng lượng xuất khẩu của cả năm vẫn
thấp hơn so với mức 9.304 tấn, kim ngạch 5,74 tỷ yên xuất khẩu trong năm 2002.
Tính đến thời điểm tháng 11/2003, Nhật Bản trở thành thò trường tiêu thụ
mực và bạch tuộc lớn nhất của Việt Nam, chiếm 37% tổng trò giá xuất khẩu ở mặt
hàng này của Việt Nam. Công ty Xuất Nhập khẩu Thủy sản An Giang là nhà cung
cấp lớn nhất ở mặt hàng này.
Năm 2003, mặt hàng bạch tuộc được xuất khẩu chủ yếu ở dạng đông lạnh,
đạt 4.927 tấn, thu được kim ngạch gần 1,31 tỷ yên, tăng hơn 4,1% về lượng và
tăng 3,6% về trò giá so với năm 2002.
Bảng 2.6: Tình hình nhập khẩu nhuyễn thể của Việt Nam vào Nhật
Bản
Năm 2002
Năm 2003

Mặt hàng

Mực ống đông
lạnh
Mực nang đông
lạnh
Mực ống loligo
đông lạnh
Mực khô
Bạch tuộc đông
lạnh
Bạch tuộc khô

Lượng
(tấn)


Trò giá
(nghìn
yên)

Giá TB
(yên/kg)

Lượng
(tấn)

Trò giá
(nghìn
yên)

664 4.482,99 2.729,430

609

4.731,47 2.706.343

572 4.100,63 2.386,499

582

8.915

263.79
261.674
4.734,12 1.262,669


588

0

0

992
220.17
218.573
267 4.926,56 1.308,441

993
266

42,03
25,771
613
Nguồn: Tạp chí thông tin thủy sản

0

25,60

Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 42,9 tấn cá thu sang Nhật, đứng sau
các nước Hàn Quốc, Trung Quốc, New Zealand. Hàn Quốc là nước có lượng cá thu
xuất khẩu rất lớn (tới 1,327 tấn) tới thò trường này.
Và mặc dù mặt hàng cá dải đông lạnh bò giảm sút về lượng xuất khẩu, song
Việt Nam là nước đứng thứ 6 trong số các nước có lượng xuất khẩu lớn nhất vào
Nhật với giá bán cao nhất, đạt 383,6 yên/kg.


Giá TB
(yên/kg)

4.557,13 3.025.920

15,15

ta thua kém nhiều so với n Độ và Đài Loan-hai quốc gia đứng đầu về xuất khẩu
cá ngừ tới Nhật Bản, song chúng ta lại bán được giá cao hơn họ.

15,787

617

Về cá tươi, ướp đá và đông lạnh các loại:
Xuất khẩu sản phẩm cá các loại sang Nhật Bản năm 2003 đạt khoảng
8.086 tấn, kim ngạch thu được 2,02 tỷ yên. So với năm trước, xuất khẩu tăng
5,87% về lượng và tăng 15,41% về trò giá. Tuy nhiên so với tôm, kim ngạch thu
được từ xuất khẩu cá tươi, ướp đá và đông lạnh thấp hơn rất nhiều.
Về lượng xuất khẩu, các mặt hàng có lượng xuất khẩu năm 2003 tăng hơn
năm 2002 là cá ngừ vây vàng tươi, từ mức 780,04 tấn lên 1.079,91 tấn, surimi
đông lạnh (tăng 4,3 lần), cá ngừ fillet đông lạnh, cá kiếm fillet đông lạnh, …
Nhiều mặt hàng giảm lượng xuất như cá sòng đông lạnh (187,4 tấn), cá ngừ mắt
to tươi (33,54 tấn), cá ngừ vằn đông lạnh, cá dải đông lạnh…
Xét cụ thể một số mặt hàng đạt kim ngạch cao tới Nhật bản trong năm qua
thì cá ngừ vây vàng tươi là mặt hàng có lượng xuất khẩu lớn. Theo thống kê, Việt
Nam là nước đứng thứ 8 trong số các nước có lượng xuất khẩu mặt hàng này tới
Nhật Bản trong năm 2003. Cá ngừ mắt to tươi cũng là loại cá có được chỗ đứng
tại thò trường Nhật Bản. Việt Nam đứng thứ 9 trong số các nước thu được kim
ngạch xuất khẩu cao loại cá này tới Nhật Bản. Mặc dù về lượng xuất khẩu, chúng



19

20


Bảng 2.7: Một số sản phẩm cá của Việt Nam xuất tới thò trường Nhật
Bản (nguồn: Tạp chí thông tin thủy sản)
Năm 2002
Mặt hàng

Cá ngừ vây vàng tươi
Cá ngừ mắt to tươi
Susimi đông lạnh
Cá ngừ fillet đông lạnh
Cá sòng đông lạnh
Cá kiếm fillet đông lạnh
Cá ngừ vằn đông lạnh
Cá dải đông lạnh
Trứng cá trích đông lạnh
Trứng cá tuyết đông lạnh
Cá dẹt đông lạnh
Cá thu đông lạnh
Cá tráp đông lạnh
Cá hồi bạc đông lạnh
Cá ngừ đóng hộp
Cá bơn đông lạnh
Chả cá đông lạnh
Cá khô

Trứng cá muối
Vi cá khô

Lượng
(tấn)
780,04
756,69
214,18
236,28
860,77
55,70
826,91
162,57
15,04
0
75,53
67,50
39,50
0
357,23
1,01
984,33
2.204,20
4,57
0,33

Trò giá
(nghìn
yên)
574,558

587,050
27592
88,670
117,423
18,620
77,319
54,552
19,236
0
26,276
25,882
13,363
0
5,519
1,083
12,745
98,210
312
33

Năm 2003
Lượng
(tấn)
1.079,91
723,15
921,52
332,55
673,39
158,25
488,07

95,12
48,61
28,10
60,81
42,89
11,26
11,37
343,91
0,04
1.506,79
1.554,81
4,57
0,45

Trò giá
(nghìn
yên)
720,563
598,450
137,705
118,891
89,756
50,480
43,101
36,487
55,815
30,699
21,145
13,099
5,791

5,358
4,871
3,201
13,629
71,041
312
33

Năm
2003 so
với
2002
(tấn)
+299.87
-33,54
+707,34
+96,27
-187,38
+102,55
-338,84
-67,45
+33,57
+28,10
-14,72
-24,61
-28,24
+11,37
-13,32
-0,97
+522,46

-649,39
+4,57
+0,42

ống, mực nang được chế biến thành sushi, sashimi thì nhập khẩu vào Nhật Bản
không bò hạn chế bởi hạn ngạch mà giá trò xuất khẩu cao hơn 4 lần so với xuất
khẩu thô.
¾ Hiện nay, Việt Nam đứng thứ hai sau Thái Lan về cung cấp mực nang cho
thò trường Nhật Bản, nhưng tỷ lệ khá lớn trong số này được các nhà chế biến
Nhật Bản sấy khô và tái xuất sang thò trường khác với khối lượng lớn hơn. Đây
cũng là một hiện tượng đặt ra cho các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải
suy ngẫm. Điều này mở ra một hướng đi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam là
liên kết với các doanh nghiệp Nhật Bản để thực hiện chế biến tại Việt Nam, sau
đó xuất khẩu thủy sản đã qua chế biến sang các thò trường khác. Hình thức liên
kết này có thể là doanh nghiệp Việt Nam sẽ sử dụng máy móc và công nghệ
Nhật Bản để sản xuất và sau đó phía Nhật Bản sẽ bao tiêu toàn bộ sản phẩm.
II.2.2.2.- Về giá cả các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản:

Qua bảng 2.7, ta thấy các mặt hàng ngừ vây vàng, susimi đông lạnh, chả cá
đông lạnh tăng lên đột biến trong khi các mặt hàng cá sòng, cá ngừ vằn đông
lạnh lại giảm đột biến chứng tỏ sự biến động rất lớn, khó dự đoán nhu cầu ở các
mặt hàng cá
Một số đánh giá sau khi nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam ở thò trường Nhật Bản :
¾ Mặc dù Nhật Bản là thò trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt
Nam, nhưng trong 10 mặt hàng thủy sản nhập khẩu lớn nhất vào Nhật Bản thì
Việt Nam chỉ tham gia mạnh vào 2-3 mặt hàng
¾ Tỷ lệ xuất khẩu thủy sản giá trò gia tăng trên thò trường Nhật Bản còn
khá thấp, khoảng trên 20% tổng giá trò xuất khẩu. Việc xuất khẩu thủy sản dưới
dạng thô ít qua chế biến khiến nhiều mặt hàng xuất khẩu sang thò trường Nhật

Bản gặp nhiều khó khăn như mặt hàng mực ống đông lạnh ở thò trường Nhật
Bản được quản lý bằng hạn ngạch, nhưng năm 2000 Bộ Công nghiệp và Ngoại
thương Nhật Bản giảm hạn ngạch nhập khẩu mực ống từ Việt Nam đến 10 lần
làm cho một số công ty thủy sản Việt Nam gặp khó khăn, trong khi đó nếu mực

Sản phẩm thủy sản Việt Nam có giá tương đối cạnh tranh trên thò trường
Nhật Bản. Tuy nhiên, ở một số mặt hàng, đặc biệt là tôm, giá tương đối cao so
với các nước khác.
Mặt hàng tôm đông lạnh năm 2003 giá XK trung bình đạt 935 yên/kg thấp
hơn Indonexia (1.072 yên/kg) và Thái Lan (1.039yên/kg) nhưng vẫn cao hơn Ấn
Độ (849 yên/kg) và Trung Quốc (768 yên/kg) so với năm 2002 giảm 0,6%.
Mặt hàng mực, bạch tuột đông lạnh giá XK trung bình ở mức (266 yên/kg)
thấp hơn nhiều so với các nước XK lớn khác như Marốc (718 yên/kg), Trung Quốc
(672 yên/kg), Thái Lan (316 yên/kg) so với năm 2002 giá mặt hàng này cũng giảm
đi.
Mặt hàng cá tươi, ướp đá và đông lạnh các loại: về giá trung bình, các mặt
hàng đạt giá XK cao hơn so với năm trước bao gồm: cá táp đông lạnh (52%), cá
dải đông lạnh (14,3%), cá ngừ mắt to tươi (6,67%), Surimi đông lạnh (16%). Tuy
nhiên đa số các mặt trên đều bò giảm giá, trong đó: cá ngừ vây vàng tươi (9,4%),
cá ngừ fillet đông lạnh (3,6%), cá sòng đông lạnh (2,3%), trứng cá trích đông
lạnh (10,2%), cá thu đông lạnh (20,3%), cá tráp đông lạnh (52%), cá ngừ vằn
đông lạnh (5,6%). Xét cụ thể:
- Mặt hàng cá ngừ vây vàng tươi giá XK trung bình đạt (667,2 yên/kg) thấp
hơn nhiều so với các nước khác như Trung Quốc (913,2 yên/kg), Đài Loan (707,4
yên/kg), Ấn độ (701,7 yên/kg), nhưng cao hơn Thái Lan (570,9 yên/kg).
- Mặt hàng cá ngừ mắt to tươi giá bán trung bình lại cao, đạt (827,6 yên/kg),
còn Ấn độ (781,5 yên/kg) và Đài Loan là (683,3 yên/kg).
- Mặt hàng cá thu xuất sang Nhật giá trung bình là (305,4 yên/kg), trong khi
đó của Hàn Quốc là (363,6 yên/kg) và Trung Quốc là (241 yên/kg).
- Mặt hàng ghẹ đông lạnh giá bán trung bình sang Nhật là (522 yên/kg), cao

hơn so với các nước Trung Quốc (438 yên/kg) và Ấn Độ (398 yên/kg).
Tóm lại, trừ hai mặt hàng cá ngừ mắt to tươi và ghẹ đông lạnh có giá XK
trung bình vào Nhật Bản cao hơn so với các nước khác vì đây là những mặt hàng
của Việt Nam mới xuất sang Nhật, nhu cầu tiêu dùng cao nhưng khả năng cung
cấp còn thấp. Còn lại các mặt hàng khác giá xuất khẩu trung bình vào Nhật Bản
đạt mức từ thấp đến trung bình so với các nước XK khác do chất lượng sản phẩm
còn thấp, chủng loại đơn điệu, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, qui cách và mẫu

21

22


mã chưa phù hợp với thò hiếu , chủng lọai, sản phẩm chế biến sẵn chưa có nhiều
những lọai phù hợp với người tiêu dùng Nhật bản làm cho kim ngạch XK chưa
tăng cao.
II.2.2.3.- Về cách thức tổ chức XK hàng thủy sản của Việt Nam vào thò
trường Nhật Bản (phân phối sản phẩm):
Nhà xuất khẩu nước ngoài muốn đưa sản phẩm trực tiếp thâm nhập thò
trường Nhật Bản phải trải qua nhiều việc phức tạp, qua nhiều mắt xích thương
mại. Nhưng bù lại nhà xuất khẩu có thể bán được giá cao, có thể tiếp cận trực
tiếp với thò trường để nắm bắt cung, cầu nhằm xây dựng chiến lược cạnh tranh
cho sản phẩm. Và hiện chỉ có một số Doanh nghiệp lớn của Thái Lan, Ấn Độ,
Trung Quốc mới tạo dựng được kênh phân phối trực tiếp sản phẩm thủy sản trên
thò trường Nhật Bản. các Doanh nghiệp trên 80% là xuất khẩu qua các công ty
thương mại Nhật Bản có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện có
trên 10 công ty kinh doanh thủy sản Nhật Bản là Marubeni, Mishui, Intochu,
Shumitomo, Tomen, Nishoiwai, Nichimen… Đây là những công ty thương mại kinh
doanh tổng hợp. Các công ty đều có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Khi các
công ty mẹ bên Nhật có nhu cầu mua hàng, họ sẽ thông báo cho văn phòng đại

diện tại Việt Nam. Các văn phòng này đã có sẵn đầy đủ những thông tin về trình
độ và khả năng chế biến của một số công ty thủy sản Việt Nam, họ sẽ hỏi hàng
đến các công ty theo yêu cầu về chủng loại hàng, số lượng, chất lượng. Các công ty
Việt Nam sẽ chào hàng hay báo giá (offer). Công ty Nhật tại Việt Nam sẽ gởi
bảng báo giá cho công ty mẹ ở Nhật Bản. Tại đây, các công ty sẽ căn cứ vào uy
tín, giá cả, trình độ chế biến để lựa chọn đối tác Việt Nam và sau đó ủy quyền cho
các văn phòng đại diện của các công ty thủy sản tại Việt Nam để đàm phán ký
kết hợp đồng. Với cách xuất khẩu này, hàng thủy sản phải đi qua các nhà nhập
khẩu Nhật Bản rồi sau đó mới đến các nhà bán buôn, các nhà hàng, khách sạn,
hệ thống siêu thò, người bán lẻ và người tiêu dùng. Việc đam2 phán, giao dòch và
ký kết hợp đồng ngoại thương có thể được diễn ra trực tiếp giữa các nhà cung cấp
Việt Nam với các khách hàng Nhật Bản bắt buộc phải thông qua các nhà nhập
khẩu hoặc văn phòng đại diện của họ tại Việt Nam (xem sơ đồ 2.1, 2.2).
Sơ đồ 2.3: Kênh phân phối sản phẩm thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản
Nhà bán buôn

Nhà máy Việt
Nam/Nhà
xuất khẩu

Nhà nhập
khẩu
Nhật

Nhà
phân
phối

Các nhà máy chế
biến lại


Nhà hàng,
Siêu thò

Người bán
lẻ, người
tiêu dùng

23

Ưu điểm của cách thức phân phối này:
- Chi phí lưu thông thấp.
- Kênh phân phối được thiết lập sẵn sẽ thuận lợi cho các nhà sản xuất Việt
Nam có quy mô hoạt động nhỏ, năng lực tiếp cận thò trường còn hạn chế vì không
phải mất thời gian và tốn nhiều chi phí cho việc nghiên cứu kênh phân phối.
Nhược điểm của cách thức phân phối này:
Giá xuất khẩu thấp, người xuất khẩu không chủ động đònh giá cho sản phẩm
của mình trên thò trường Nhật Bản, chủ yếu tham khảo giá xuất khẩu của các
nước khác.
Không tạo được tên tuổi cho hàng thủy sản Việt Nam bởi phần lớn các sản
phẩm XK của Việt Nam xuất sang Nhật dưới dạng thô hoặc sơ chế, nó sẽ được chế
biến lại thông qua các nhà máy chế biến của Nhật Bản và sẽ mang nhãn hiệu
hàng hóa của Nhật Bản.
Không trực tiếp tiếp cận với người tiêu thụ nên khó nắm bắt được những
thay đổi về thò hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản.
II.2.2.4.-Về công tác xúc tiến thương mại:
Việc tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế , đặc biệt là các hội chợ
triển lãm được tổ chức tại Nhật bản giúp cho doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông
tin về bạn hàng, tiếp xúc với những khách hàng tiềm năng. Cũng thông qua hội
chợ nhiều hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết, nhiều đối tác kinh doanh, bạn

hàng nước ngoài đã được xác đònh . Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể học
hỏi , thu thập các thông tin về sản phẩm cũng như các biện pháp Marketingcuả
các doanh nghiệp đang chiếm lónh hàng đầu tại Nhật bản.Tuy nhiên trong điều
kiện các doanh nghiệp của ta đang có rất nhiều khó khăn về mặt tài chính, nên
việc tham gia hội chợ còn ít.
Để chủ động nắm bắt thông tin, từ năm 2003 đã có một số doang nghiệp
XK thuỷ sản chủ động mở văn phòng đại diện của mình tại Nhật bản, trực tiếp
tìm bạn hàng , tìm hiểu nhu cầu khách hàng , nhất là nghiên cứu cách chế biến
và tiêu thụ sản phẩm của ngưới Nhật Bản nhằm làm tăng thêmchủng loại mặt
hàng chế biến xuất khẩu
II.2.3. Về thông tin thương mại:
Trong các bạn hàng lớn của Việt Nam, Nhật bản được coi là một thò trường khó
tính và có nhiều điểm rất khác biệt so với các thò trường khác. Những sự khác
biệt này bắt nguồn từ sự khác nhau về vò trí điạ lý và văn hóa vì vậy thông tin về
thò trường này hết sức cần thiết. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu nhu cầu, cũng như sự thay đổi về thò hiếu để
có những chiến lược xuất khẩu phù hợp. Nguyên nhân thiếu thông tin là đa số
doanh nghiệp Việt Nam chưa có văn phòng đại diện tại Nhật Bản và có ít sách
báo đề cập đến đặc điểm cũng như tập quán tiêu dùng của người dân Nhật bản.
Những thông tin đưa ra thường manh mún, trùng lắp, thông tin đã qua xử lý và

24


thông tin chuyên sâu còn thiếu . Gần đây, doanh nghiệp có thể thu thập thông
tin từ nhiều kênh khác nhau như từ báo, tạp chí như các ấn phẩm của Bộ thương
mại như: Tạp chí Thông tin thương mại, Báo Thương mại hoặc các tờ báo khác
như : Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Sài Gòn…Hoặc là doanh nghiệp có thể
tìm kiếm thông tin trên mạng Internet, đây là một hình thức hữu hiệu để có
thông tin. Hiện nay, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã mở

trang Web để cung cấp thông tinvề thò trường . Ngoài ra các doanh nghiệp còn có
thể tìm kiếm thông tin về thò trường Nhật bản từ đòa chỉ của Tổ chức xúc tiến
thương mại Nhật Bản (JETRO), hoặc doanh nghiệp cũng có thể tìm thông tin
thông qua phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam

bộ kỹ thuật, nhất là kỹ sư thuỷ sản làm các chức năng tư vấn kỹ thuật cho các
chủ trang trại, chủ hộ nuôi trồng thuỷ sản bước đầu đem lại kết quả cụ thể.
Trong lónh vực chế biến thuỷ sản trình độ của lực lượng lao động cũng còn
thấp, số lượng kỹ sư thuỷ sản trong các doanh nghiệp chế biến còn chiếm tỷ lệ
thấp, đa số lao động ở trình độ lao động giản đơn nên việc học tập và nắm bắt kỹ
thuật sản xuất rất hạn chế.nh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm xuất khẩu.
I.2.5.Về tình hình tài chính :
.Bảng 2.9.- Về mặt vốn đầu tư phát triển qua các năm

II.2.4.Về tình hình lao động trong ngành thuỷ sản

Chỉ tiêu

Bảng 2.8: Tổng số lao động trong ngành thuỷ sản qua các năm
Năm
1990
Số lao động làm ngành thủy sản (1.000 người) 1.860
Tốc độ phát triển (%)

1991 1992 1993 1994 1995 1996
2.100 2.350 2.570 2.810 3.030 3.120
112,90 111.90 109,36 119,57 107,82 102,97

Năm

1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Số lao động làm ngành thủy sản (1.000 người) 3.200 3.350 3.380 3.400 3.620 3.810 3.970
Tốc độ phát triển (%)
102,56 104,68 105,62 100,59 106,47 105,24 104,19

Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thủy sản
Với tình hình thực tế của những năn gần đây và những năm tới thì lực lượng
lao động thủy sản sẽ còn tiếp tục gia tăng. Theo chiến lược phát triển ngành thủy
sản (2000-2010) tổng số việc làm thường xuyên trong ngành thủy sản sẽ tăng lên
tới 3,9 triệu lao động (năm 2005); 4,4 triệu lao động (năm 2010). Trong đó lao
động nuôi trồng thủy sản và chế biến thủy sản tăng gấp 2 lần và ước khoảng
500.000-700.000 người tham gia không thường xuyên trong ngành thủy sản .
Nâng tổng số người sống bằng nghề kinh tế thủy sản lên khoảng 6 triệu người.
Đây là con số không hề khiêm tốn khi mà KHCN ngày càng phát triển và máy
móc thiết bò đang dần thay thế cho con người trong mọi hoạt động SXKD.

Năm
2000
3715,5

Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng)
Trong đó:
- Giá trò TSCĐ mới tăng thuộc 879,1
vốn đầu tư (tỷ đồng)
Nguồn : Niên Giám thống kê 2003

Năm
2001
2513,2


Năm
2002
2919,4

Năm
2003
3300

1375,5

1654,9

1900

Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư cho ngành Thủy sản năm 2000 đạt mức cao,
năm 2001 sụt giảm, nhưng từ năm 2002 trở lại đây , mức vốn đầu tư có chiều
hướng tăng dần trở lại.Xu hướng tăng trưởng này chưa phù hợp với tốc độ tăng
của sản lượng thuỷ sản khai thác, nuôi trồng và giá trò thuỷ sản xuất khẩu. Theo
tin từ tạp chí Thông tin Thuỷ sản, trong năm 2004 nhà nước đã cấp ngân sách cho
ngành Thuỷ sản tổ chức công tác xúc tiến thương mại gần 10 tỷ đồng và Bộ Thuỷ
sản cũng đã quyết đònh đầu tư 19 tỷ đồng cho các hạng mục công trình của dự án
Trung tâm giống quốc gia thuỷ sản nước ngọt Nam Bộ . Số vốn đầu tư này thể
hiện nỗ lực của chính phủ trong việc thực hiện quyết tâm nâng cao kim ngạch
xuất khẩu và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản.
II.2.6. Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu :

Về trình độ của lao động trong lónh vực nuôi trồng thuỷ sản hiện nay còn yếu và
thiếu nhiều so với nhu cầu và tốc độ gia tăng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Theo
số liêu thống kê năm 2003 trong hơn 400 nghìn hộ, hơn 17 nghiøn trang trại, và
gần 1.2 triệu lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động thuỷ sản chỉ có khoảng

2400 người có trình độ trung cấp chiếm 2% và 670 người có trình độ đại học
chiếm khoảng 0.56% tổng số lao động nuôi trồng thuỷ sản ở các trang trại. Bên
cạnh đó, những người có kinh nghiệm về lónh vực này cũng không nhiều, phần
lớn các chủ trang trại hoặc chủ hộ nuôi trồng thuỷ sản hiện nay mới chuyển từ
nghề nông hoặc các nghề khác sang, nên cả trình độ và kinh nghiệm nuôi trồng
thuỷ sản đều rất yếu. Do vậy, những mâu thuẫn giữa yêu cầu khoa học kỹ thuật
cao trong nuôi trồng thuỷ sản, nhất là phương pháp nuôi tôm công nghiệp với khả
năng hạn chế các chủ hộ, chủ trang trại ngày càng trở nên gay gắt. Để giải quyết
mâu thuẫn này, những năm gần đây đã xuất hiên một số mô hình thuê mướn cán

Qua phân tích thực trạng kết quả hoạt động của ngành thuỷ sản nói chung và
xuất khẩu thuỷ sản qua Nhật bản nói riêng, tác giả nhận thấy những điểm mạnh
và điểm yếu về thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam qua Nhật Bản như
sau:

25

26

II.2.6.1.- Điểm mạnh:




Nhiều doanh nghiệp, trong đó có những doanh nghiệp tư nhân, được đầu tư
lớn, thiết bò chế biến hiện đại để tạo ra những sản phẩm chế biến phù hợp với
thò trường Nhật Bản.
Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng các tiêu chuẩn quản trò chất lượng: GMP,
HACCP… tạo điều kiện thuận lợi để thâm nhập thò trường.











Sản phẩm thủy sản chủ lực của Việt Nam như: tôm, mực, bạch tuộc, ghẹ, cá….
được đánh giá thơm ngon vì nuôi theo phương thức quảng canh, bán tự nhiên.
Giá cả cuả một số mặt hàng xuất khẩu vào Nhật Bản ở mức tương đối cao
Nhiều doanh nghiệp thủy sản có kinh nghiệm sản xuất chế biến, giao dòch
thương mại với các đối tác Nhật Bản và tạo được chỗ đứng ổn đònh trên thò
trường này.
Một số doanh nghiệp đã có văn phòng đại diện tại Nhật bản và đã quan tâm
đến việc tham gia các hội chợ quốc tế tại Nhật Bản.
Thông tin về thò trường , về nhu cầu tiêu dùng đã nhiều hơn, cụ thể hơn thông
qua các kênh thông tin đa dạng.
Lực lượng lao động trong ngành thuỷ sản qua các năm đều tăng lên

II.2.6.2.- Điểm yếu:
• Công suất thiết bò chế biến thuỷ sản chưa phù hợp với nguồn nguyên liệu
• Hàng thủy sản xuất khẩu sang thò trường Nhật Bản chủ yếu xuất khẩu dưới
dạng nguyên liệu sơ chế cấp đông nên giá trò xuất khẩu còn thấp.
• Sản phẩm thủy sản Việt Nam chưa có thương hiệu xuất khẩu có uy tín riêng,
mang tính đặc thù độc đáo.
• Sản phẩm thủy sản chưa đa dạng phong phú.
• Hoạt động tiếp thò còn yếu vì việc đưa hàng vào Nhật Bản còn phụ thuộc vào
các nhà bán buôn người Nhật, gần như chưa có doanh nghiệp nào tổ chức phân

phối trực tiếp trên thò trường Nhật Bản.
• Nguyên liệu thủy sản còn thiếu, cạnh tranh trong thu mua còn cao dẫn đến giá
thành đầu vào của thủy sản cao.
• Giá cả sản phẩm xuất khẩu còn ở mức thấp nên giá trò xuất khẩu tăng chưa
ngang tầm tăng lên cuả sản lượng xuất khẩu .
• Ý thức kiểm soát vệ sinh an toàn cho sản phẩm thủy sản của nhà sản xuất,
đánh bắt, chế biến chưa cao, cho nên có những lô hàng bò đối tác Nhật Bản
trả về vì không đảm bảo chất lượng.
• Nắm thông tin về thò trường chưa kòp thời, bò động, phụ thuộc vào đối tác.
• Có đến 300 doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu vào thò trường Nhật
Bản, tuy nhiên, giữa các doanh nghiệp này chưa có sự liên kết mạnh, thiếu sự
điều tiết chung, dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh trong mua nguyên liệu
và bán sản phẩm gây thiệt hại cho chính bản thân các doanh nghiệp.
• Tính cạnh tranh của thủy sản Việt Nam chưa mang tính vượt trội, chưa có
nhãn hiệu nổi tiếng tạo lập được thói quen sử dụng của người tiêu dùng ở các
thò trường.
• Trình độ của người lao động trong các lình vực sản xuất, chế biến thủy sản còn
thấp làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
II.3.CÁC YẾU TỐ BÊN NGOÀI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO NHẬT BẢN
Để có thể đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm mở rộng thò trường Nhật bản
cũng cần nghiên cứu các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động này.
II.3.1.Các yếu tố thuộc môi trường vó mô:

27

II.3.1.1.Về cơ chế quản lý:
Từ những năm 90 trở lại đây, cơ chế quản lý ngành thuỷ sản có nhiều đổi
mới, thay đổi theo hướng đa dạng hóa các loại hình xí nghiệp, đa phương hóa các
quan hệ mậu dòch. Các đòa phương đều trực tiếp tham gia xuất khẩu thuỷ sản, các

doanh nghiệp Việt nam lại có bước phát triển mới trên quy mô lớn hơn, xứng
đáng là ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý đã từng bước được xây dựng,
góp phần quan trọng để hình thành hành lang pháp lý cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh toàn ngành. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục
như:
-Hệ thống luật và các văn bản pháp quy chưa đồng bộ, chưa có Luật Thuỷ
sản.Có những hoạt động đã được pháp luật quy đònh như pháp lệnh Bảo vệ, phát
triển và tái tạo nguồn lợi nhưng hiệu quả thực thi còn thấp.
-Nhiều thủ tục hành chính còn chồng chéo , gây không ít phiền hà, phát sinh
tiêu cực, làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước . Việc xử lý ban hành văn bản
quy phạm pháp luật còn chậm chạp và lỏng lẻo về cơ sở pháp lý. Kỷ cương phép
nước chưa nghiêm.
II.3.1.2. Về bộ máy tổ chức ngành:
Cơ quan chủ quản cao nhất của ngành là Bộ Thuỷ sản- đơn vò xây dựng và chỉ đạo
việc thực hiện chiến lược phát triển ngành thuỷ sản thông qua các cơ chế chính
sách và hệ thống luật pháp, đồng thời nghiên cứu các giải pháp để thúc đẩy
ngành thuỷ sản phát triển theo hướng ngày càng tăng về hiệu quả kinh tế xã hội.
Dưới Bộ Thuỷ sản là các cơ quan, các viện, trường, các sở – những đơn vò trực
tiếp giúp Bộ hoàn thành các mục tiêu đinh hướng đặt ra.
Tuy nhiên hoạt động của bộ máy tổ chức ngành còn nhiều yếu kém trong công
tác chỉ đạo điều hành như: chưa đưa ra các giải pháp cụ thể hóa các chủ trương
chính sách chung đối với phát triển ngành đáp ứng với thực tiễn đang đòi hỏi; Các
chính sách ban hành nhiều mặt đề ra đã lâu nhưng chậm rà soát, điều chỉnh bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn; Nhiều chương trình, đề án, dự án chậm trình
Chính Phủ phê duyệt, chất lượng chuẩn bò chưa tốt , phải làm đi làm lại nhiều
lần.
II.3.1.3.Về các chính sách kinh tế vó mô hỗ trợ cho ngành Thuỷ sản phát
triển:
Nhà nước đã dành cho ngành Thuỷ sản một sự quan tầm toàn diện từ đònh

hướng chiến lược đến phê duyệt các chương trình phát triển và đảm bảo các
nguồn đầu tư. Nguồn vốn ngân sách cấp cho ngành thuỷ sảnqua các năm đều tăng
lên, năm 2001 tăng 2.53% so với năm 2000, năm 2002 cũng tăng 3.18% so với
2001 và năm 2003 tăng 3.5% so với 2002. Nhờ có nguồn đầu tư ngày một tăng mà
ngành có điều kiện triển khai bổ sung mới cơ sở hạ tầng, từ các bến cá, cảng
cáđến việc mở rộng và đầu tư chiều sâu cho nuôi trồng thuỷ sản, nâng cấp các cơ
sở chế biến, cơ sở nghiên cứu – đào tạo, cơ sở dòch vụ hậu cần. Đặc biệt kể từ
năm 1997 trở lại đây nhà nước đã dành cho việc đóng tàu thuyền và trang bò cho

28


khai thác xa bờ dược 1.400 tỷ đồng vốn tín dụng ưu đãi nên đã giúp ngành bổ
sung vào đội tàu khai thác xa bờ hơn 850 chiếc, đưa lực lượng đánh bắt tiến ra
khơi xa, giảm dần áp lực khai thác gần bờ, từng bước chuyển dòch cơ cấu khai
thác hải sản. Theo tin từ tạp chí Thông tin Thuỷ sản, trong năm 2004 nhà nước
đã cấp ngân sách cho ngành Thuỷ sản tổ chức công tác xúc tiến thương mại gần
10 tỷ đồng và Bộ Thuỷ sản cũng đã quyết đònh đầu tư 19 tỷ đồng cho các hạng
mục công trình của dự ánTrung tâm giống quốc gia thuỷ sản nước ngọt Nam Bộ .
Số vốn đầu tư này thể hiện nỗ lực của chính phủ trong việc thực hiện quyết tâm
nâng cao kim ngạch xuất khẩu và sản lương nuôi trồng thuỷ sản.
Chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế đã phát triển sâu rộng và thu
được nhiều thành quả to lớn. Cho đến nay, hoạt động thuỷ sản đã thu hút đầy đủ
các thành phần kinh tế tham gia, đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước. Trong khi các đội tàu
đánh cá quốc doanh hoặc phải giải thể hoặc phải chuyển sang khai thác kết hợp
với kinh doanh dòch vụ và các quốc doanh nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn,
nhiều đơn vò nợ đọng kéo dài đang đứng trước nguy cơ phá sản thì các thành
phần kinh tế khác, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân lại tỏ ra có nhiều ưu
thế và phát triển mạnh cả về chiều sâu và chiều rậng, tư nhân tham gia cả trong

khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản và hoạt động của thành
phần kinh tế này đã đạt hiệu quả cao.
Thông qua Bộ Thuỷ sản , nhà nước đã trực tiếp chỉ đạo việc phát triển ngành
Thuỷ sản.Việc xây dựng quy hoạch phát triển thuỷ sản đến năm 2010 đã được bộ
thực hiện từ năm 1998 và điều chỉnh sửa chữa vào năm 2000 ,tuy vẫn còn nhiều
vấn đề cần phải xem xét nhưng đã thể hiện được sự quan tâm xây dựng một đònh
hướng phát triển lâu dài cho một ngành có nhiều tiềm năng. Chương trình khai
thác hải sản xa bờ đã được Bộ xây dựng từ năm 1997 theo quyết đònh của Chính
phủ nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chương
trình Phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005 mà Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đã và đang được thực hiện với kết quả đạt được vượt bậc, đưa xuất khẩu
thực sự làm tốt vai trò mở đường và là cầu nối, mở rộng thò trường, thúc đẩy nuôi
trồng và khai thác thuỷ sản phát triển.
II.3.2.Các yếu tố thuộc môi trường vi mô:
II.3.2.1.Vài nét về thò trường thuỷ sản Nhật bản:
II.3.2.1.1. Nhật Bản là cường quốc về sản xuất thủy sản :
Nhật Bản đã từ lâu đời có nghề đánh bắt và chế biến thủy sản rất mạnh.
Trước năm 1992, Nhật Bản luôn là nước đứng đầu thế giới về sản lượng đánh bắt
và nuôi trồng thủy sản với sản lượng gần 10 triệu tấn (xem bảng 2.10.). Và trong
10 năm qua, sản lượng khai thác của Nhật cả trên biển lẫn trong lục đòa liên tục
giảm nhưng vẫn đứng ở vò trí thứ tư trên thế giới, đáp ứng 2/3 nhu cầu của thò
trường Nhật và xuất khẩu khoảng 300.000 tấn thủy sản (không kể ngọc trai) trò
giá từ 700 - 800 triệu USD.

29

Bảng 2.10 : Lượng thủy sản sản xuất trong nước tại Nhật Bản
ĐVT:1.000 tấn
Năm


Tổng số

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002

9.978
9.266
8.707
8.103
7.489
7.417
7.411
6.684
6.626
6.384
6.246
6.193

Đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản ngoài biển

Tổng số
Đánh
Nuôi
bắt
trồng
9.773
8.511
1.262
9.078
7.772
1.306
8.530
7.256
1.274
7.934
6.590
1.344
7.322
6.007
1.315
7.250
5.974
1.276
7.258
5.985
1.273
6.542
5.315
1.227
6.492

5.239
1.253
6.252
5.022
1.231
6.114
4.910
1.204
6.063
4.881
1.182

Đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản trong lục đòa
Tổng số
Đánh
Nuôi
bắt
trồng
205
107
98
188
97
91
177
91
86
169
93

77
167
92
75
167
94
73
153
86
67
143
79
64
134
71
63
132
71
62
132
70
62
130
69
61

Nguồn : Bộ Nông, Lâm, Thủy sản Nhật Bản
Nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút về sản lượng khai thác hải sản
Nhật Bản, đặc biệt ở nguồn cá đánh bắt là do chất lượng các loại cá sống theo
đàn như cá Sacdine, cá thu bò xuống cấp trầm trọng. Bên cạnh đó, tuyên ngôn về

đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia cá biển cũng ảnh hưởng mạnh đến
đánh bắt cá của Nhật bởi vì Nhật Bản không còn được tự do đánh bắt cá ở vùng
gần bờ biển của các nước khác mà họ phải trả tiền khi vào đánh bắt cá trong khu
vực thuộc hải phận của nước khác. Ngoài ra, sự thay đổi của môi trường, khí hậu
trái đất như dòng hải lưu, nhiệt độ nước biển tăng lên, tình trạng cạn kiệt nguồn
cá ở các vùng biển lân cận do đánh bắt bừa bãi … cũng làm giảm sản lượng khai
thác.
Trong khi đó, việc nuôi trồng thủy sản trong lục đòa với chi phí cao, giá
thành lớn, không cạnh tranh được với thủy sản nhập khẩu, khiến nhiều nhà nuôi
trồng thủy sản chuyển nghề hoặc không gia tăng diện tích. Nghiên cứu đặc điểm
này cho ta thấy : việc giảm sút lượng thủy sản sản xuất của nước Nhật, trong khi
nhu cầu giảm không nhiều (do khó khăn kinh tế), mở ra khả năng to lớn cho thủy
sản nhập khẩu thâm nhập, trong đó có thủy sản của Việt Nam.
II.3.2.1.2. Tình hình nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản :
Nhật Bản được coi là nước nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, hàng
năm nhập khẩu trên dưới 4 triệu tấn với trò giá nhập khẩu 16 - 18 tỷ USD.
Nhập khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thò trường kinh doanh
thủy sản của Nhật Bản vì :
- Trước tiên, như đề cập trên đây, việc khai thác và nuôi trồng thủy sản
của Nhật Bản đang trên chiều hướng giảm và có thể không bao giờ cung cấp đủ
cho nhu cầu trong nước.

30


- Nguồn cung hàng nhập khẩu và chất lượng có thể tương đối đồng nhất
hơn so với thủy sản trong nước. Điểm này đặc biệt quan trọng đối với hệ thống
kênh nhà hàng và những nhà chế biến thủy sản trong nước, những đơn vò luôn
kinh doanh với số lượng lớn.
- Nguồn hàng thủy sản nhập khẩu thường rẻ hơn so với hàng trong nước.

- Các nhà phân phối Nhật Bản cho các mặt hàng thủy sản đã phát triển
việc kinh doanh của mình ra nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho việc thu mua
thủy sản để phân phối tại Nhật Bản.
- Các nước xuất khẩu thủy sản vào Nhật Bản đang xúc tiến việc xuất khẩu
của họ.
Nghiên cứu tình hình nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản giúp chúng ta
hình dung được : dung lượng của thò trường; những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu;
đối thủ cạnh tranh …
Diễn biến nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản từ trước cuộc khủng hoảng
kinh tế đến hết năm 2003 như sau :

5
Cá khác đông và không đông
6,1
6
Cá chình các loại
6,3
7
Mực, bạch tuộc đông
5,4
Nguồn : Bộ Nông - Lâm - Thủy hải sản Nhật Bản
Trong các mặt hàng thủy sản nhập khẩu chủ yếu, hai mặt hàng tôm và cá
ngừ chiếm tỉ lệ cao hơn các mặt hàng khác.
Sau đây là chi tiết tình hình nhập khẩu các mặt hàng thủy sản mà
Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu.
MẶT HÀNG TÔM :
Hiện nay, Nhật Bản là nước nhập khẩu tôm lớn thứ hai trên thế giới (sau
Hoa Kỳ). Sau đây là chi tiết tình hình nhập khẩu tôm của Nhật Bản (1998 2002):
Bảng 2.13 : Nhập khẩu tôm vào thò trường Nhật Bản
ĐVT : Tấn, Triệu Yên


Bảng 2.11 : Tình hình nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

Khối lượng (triệu tấn)
3,48
3,35
3,31
3,00
3,41
3,54
3,71
3,82
3,91

Giá trò (tỷ USD)
17,83
17,02
15,54
12,82
15,25

16,13
16,91
17,01
17,49

Tỷ lệ tăng, giảm (%)

Mặt hàng

-4,40
-8,60
-17,30
+19,00
+6,00
+4,83
+5,65
+2,82

Nguồn : Bộ Nông Lâm - Thủy hải sản Nhật Bản
Theo bảng 2.11, sản lượng và giá trò thủy sản nhập khẩu của Nhật bản
giảm đến mức thấp vào năm 1998, nhưng lại tăng mạnh lên từ 2000 trở lại đây.
Các mặt hàng thủy sản nhập khẩu chủ yếu : Có 7 nhóm mặt hàng
được Nhật Bản nhập khẩu nhiều nhất (xem bảng 2.12)
Bảng 2.12 : Những mặt hàng nhập khẩu thủy sản chủ yếu của Nhật
Bản từ 1995 - 2003 :
STT
1
2
3
4


Nhóm sản phẩm

Tỷ trọng từng mặt hàng trong
giá trò nhập khẩu bình quân
Tôm và tôm hùm dạng đông và 19,3
không đông
Cá ngừ đông và không đông
13,1
Cua, ghẹ các loại
8,0
Cá hồi đông và không đông
7,9

31

1998

1999

2000

2001

2002

SL

TG


SL

TG

SL

TG

SL

TG

SL

TG

Tôm đá và các loại
tôm biển khác

9.426

20.782

8.605

16.921

9.774

21.062


7.854

18.478

10.954

25.770

Đông lạnh

7.057

13.648

6.157

9.912

7.394

14.083

5.579

11.491

8.383

17.266


Sống tươi ướp lạnh

2.370

7.134

2.448

7.008

2.380

6.979

2.275

6.987

2.571

8.504

Tôm hùm

2.451

4.987

2.782


5.252

2.971

5.604

2.485

5.155

3.415

7.084

Đông lạnh

906

1.926

1.360

2.667

1.446

2.918

1.082


2.350

1.503

3.261

Sống tươi ướp lạnh

1.545

3.060

1.422

2.585

1.525

2.686

1.403

2.805

1.912

3.822

Tôm sú


238.994

337.112

247.402

280.822

246.656

298.001

245.147

276.641

248.162

280.026

Nguồn : Japan Exports and Imports
Sau nhiều năm suy giảm, thò trường tôm Nhật Bản năm 2002 lại khởi sắc,
có mức tăng 2,7% so với năm 2001, tuy còn kém xa giá trò nhập khẩu tôm năm
1995 và chắc còn phải một số năm nữa thò trường tôm Nhật Bản mới hy vọng
quay lại thời kỳ hoàng kim.
Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong những năm qua luôn nằm ổn đònh ở mức
khoảng 90% trong tổng số dung lượng thò trường tôm tại Nhật Bản. Qua đó,
chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của tôm nhập khẩu trong việc đáp ứng
nhu cầu tiêu thụ của người dân Nhật Bản.


32


Bảng 2.14 : Tỷ trọng nhập khẩu trong tổng thò trường của mặt
hàng tôm tại Nhật Bản. ĐVT : Tấn
Tiêu chí
Sản lượng đánh
bắt nội đòa
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Dung lượng thò
trường
Thò phần nhập
khẩu
Nguồn : JETRO

1995
35.919

1998
28.436

1999
28.307

2000
28.302

2001

26.848

2002
27.261

191.711

133.908

224.020

121.938

218.308

119.441

223.101

1.790

358

1.474

371

4.512

1.363


4.632

1.779

71.739

26.304

100.641

26.511

83.945

23.063

84.140

23.113

108.831

89.547

112.765

77.045

119.001


73.127

125.770

77.285

9.351

17.698

9.141

18.010

10.850

21.889

8.558

17.264

105.000

48.250

105.020

50.612


113.434

56.235

105.077

52.086

1.259

1.502

1.409

1.673

1.345

1.393

1.208

1.419

Cá ngừ vây dài
Cá ngừ vây vàng
Cá ngừ mắt to
Các loại khác


311.209
598
346.530

251.031
404
279.063

259.062
348
287.021

259.565
340
287.567

255.486
341
281.993

262.531
343
289.449

89,8%

90,0%

90,3%


90,26%

90,6%

90,7%

Như vậy, trong tổng thò trường mặt hàng tôm thì hầu hết là được nhập khẩu
CÁ NGỪ :
Cá ngừ là mặt hàng thủy sản nhập khẩu nhiều thứ hai vào Nhật Bản. Tình
hình nhập khẩu cá ngừ thể hiện qua bảng 2.15; 2.16. Như vậy là trong những
năm gần đây, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế nhập khẩu thủy sản của Nhật
Bản đang gia tăng nhanh, tuy vẫn còn kém năm hưng thònh nhất (1995) về giá
trò. Nhưng là đúng vào thời kỳ này, đất nước Nhật Bản phải trải qua cuộc khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế thì nguồn lợi hải sản vốn rất giàu có của họ lại cạn
kiệt nhanh chóng. Sản lượng khai thác tụt dốc liên tục, sản lượng nuôi trồng cũng
giảm khoảng 20%, yếu tố này cũng góp phần quan trọng vào khâu làm tăng nguồn
nhập khẩu cá.
Nhật Bản là nước nhập khẩu cá ngừ nguyên liệu thô để làm sashimi lớn
nhất thế giới. Các vùng biển trên thế giới là những nơi cung cấp cá ngừ nguyên
liệu để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ sashimi tại Nhật Bản. Do nhu cầu
tiêu thụ mặt hàng này tăng lên, lượng cá ngừ nhập khẩu cũng tăng tương ứng. Sự
gia tăng trong hàng nhập khẩu cũng nhằm cân đối cho nguồn hàng đánh bắt
trong nước.

Bảng 2.15 : Diễn biến nhập khẩu cá ngừ trong một số năm qua
ĐVT : Tấn, Triệu Yên
Mặt hàng

Cá ngừ (đông)


1999
SL

2000
TG

SL

2001
TG

SL

2002
TG

SL

TG

Cá ngừ fillet và
chả cá
Fillet
(tươi)



ngừ

Thòt cá ngừ (tươi)

Fillet
(đông)

119.441

6.018

5.058

5.164

4.963

4.591

4.780

4.677

4.675



ngừ

9.256

13.949

10.930


18.942

12.872

22.790

7.812

19657

Thòt

(đông)

ngừ

88.467

27.741

87.518

25.035

94.626

27.272

91.380


26.335

Tổng cộng

364.058

254.003

397.091

245.127

400.540

249.640

404.261

251.935

Nguồn : JETRO
Tổng sản lượng cá ngừ nhập khẩu năm 2002 là 404.261 tấn (tăng 0,92% so
với năm 2001) đã thể hiện một con số lớn nhất trong vòng 4 năm qua. Về mặt giá
trò, cá ngừ nhập khẩu đã lên đến mức 251 tỷ Yên (tăng 0,9% so với năm 2001).
Tỷ trọng cá ngừ nhập khẩu những năm qua luôn nằm trên mức 50%, thể
hiện tầm quan trọng của hàng nhập khẩu trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
mặt hàng cá ngừ sashimi truyền thống.
Chủ yếu cá ngừ được nhập khẩu dưới dạng semi-dress (cá ngừ bỏ mang và
rút bỏ nội tạng). Dạng semi-dress được xem là tốt nhất để chế biến sashimi do

đảm bảo được độ tươi và chủ yếu được nhập khẩu dưới dạng đông lạnh.
Bảng 2.16 : Tỷ trọng nhập khẩu trong tổng thò trường cá ngừ tại Nhật
Bản (tấn)
Tiêu chí

1998

1999

2000

2001

Sản lượng đánh bắt nội đòa

298.006

329.499

286.321

260.090

2002
278.266

Nhập khẩu

382.897


364.058

397.091

400.540

404261

Dung lượng thò trường

680.903

693.557

683.412

660.630

682.527

Thò phần nhập khẩu

56,2%

52,5%

58,1%

60,63%


59,23%

Nguồn : Số liệu thống kê đánh bắt và nuôi trồng thủy sản năm 2002JETRO

Cá ngừ (tươi)

67.347

71.847

68.051

72.579

68.798

73.965

76.083

Cá ngừ vây dài

397

235

495

247


527

329

537

335

Cá ngừ vây vàng

33.405

27.224

35.795

28.510

36.500

28.414

39.237

29.89

Cá ngừ mắt to

24.085


20.999

21.969

19.118

21.876

19.053

24.596

23.486

Các loại khác

9.459

23.389

9.792

24.703

9.896

26.169

11.713


28.886

CUA, GHẸ:
Cua ghẹ các loại có mức nhập khẩu năm 2002 là 130 nghìn tấn, giá trò
1.120 triệu USD, tăng so với năm 2001 (1.000 triệu USD). Cua nhập khẩu chiếm
70% thò trường cua Nhật Bản và hầu như ổn đònh trong nhiều năm qua. Các nhà

33

34

81.796


cung cấp đứng đầu là Nga, Canada và Mỹ, còn Trung Quốc dẫn đầu về cung cấp
ghẹ vào Nhật.
Bảng 2.17: Diễn biến nhập khẩu cua, ghẹ trong một số năm qua
ĐVT: Tấn, triệu Yên
Mặt hàng

1999

2000

2001

2002

SL


TG

SL

TG

SL

TG

SL

TG

Cua huỳnh đế

45.459

47.420

43.139

50.088

43.826

41.976

44.126


51.230

Đông lạnh

24.760

35.747

22.190

37.727

24.088

30.837

22.684

38.297

Tươi, sống, làm lạnh

20.698

11.673

20.948

12.361


19.738

11.139

21.442

12.933

Cua tuyết

62.932

46.564

60.920

44.623

61.942

45.366

62.120

45.496

Đông lạnh

42.634


39.496

33.807

35.996

42.419

38.603

34.407

36.433

Tươi, sống, làm lạnh

20.298

7.069

27.113

8.627

19.523

6.763

27.713


9.063

Ghe các loại

8.378

5.022

14.392

7.502

16.591

8.647

17.522

10.132

Đông lạnh

6.966

3.099

12.886

5.621


14.945

6.519

15.880

7.926

Tươi, sống, làm lạnh

1.412

1.923

1.506

1.881

1.646

2.128

1.642

2.206

Các loại cua khác

6.646


5.852

5.843

4.498

7.756

6.026

6.852

5.475

Đông lạnh

1.123

797

839

599

1.445

1.208

1.223


957

Tươi, sống, làm lạnh

5.523

5.056

5.004

3.899

6.161

4.818

5.629

4.158

Tổng cộng

123.415 104.859 124.293 106.712 130.115 111.703 130.620 112.333

Việc nhập khẩu cua, ghẹ vẫn giữ mức tương đối ổn đònh trong năm vừa qua.
Khả năng trong tương lai cũng sẽ không có sự thay đổi lớn do việc đánh bắt mặt
hàng này đã đạt đến mức bão hòa.
Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, mặt hàng cua tuyết, cua làm lạnh chiếm tỷ
trọng hàng đầu khoảng 50%, sau đó là cua huỳnh đế.
Bảng 2.18: Tỷ trọng nhập khẩu trong tổng thò trường của mặt hàng

cua, ghẹ tại Nhật Bản.

II.3.2.1.3.Đặc điểm tiêu thụ thủy sản của người Nhật Bản :
Nhật Bản là một trong 4 nước có mức tiêu thụ thủy sản bình quân trên đầu
người lớn nhất thế giới, khoảng 72kg/người/năm (Báo cáo tổng kết của Bộ Nông Lâm - Thủy hải sản Nhật Bản 2002), lớn hơn cả Mỹ và EU.
Mặt hàng thủy sản tiêu thụ tại Nhật Bản rất đa dạng (xem phụ lục 4) và
có sự thay đổi cơ cấu ngành hàng thủy sản tiêu thụ : mặt hàng đắt giảm tỷ trọng
và tăng các mặt hàng có trò giá rẻ. Tuy nhiên, nhiều loại thủy sản cao cấp đắt
tiền vẫn được tiêu thụ tại thò trường Nhật Bản nhiều hơn bất kỳ nước nào khác
như Sashimi cá ngừ vây xanh, cá song, cá chình, các loại tôm sú, tôm bạc biển …
Nhật Bản là nước tiêu thụ nhiều thủy sản ở dạng Sashimi (ăn sống). Thủy
sản được tiêu thụ tại Nhật nhiều nhất vào dòp cuối năm và những ngày tết đầu
năm mới, ngoài ra còn có các dòp có nhu cầu tiêu thụ cao như Tuần Lễ Vàng cuối
tháng 4 đầu tháng 5, mùa tham quan hoa anh đào nở cũng vào dòp này, Lễ hội
Obon vào tháng 8. Trong những tháng mùa hè, tiêu thụ thủy sản không cao do
người dân Nhật Bản lo ngại vấn đề thời tiết ảnh hưởng đến chất lượng thủy sản.
Nghiên cứu đặc điểm tiêu thụ thủy sản của người Nhật cho thấy :
+ Nhu cầu của thò trường rất lớn;
+ Sản phẩm thủy sản rất đa dạng nhưng tươi sống được ưa chuộng hơn vì
có khả năng chế biến nhiều món phù hợp với sở thích của người Nhật.
+ Chất lượng thủy sản cao là yếu tố hàng đầu mà người tiêu dùng Nhật
quan tâm.
II.3.2.1.4. Nhữ n g rà o cả n mậ u dòch khi đưa hà n g thủ y sả n và o Nhậ t
Bả n :
Nắm vững những rào cản cho phép các nhà xuất khẩu thủy sản chủ động
đề xuất các giải pháp vợt rào cản, tổ chức phân phối trực tiếp hàng hóa trên thò
trường Nhật Bản.
II.3.2.1.4.1. Rà o cả n phi thuế quan:

Nguồn: Báo cáo tổng kết về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản Nhật

Bản - JETRO
Mặt hàng ghẹ nhập khẩu nhằm giúp cho Nhật Bản giải quyết được trên
75% nhu cầu tiêu thụ. Trong khi đó, việc đánh bắt nội đòa chỉ giải quyết được 25%
nhu cầu tiêu thụ của người dân.

+ Giấ y phé p hạ n ngạ c h nhậ p khẩ u :
Hàng thủy sản nhập khẩu quản lý bằng giấy phép hoặc hạn ngạch chia làm
3 nhóm:
Nhó m (1) hà n g hó a cầ n có hạ n ngạ c h nhậ p khẩ u :
Những mặt hàng này bao gồm cá trích, cá tuyết, cá bò, họ cá thu, cá thu đao,
cá song, các loại cá nhỏ dưới dạng luộc và làm khô, sò điệp, mực lá, mực ống.
Đối với việc chế biến cá trích, tùy thuộc vào công tác chế biến mà chúng sẽ
rơi vào nhóm cần phải có hạn ngạch nhập khẩu. Và việc này đã từng làm nảy
sinh vấn đề tính chính xác trong việc mô tả hàng hóa nhập khẩu của nhà nhập
khẩu.
Để nhập khẩu được những mặt hàng nói trên, nhà nhập khẩu phải có hạn
ngạch do chính phủ cấp. Trước đây, hạn ngạch được cấp cho khoảng thời gian nửa
năm. Tuy nhiên, khoảng thời gian 6 tháng này khá ngắn đã dẫn đến khó khăn

35

36

Tiêu chí

1997

1998

1999


2000

2001

2002

Sản lượng đánh bắt nội đòa 44.968

43.576

40.350

40.120

40.046

39.830

Nhập khẩu

123.966

123.358

123.415

129.293

130.115


130.620

Xuất khẩu

1.343

814

964

954

965

972

Dung lượng thò trường

167.591

166.120

162.801

163.159

169.196

169.478


Thò phần nhập khẩu

74,0%

74,3%

75,8%

76,04%

76,90%

77,07%


cho nhà nhập khẩu trong việc lập kế hoạch nhập khẩu thủy sản từ nước ngoài. Do
vậy, trong thời gian gần đây, chính phủ đã chuyển sang cấp hạn ngạch hàng năm.
Nhó m (2): hà n g hó a cầ n có xá c nhậ n nhậ p khẩ u :
Mặc dầu Cá ngừ và cá kiếm là những mặt hàng được nhập khẩu tự do, nhưng
việc nhập khẩu này đòi hỏi phải có sự xác nhận nhập khẩu. Lý do của việc cần
phải có xác nhận nhập khẩu là do mặt hàng này đôi khi cần phải được kiểm dòch
để xác đònh xem có nhiễm Cholera không. Tổ chức Y tế Thế Giới hàng tuần sẽ cập
nhật lên phương tiện công cộng việc phát dòch của Cholera.
Quy trình để nhận được sự xác nhận hàng nhập khẩu như sau:
+ Mua mẫu đơn tại Hiệp Hội các nhà nhập khẩu Thủy sản Nhật Bản.
+ Nộp đơn đã ghi đầy đủ cùng với những giấy tờ cần thiết khác cho Phòng
Phân phối Thương mại Quốc Tế, Ban Thủy sản.
+ Nhận giấy phép nhập khẩu từ Văn phòng Nông Nghiệp và Thủy sản, Bộ
Thương mại và Công Nghiệp.

Nhóm (3): hàng hóa cần có sự chấp thuận cho nhập khẩu:
Quy đònh dành cho mặt hàng cá hồi.
Cá hồi là mặt hàng nhập khẩu tự do trừ những lô hàng được xuất khẩu từ
một số vùng hoặc được xuất khẩu từ một số cảng. Trong những trường hợp này,
hàng phải xin được sự chấp thuận của Bộ Ngoại Thương và Công nghiệp trước khi
nhập khẩu. Những vùng này bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan. Việc
xin giấy chấp thận thường mất khoảng một tuần.
+ Quy đònh về vệ sinh an toàn thực phẩm (rào cản kỹ thuật):
Hàng thủy sản muốn nhập khẩu vào Nhật Bản, đòi hỏi hàng phải thực
hiện hai công việc:
+ Xuất trình tờ khai hàng thực phẩm nhập khẩu cho trạm kiểm dòch
tại cảng đến.
Để thúc đẩy quá trình làm thủ tục, Nhật Bản đã thiết lập hệ thống báo ưu
tiên (theo quy đònh của hệ thống này, các tài liệu cần thiết có thể được đệ trình
trong vòng 7 ngày trước khi đến cảng) và một hệ thống báo cáo nhập khẩu được
lập kế hoạch trước (nếu nhà nhập khẩu trong lần nhập khẩu đầu tiên cung cấp cho
trạm kiểm dòch một kế hoạch nhập khẩu trong vòng một năm hoặc ba năm và lô
hàng đó qua được cuộc kiểm tra thì nhà nhập khẩu đó sẽ được miễn thông báo
nhập khẩu cho lô hàng nhập khẩu sau đó trong một giai đoạn nhất đònh)
Từ tháng 2/1996, Nhật Bản đã thiết lập một hệ thống để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giám sát các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu. Với hệ thống
này, các văn phòng của Cục Kiểm dòch thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội, các nhà
nhập khẩu và các cơ quan thanh tra được Bộ Y tế và Phúc Lợi xã hội ủy quyền
được kết nối trực tuyến với nhau. Hệ thống này được thiết kế nhằm đẩy nhanh
tiến độ cấp phép.
• Kiểm tra theo yêu cầu:
Có thể có một số cuộc kiểm tra theo yêu cầu sau khi xem xét “Tờ khai nhập
khẩu thực phẩm” và các tài liệu khác tại trạm kiểm dòch. Trong trường hợp này,
các thanh tra viên sẽ tiến hành việc kiểm tra các lô hàng tại kho. Nếu cần sẽ tiến
hành lấy mẫu để phân tích hóa học và vi sinh tại phòng kiểm nghiệm của Trạm

kiểm dòch đó hoặc tại một phòng kiểm nghiệm tương đương khác. Dựa trên kết

37

quả của các công việc kiểm tra này sẽ đưa ra quyết đònh có cho phép hàng nhập
khẩu vào Nhật Bản hay không.
Tôm được kiểm tra để tìm kiếm sự hiện diện của các tác nhân tẩy trắng.
Tôm nuôi và tôm hùm cũng thường được kiểm tra để phát hiện dư lượng các chất
kháng sinh, kháng khuẩn.
Các nhà nhập khẩu có thể lựa chọn để kiểm tra trước các lô hàng của mình
theo các yêu cầu cần thiết tại một phòng kiểm nghiệm của Nhật Bản hoặc bởi cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền của các nước xuất khẩu đã được Bộ Y Tế và Phúc
lợi xã hội Nhật Bản chấp nhận. Các kết quả này có thể thay thế cho việc kiểm tra
tương ứng tại Trạm kiểm dòch, nơi tiến hành việc cấp phép kiểm dòch (đây là
chương trình chấp nhận các kết quả kiểm tra đã được các phòng kiểm nghiệm
chính thức của các nước xuất khẩu chuẩn bò trước). Để biết thêm thông tin về vấn
đề này, các nhà nhập khẩu có thể liên hệ với trạm kiểm dòch tại cảng đến.
Theo Luật Vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản thì những nước Châu Á sau đây
(xem bảng 2.19) khi đưa hàng vào Nhật Bản phải bò kiểm tra kỹ lưỡng về Cholera
cho từng lô hàng thủy sản.
Bảng 2.19: Trích danh sách những nước ở Châu Á phải kiểm tra
Cholera
1.- Afganistan
2. Bhutan
3. Campuchia
4. Trung Quốc
5. Ấn Độ
6. Iran
7. Công Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào


8. Malaysia
9. Mông Cổ
10. Myanmar
11. Nepal
12. Philippines
13. Srilanka
14. Việt Nam

Nguồn: Weekly Epidemiological Record No. 18, xuất bản 01/05/1998,
Bộ Y Tế và Phúc Lợi xã hội Nhật Bản.
Ở danh sách này không có Thái Lan, điều này đồng nghóa là hàng thủy sản
của Thái Lan thâm nhập thò trường Nhật Bản thuận lợi hơn so với Việt Nam.
+ Quy đònh về mác hiệu sản phẩm thủy sản:
Luật vệ sinh Thực phẩm Nhật Bản quy đònh hàng thủy sản nào tiêu thụ trên
thò trường Nhật Bản đều phải dán nhãn phản ánh các nội dung chính sau:
ƒ Tên sản phẩm.
ƒ Hạn sử dụng (hoặc sử dụng tốt nhất trước ngày…)
ƒ Tên và đòa chỉ của nhà sản xuất (nhà chế biến), tên và đòa chỉ của nhà
nhập khẩu nếu hàng được nhập khẩu.
ƒ Danh sách các phụ gia được sử dụng (nếu có).
ƒ Phương pháp bảo quản.
ƒ Nêu rõ sản phẩm là hàng sống hay không.
ƒ Nêu rõ “defrosted” nếu sản phẩm đã từng được làm tan rã.
ƒ Nêu rõ “imported” nếu sản phẩm này được nhập khẩu.
ƒ Nguồn gốc hàng

38


II.3.2.1.4.2. Các rào cản về thuế quan:

Xem phụ lục số 1, số 5, số 6, số 7 .
Qua nghiên cứu biểu thuế quan nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản, ta nhận
thấy vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO nên nhiều mặt hàng thủy sản
chủ lực của Việt Nam như tôm, cua, ghẹ đều chòu mức thuế nhập khẩu cao hơn so
với đối thủ cạnh tranh, cho nên khả năng xuất khẩu sẽ khó khăn hơn.
Tóm lại :
ƒ Dung lượng của thò trường thủy sản Nhật Bản rất lớn và đang có xu
hướng phục hồi.
ƒ Nhập khẩu thủy sản đóng vai trò quan trọng và ngày càng trở nên quan
trọng.
ƒ Sản phẩm thủy sản nhập khẩu rất đa dạng nhưng tập trung ở 1 số ngành
hàng chủ yếu.
ƒ Thủy sản đưa vào Nhật Bản đòi hỏi phải có chất lượng cao.
ƒ Thuế nhập khẩu đánh vào mặt hàng thủy sản Việt Nam cao hơn so với
đối thủ cạnh tranh.
II.3.2.2.Các đối thủ cạnh tranh trên thò trường xuất khẩu thuỷ sản
vào Nhật bản:
II.3.2.2.1. Cạ n h tranh thò trườ n g củ a cá c doanh nghiệ p trong
nướ c .
Cạnh tranh thò trường được đánh giáù bằng số tác nhân kinh doanh với cùng
một DN và một DN nào đó có thể làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các DN khác.
Theo điều tra của dự án nghiên cứu về thò trường và tín dụng nghề cá tại Việt
Nam (tháng 12/2002) trung bình mỗi cơ sở chế biến có 30,6 đối thủ cạnh tranh,
tình hình năm 2003 số lượng đối thủ cạnh tranh lại tăng lên. Đây là tình hình của
các cơ sở XK thủy sản khi họ tìm cách thâm nhập các thò trường nước ngoài, đặc
biệt là thò trường Châu Á, có khả năng tiêu thụ các kiểu thủy sản khác nhau.
Điều dễ nhận thấy qua bảng dưới là phần lớn các cơ sở chế biến duy trì mối
quan hệ hợp lý với các đối thủ cạnh tranh, chỉ có vài phần trăm cho rằng họ có
mối quan hệ chống đối với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Bả n g 2.20: Mố i quan hệ duy trì vớ i cá c đố i thủ cạ n h tranh nă m

2002
Hạ n g mụ c
Số đố i thủ cạ n h tranh
Mố i quan hệ vớ i
Hợ p lý
cá c đố i thủ cạ n h
Dè dặ t
tranh
Chố n g đố i
(%)
Tổ n g cộ n g

Cơ sở chế biế n
32,6
64,5
24,0
11,5

Tính cạnh tranh được xem xét sâu hơn qua mức độ cạnh tranh trên thò
trường theo nhận đònh của các cơ sở chế biến. Có đến 50,5% cơ sở chế biến cho
rằng thò trường cạnh tranh ở mức độ cao. Điều này là do số khách hàng là bạn
chế, do đó một sự tăng thêm về số đối thủ cạnh tranh sẽ dẫn đến mức độ cạnh
tranh thò trường cao hơn.
Về vấn đề cạnh tranh thò trường, có thể kết luận rằng qua thời gian, mức độ
cạnh tranh trên thò trường XK thủy sản có xu hướng ngày càng cao lên do sự mở
rộng hoạt động của các DN chế biến và XK thủy sản.
I.3.2.2.2. Các nước xuất khẩu thủy sản chủ yếu vào thò trường Nhật
bản:
Có khoảng trên 150 nước (số liệu năm 2003) do JETRO cung cấp) có hàng
thủy sản đưa vào Nhật Bản, nhưng trong số này, có khoảng 10 nước xuất khẩu lớn

nhất, chiếm thò phần cao trên thò trường Nhật (xem bảng 2.21)
Bảng 2.21: Danh sách 10 nhà xuất khẩu thủy sản hàng đầu vào Nhật Bản.
Nước
1998
1999
2000
Thò phần 2000 (%)
Mỹ
1,154
1,425
1,397
11
Nga
881
1,171
1,259
10
Trung Quốc
819
995
1,154
9
Hàn Quốc
737
833
866
7
Indonesia
877
760

828
6
Thái Lan
600
684
699
5
Chile
529
627
677
5
Đài Loan
590
717
670
5
Ấn Độ
592
550
602
5
Na Uy
460
694
602
5
Nước khác
3,442
3,981

4,048
32
Tổng cộng
10,681
12,437
12,802
100
Nguồn: Báo cáo tổng kết về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản Nhật
bản – JETRO
Như vậy, trong 10 nước xuất khẩu nhiều thủy sản sang Nhật Bản không có
Việt Nam. Và mỗi quốc gia kể trên xuất khẩu những mặt hàng thủy sản khác
nhau vào Nhật Bản. Điều này dựa vào sự khác nhau của nguồn nguyên liệu cũng
như sự chuyên biệt hóa của từng quốc gia. Chẳng hạn nhu Trung Quốc chủ yếu
xuất khẩu vào Nhật Bản những mặt hàng như: mực ống, lươn, tôm, ghẹ. Trong khi
đó, Nga chủ yếu xuất khẩu cá hồi và cua. Các nước phía nam Châu Á chủ yếu xuất
khẩu tôm sú, thẻ, chì, lươn và chả cá. Đài Loan và Hàn Quốc thì chuyên về xuất
khẩu cá ngừ. Na Uy thì chủ yếu xuất khẩu cá saba, cá hồi nuôi của vùng Atlantic.

100,0

Nguồ n : Dự á n nghiê n cứ u về thò trườ n g và tín dụ n g nghề cá tại
Việ t Nam.( 12/2002)

39

40


I.3.2.2.2.1. Đánh giá vài nét về đối thủ cạnh tranh chủ yếu của
ngành thủy sản Việt Nam trên thò trường Nhật Bản:

INDONESIA:
Mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Indonesia trên thò trường Nhật
Bản là tôm các loại với sản lượng tôm xuất khẩu gần gấp đôi Việt Nam và chiếm
gần ¼ thò phần tôn nhập khẩu của Nhật Bản.
Sức cạnh tranh của tôm Indonesia ở chỗ: Tôm chế biến có giá trò gia tăng
cao; sản phẩm chế biến có mùi vò phù hợp với văn hóa ẩm thực của người Nhật
Bản nên được ưa chuộng. Nhiều nhà cung cấp thủy sản của Indonesia đã tham gia
phân phối trực tiếp sản phẩm trên thò trường Nhật Bản. Chính bởi vậy, hơn 5
năm qua Indonesia luôn là nhà cung cấp tôm hàng đầu cho Nhật Bản.
THÁI LAN:
Thái Lan có nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu trên thò trường Nhật Bản
tương tự như Việt Nam. Tuy Thái Lan chỉ đứng thứ tư trong các nhà cung cấp tôm
nhiều cho Nhật Bản (Việt Nam đứng thứ hai) nhưng nhờ tham gia xuất khẩu
nhiều mặt hàng có giá trò lớn như: mực, Bạch tuộc, (đứng thứ nhất); cá ngừ (đứng
thứ nhất)… mà Thái Lan đứng thứ 5 trong 150 nước có giá trò xuất khẩu thủy sản
lớn nhất trên thò trường Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu trên 700USD/năm.
Điểm mạnh của hàng hóa thủy sản Thái Lan trên thò trường Nhật Bản là: tính đa
dạng về chủng loại sản phẩm chế biến; tạo dựng được nhiều sản phẩm mà người
Nhật ưa chuộng: cá ngừ đóng hộp, xúc xích cá ngừ… Một số doanh nghiệp Thái Lan
đã tham gia trực tiếp phân phối sản phẩm trên thò trường Nhật, tạo được những
thương hiệu thủy sản có uy tín.
ẤN ĐỘ:
Ấn Độ là một trong 10 nước có trò giá kim ngạch xuất khẩu lớn trên thò
trường Nhật Bản, nhiều năm Ấn Độ là nhà cung cấp tôm lớn thứ hai (năm 2003
bò rớt xuống hạng ba sau Việt Nam) và là nhà cung cấp mực nang và ống chính
của thò trường Nhật Bản. Ngành chế biến hải sản Ấn Độ tuy lớn nhưng vẫn còn
cung cấp sản phẩm chủ yếu ở dạng nguyên liệu cho các nhà tái chế nước ngoài,
trong đó có Nhật Bản. Các sản phẩm chế biến xuất khẩu chiếm 90% là dạng đông
lạnh khối lớn, còn các sản phẩm đông rời nhanh và sản phẩm giá trò gia tăng chỉ
chiếm 10% trong số sản phẩm xuất khẩu. Lợi thế của thủy sản Ấn Độ là sản

lượng lớn do Ấn Độ có nhiều vùng rộng lớn phù hợp với việc nuôi tôm và các chủ
trại Ấn Độ chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô, sơ chế tương tự như Việt Nam.
Do đó, muốn cạnh tranh thì sản phẩm thủy sản của Việt Nam cần được nâng cao
hàm lượng chế biến và đa dạng hoá sản phẩm.
I.3.2.2.2.1. Đánh giá về chất lượng và khả năng cạnh tranh:
Chủ yếu xuất khẩu thủy sản dưới dạng cấp đông nhưng chất lượng thủy sản
Việt Nam được đánh giá cao trên thò trường Nhật Bản do thủy sản Việt Nam chủ
yếu được khai thác từ nguồn tự nhiên và vùng biển Việt Nam không bò ô nhiễm

41

nên thủy sản Việt Nam có tính bổ dưỡng cao. Về chất lượng thủy sản Việt Nam
được người tiêu dùng Nhật Bản đánh giá ngang với sản phẩm thủy sản Thái Lan
và cao hơn các nước: Ấn Độ. Bangladesh. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam
ngày càng chú ý hơn vào việc đầu tư công nghiệp, khoa học kỹ thuật trong khâu
chế biến các sản phẩm có giá trò gia tăng nên tính cạnh tranh của thủy sản xuất
khẩu Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Về chủng loại thủy sản xuất khẩu: Như trên đã đề cập, thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam chỉ mới tập trung chủ yếu vào ba loại: Tôm, ghẹ, mực, bạch
tuộc lại chủ yếu xuất khẩu thô, điều này dẫn tới nếu khó khăn xuất khẩu ở một
ngành hàng sẽ dẫn tới giảm mạnh kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, hiệu quả xuất
khẩu sẽ không cao vì giá trò gia tăng của sản phẩm thủy sản còn hạn chế.
Từ thời điểm vụ kiện bán phá giá tôm tại Mỹ được bắt đầu, xuất khẩu tôm
đông lạnh của nước ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi xuất sang thò trường Mỹ và
cả tại các thò trường quốc tế khác. Giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
thủy sản của chúng ta đó là tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng lượng
xuất với các thò trường khác, mà cụ thể ở đây là tới Nhật Bản - thò trường tiêu
thụ thủy sản lớn thứ hai thế giới. Kết quả như tháng 12/2003 vừa qua cho thấy,
Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều này, cùng với việc giá thành xuất khẩu
của chúng ta hiện thấp hơn Indonexia, chúng ta đang phấn đấu để có thể vượt qua

được Indonexia trở thành nước có lượng tôm đông lạnh xuấtkhẩu lớn nhất tới
Nhật Bản (nhất là trong bối cảnh Indonexia có được lợi thế để đẩy mạnh xuất
khẩu đến Mỹ, và vì thế sẽ phải giảm bớt xuất khẩu tới Nhật Bản). Mặc dù Ấn Độ
và Trung Quốc đang có mức giá xuất khẩu trung bình khá thấp và có được lợi thế
cạnh tranh nhất đònh về giá, song lượng tôm của hai nước này xuất khẩu sang
Nhật các tháng cuối năm 2003 cũng như tổng lượng cả năm 2003 thấp hơn nhiều
so với Việt Nam, đồng thời chủng loại tôm, chất lượng và chế biến cũng chưa được
đánh giá cao bằng so với Việt Nam. Lượng tôm XK của Ấn Độ sang Nhật Bản chỉ
bằng 59,2% và Trung Quốc bằng 43% so với Việt Nam. Điều này chứng tỏ mặt
hàng tôm đông lạnh Việt Nam đã khẳng đònh được uy tín và chất lượng trên thò
trường Nhật. Một xu hướng cần được chú ý tới là trong 3 năm gần đây, xuất khẩu
tôm từ Việt Nam tới Nhật bản tăng khá mạnh,trong khi xuất khẩu tôm của
Indonexia, Ấn Độ và Thái Lan lại liên tục giảm sút. Xuất khẩu tôm của Trung
Quốc tới Nhật Bản cũng có được sự tăng trưởng, mức tăng khá chậm trong 3 năm
qua.
Cũng trong năm 2003 Việt Nam đứng thứ tư sau các nước Trung Quốc, Thái
Lan và Mỹ về xuất khẩu mặt hàng mực ống đông lạnh tới Nhật Bản. Với giá
trung bình 609 yên/kg, mức cao so với các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ (486
yên/kg), Trung Quốc (361 yên/kg). Trung Quốc hiện là nước cung cấp mặt hàng
này lớn nhất tới thò trường Nhật Bản, đạt tổng lượng 17,879 tấn, chiếm 40% thò
phần. Trong khi đó Việt Nam chỉ chiếm 10,2%. Về mặt hàng mực nang đông lạnh,
chúng ta cũng xuất được khá cao, cao hơn của Marốc, Trung Quốcvà Ấn Độ với
tổng lượng đạt trên 4.100 tấn. Với tổng lượng xuất khẩu 17,294 tấn, Thái Lan
chiếm tới 53% thò phần mực nang của Nhật Bản.

42


Tóm lại:
• Thò phần thủy sản của Việt Nam trên thò trường Nhật Bản chưa tương xứng

với tiềm năng.
• Các đối thủ cạnh tranh của ta trên thò trường như Indonesia, Thái Lan,
Trung Quốc, Đài Loan, Nga… tham gia rất mạnh, xuất khẩu đều ở các loại thủy sản
khác, đặc biệt là cá biển. Đa dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu giúp cho các
nước này duy trì tốc độ tăng trưởng cao, các mặt hàng hỗ trợ cho nhau tạo chỗ
đứng vững chắc trên thò trường Nhật Bản.

Bảng 2.22.Kết quả thực hiện kế hoạch hàng năm của ngành thủy
sản Việt Nam
Sản lượng khai thác

thủy sản

hải sản

2,500,000
2,000,000
1,500,000

500,000

Nguồn cung cấp cho xuất khẩu chủ yếu của ngành thủy sản Việt Nam là
từ khai thác và nuôi trồng trong nước, với sản lượng hàng năm,năm sau đều tăng
lên so với năm trước, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản có tốc độ tăng trưởng cao và
bền vững.Hiện tại, đánh bắt thủy sản còn là nguồn cung cấp chính cho xuất khẩu
nhưng trong tương lai nuôi trồng thủy sản mới là nguồn cung cấp chính đặc biệt là
hai mặt hàng tôm và cá.(Xem bảng 2.22 và biểu đồ 2.1)

Tổng sản lượng


Tấn /Ton
3,000,000

1,000,000

II.3.2.3.Đánh giá về nguồn cung cấp cho xuất khẩu thuỷ sản:

Năm

Biểu đồ 2.1: Tổng sản lượng thủy sản, sản lượng khai thác hải sản,
sản lượng nuôi trồng thủy sản (Từ năm 1990 đến nay)

Sản lượng nuôi trồng
thủy sản

Số tuyệt đối Tốc
độ Số tuyệt đối Tốc
độ Số tuyệt đối Số tương
(tấn)
phát triển (tấn)
phát triển (tấn)
đối (%)
(%)
(%)
1990

1.019.000

-


709.000

-

310.000

-

1991

1.062.163

104,23

714.253

100,74

347.910

112,22

1992

1.097.830

103,35

746,570


104,52

351.260

100,96

1993

1.116.169

101,67

793.324

106,26

368.604

104,93

1994

1.211.496

108,54

878.474

110,73


333.022

90,34

1995

1.344.140

110,94

928.860

105,73

415.280

124,70

1996

1.373.500

102,18

962.500

103,62

411.000


98,96

1997

1.570.000

114,00

1.062.000

110,33

481.000

117,03

1998

1.668.530

106,27

1.130.660

106,46

537.870

112,82


1999

1.827.310

109,51

1.212.800

107,26

614.510

114,24

2000

2.003.000

109,61

1.280.590

105,58

723.110

117,67

2001


2.226.900

111,17

1.347.800

105,24

879.100

121,57

2002

2.344.958

105,30

1.380.126

102,39

964.832

109,75

2003

2.536.000


108,14

1.426.223

103,34

1.110.138

115,06

0
1990

1992

1994

1996

1998

2000

2002

Năm /Year

II.3.2.3.1. Về khai thác thủy sản:
II.3.2.3.1.1. Số lượng và công suất tàu thuyền.
Trong giai đoạn 1991-2003, số lượng tàu thuyền tăng từ 72.043 chiếc lên

82.500 chiếc, trong đó số lượng thuyền máy tăng nhanh ngược lại thuyền thủ công
giảm dần. Điều này làm tổng công suất tàu thuyền năm 2003 đã đạt tới 4.128.25
CV lớn gấp 5 lần so với năm 1991. Tốc độ tăng bình quân từ năm 1991 đến 2003
là 18%.
Công suất bình quân năm 1991 đạt 18CV/chiếc, đến năm 2003 công suất
bình quân đạt gần 52,6 CV tăng 2,7lần so với năm 1991. Trong khi đó năng suất
đánh bắt lại có xu hướng giảm xuống năm 1995 là 0,65 tấn/CV, đến năm 1999 là
0,49 tấn/CV, và năm 2003 còn 0,36 tấn/CV. Điều này cho thấy mặc dù đã trang
bò thêm nhiều tàu thuyền cho hoạt động khai thác nhưng hiệu quả của ngành này
vẫn còn thấp hơn so với mức đầu tư bỏ ra.
II.3.2.3.1.2. Sản lượng đánh bắt:
Trong giai đoạn 1990-2003, sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam đã
tăng liên tục với mức bình quân 6%/năm, đạt 1,426 triệu tấn vào năm 2003; trong
đó sản lượng khai thác gần bờ khoảng 720 ngàn tấn trong khi mức khai thác hợp
lý ở vùng này chỉ khoảng trên 600 ngàn tấn, nghóa là đã có dấu hiệu của việc
khai thác quá mức trong vùng gần bờ. Sản lượng khai thác xa bờ còn chiếm tỷ
trọng thấp hơn tuy đã có tốc độ tăng khá trong các năm 1997-2003 (năm 2003
tăng 1,46 lần so với năm 1997)
Trong số thủy sản khai thác được trên 60% sản lượng được sử dụng cho các
nhu cầu tiêu thụ nội đòa, 18% cho XK và khoảng 20% cho các mục đích khác.
Tóm lại :
- Với số lượng tàu thuyền máy tăng 6%, tổng công suất tăng 18%/năm,
nhưng tốc độ đánh bắt tăng có xu hướng chậm dần.

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thủy sản

43

44



- Lao động đánh cá biển tăng bình quân 10%/năm, nhưng tốc độ tăng cũng
có xu hướng chậm. Thiếu lao động có tay nghề giỏi, có khả năng làm việc trên các
tàu khai thác xa bờ.
- Sản lượng khai thác gần bờ đã vượt quá mức độ cho phép và làm cho
nguồn lợi ven bờ ngày càng cạn kiệt.

II.3.2.3.2. Nuôi trồng thủy sản:
II.3.2.3.2. 1.Diện tích và qui mô nuôi trồng thủy sản
*Diện tích:
Cho đến năm 2003, tổng mức đầu tư vốn từ Nhà nước cho chương trình nuôi
trồng thủy sản của Việt Nam là 162 tỉ, nâng tổng diện tích mặt nước dành cho
nuôi trồng thủy sản của cá nước lên 997.000ha, tăng 42.000ha so với năm 2002
chiếm 48,7% trong diện tích có tiềm năng nuôi trồng thủy sản.
Các biện pháp nuôi trồng thủy sản nhất là nuôi tôm rất phát triển ở các
tỉnh miền Nam, đặc biệt là ở đồng bằng Sông Cửu Long sau khi có Nghò quyết
09/2000/NQ-CP của Chính phủ về một số chủ trương chính sách chuyển dòch cơ
cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nhân dân ở hầu khắp các tỉnh đã
chuyển sang luân canh tôm lúa đưa diện tích nuôi trồng thủy sản trong năm 2003
lên 496.000ha, chiếm 49,79% con số của cả nước. Một số tỉnh miền Trung cũng áp
dụng kỹ thuật nuôi tôm trên cát với diện tích là 2.600ha, góp phần nâng tổng sản
lượng hàng thủy sản lên 1.110.000 tấn.
Biểu 2.25 .Vể diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
Năm

1990

1991

1992


1993

1994

1995

1996

Diện tích mặt nước nuôi trồng 491.723 489.833 577.538 600.000 576.000 581.000 585.000
thủy sản (ha)
Tốc độ tăng trưởng (%)

-

99.61

117.9

103.88

96.0

100.86

100.68

Năm

1997


1998

1999

2000

2001

2002

2003

Diện tích mặt nước nuôi trồng 600.000 626.330 630.000 652.000 887.500 955.000 996.065
thủy sản (ha)
Tốc độ tăng trưởng (%)

102.56

104.38

100.58

103.49

136.11

107.6

104.3


Biểu đồ 2.2: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
(Từ năm 1990 đến nay)

1,000,000 Ha
800,000
600,000
400,000
200,000
Năm /Year

0
1990

1992

1994

1996

1998

2000

2002

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thủy sản

45


46


Qua bảng 2.25 và biểu đồ 2.2 ta thấy diện tích nuôi trồng thủy sản năm sau
tăng lên so với năm trước, đặc biệt là hai năm 2001 và 2002 có tốc độ tăng trưởng
cao.
* Về qui mô:
Bảng 2.26: Tổng diện tích ao nuôi trên phạm vi cả nước năm 2002
Số hộ nuôi trồng
%
Phần trăm lũy tiến
Kích thước ao (m2)
150 - 932
28
10
10
1.000 - 2.400
42
15
25
2.500 - 4.500
24
8
33
5.000 - 9.000
38
13
46
10.000 - 24.000
66

23
69
25.000 - 46.000
37
13
82
50.000 - 90.000
18
6
88
100.000 - 700.000
27
9
97
1.000.000 - 3.500.000
9
3
100
Tổng số
289
100
Nguồn: Dự án nghiên cứu về thò trường và tín dụng nghề cá tại Việt
Nam.
Trong cuộc điều tra tháng 12/2002 đã cho thấy diện tích ao hồ thuộc quyền
sở hữu của nông dân dao động trong một khoảng rất rộng, từ các ao hồ nhỏ chỉ độ
150m2 đến các diện tích rất lớn khoảng 3.500.000m2. Diện tích ao hồ phổ biến
nhất (chiếm 23% trong số người được phỏng vấn) là 10.000 - 24.000m2. Khoảng
25% trên tất cả các nông dân nuôi trồng đang sở hữu các ao hồ có diện tích nhỏ
hơn 2.500m2. Gần 10% số dân nuôi trồng đang sở hữu các ao hồ lớn có diện tích
từ 100.000 đến 700.000m2. Trong khi đó chỉ có một số rất nhỏ (chiếm khoảng 3%

số người được phỏng vấn) sở hữu các ao hồ có diện tích rất lớn từ 1 đến 3,5 triệu
m2.
Nhìn chung cho đến nay hầu hết nông dân còn tiến hành hoạt động nuôi
trồng thủy sản ở quy mô nhỏ. Tuy nhiên trên thực tế còn rất nhiều diện tích có
thể sử dụng cho hoạt động này. Điều này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực từ phía
Nhà nước về vốn, kỹ thuật và thông tin thò trường tạo điều kiện để mở rộng hơn
nữa quy mô của ngành nuôi trồng trên phạm vi toàn quốc.
II.3.2.3.2.2. Sản lượng:
Cùng với sự gia tăng về diện tích, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản cũng
tăng nhanh từ 414,6 nghìn tấn vào năm 1997 lên đến 1.110 nghìn tấn vào năm
2003, chiếm 43,77% trong tổng sản lượng của ngành thủy sản. So với khai thác
thủy sản, tỷ trọng của sản lượng nuôi trồng thủy sản còn thấp hơn. Tuy nhiên
nếu nhìn về sự phát triển lâu dài, nuôi trồng thủy sản sẽ là nguồn cung cấp
nguyên liệu chủ yếu do nguồn lợi thủy sản tự nhiên ngày càng cạn kiệt và tính ổn
đònh của nuôi trồng cũng cao hơn so với khai thác.

47

II.3.2.3.3.3. Hình thức sở hữu của các tổ chức nuôi trồng:
Như đã trình bày ở bảng dưới, các hộ nông dân được phỏng vấn cho đến thời
điểm tháng 12/2002 phần lớn là các hộ cá thể, chỉ có 5% số người trả lời là có
thực hiện hoạt động kinh tế này chugn với các hộ khác dưới dạng nhóm nuôi
trồng.
Bảng 5: Hình thức sở hữu của các tổ chức nuôi trồng thủy sản năm
2002
Vùng, miền
Hình thức sở hữu Bắc
Số đếm %

Trung

Số đếm %

Nam
Số đếm %

Hộ gia đình
DN tư nhân
DNNN
Nhóm chung vốn
HTX
Tổng cộng

50
1
2
6
1
60

128

97,7

3

2,3

131

100


113

94,2

7

5,8

120

100

83,3
1,7
3,3
10,0
1,7
100

Tổng số
Số đếm

%

291
1
2
16
1

311

93,6
0,3
0,6
5,1
0,3
100

Nguồn: Dự án nghiên cứu về thò trường và tín dụng nghề cá tại Việt
Nam.
Cũng giống như hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản là ngành đòi hỏi
đầu tư vốn tương đối lớn và dễ bò rủi ro nên chỉ người dân tự bỏ vốn ra đầu tư mới
thật sự gắn bó với nghề này và phát triển nó lên trên cơ sở lòng mong muốn tạo
ra thu nhập cho chính gia đình mình. Điều này đã gi thích nguyên nhân trong
hoạt động nuôi trồng thủy sản hộ gia đình đang là một trong những hình thức sở
hữu phổ biến nhất hiện nay.
Tóm lại :
- Quy hoạch cho tất cả các vùng nuôi trồng thủy sản triển khai không đồng
bộ, chậm và còn nhiều lúng túng. Công tác quy hoạch thủy lợi cho nuôi chưa được
cụ thể hóa, sự phối hợp giữa ngành nông nghiệp và thủy sản chưa nhiều.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản chưa nhiều, thiếu
sự tập trung trong đầu tư phát triển. Việc đầu tư ở nhiều đòa phương còn mang
tính dàn trải, chia phần.
- Hệ thống dòch vụ hậu cần để phát triển nuôi trồng thủy sản chưa theo kòp
tốc độ phát triển của phong trào. Công tác kiểm dòch có nơi còn mang tính chất
thủ tục hành chính. Thức ăn và phòng trò bệnh cho nuôi tôm cá không cung cấp
đủ, chưa đủ sức cạnh tranh với thức ăn và thuốc của nước ngoài.
Hệ thống sản xuất tôm giống chưa được quy hoạch hợp lý, việc giải quyết
tôm bố mẹ cho sản xuất tôm giống còn bò động, chủ yếu vẫn dựa vào thiên nhiên,

chưa có giải pháp hiệu quả giải quyết vấn đề tôm bố mẹ để đảm bảo chất lượng,
số lượng và thời vụ cho sản xuất.
- Còn thiếu công nghệ quản lý môi trường theo hướng bền vững, an đề
phòng trò bệnh cho vật nuôi là công nghệ sản xuất các loài thủy sản có giá trò cao,
công nghệ nuôi thâm canh hiệu quả và bền vững.

48


- Xây dựng hệ thống trạm quan trắc cảnh báo môi trường cũng như việc xác
đònh nội dung công tác này còn lúng túng.
- Những đòi hỏi ngày càng chặt chẽ về chất lượng hàng thủy sản của các
nước NK thủy sản và xu hướng hội nhập quốc tế với sự dỡ bỏ hàng rào thuế quan
và phi thuế quan sẽ tạo ra sự cạnh tranh khóc liệt với các nước khác trong khi
công nghệ nuôi trồng thủy sản Việt Nam nhìn chung còn lạc hậu so với các nước
cạnh tranh với nước ta
II.3.3. Đánh giá cơ hội và nguy cơ:
II.3.3.1. Những cơ hội:
Nhà nước đã và đang dành nhiều sự quan tâm phát triển ngành thủy sản thông
qua chiến lược quy hoạch phát triển thủy sản của Việt Nam đến năm 2010.
Chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình quốc gia của ngành thủy sản…. Có thể
nói thủy sản là ngành nông nghiệp được Nhà nước đầu tư lớn nhất về vốn.
• Hiệp Hội Thủy sản Việt Nam đã lớn mạnh, trở thành Hiệp Hội ngành
hàng mạnh nhất, hỗ trợ cho các hội viên thâm nhập tốt có hiệu quả vào thò
trường Nhật Bản.
• Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản nâng lên một
tầm, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu các mặt hàng nói chung và thủy sản
nói riêng vào thò trường Nhật Bản.
• Nhu cầu thủy sản của thò trường Nhật Bản còn lớn, đặc biệt ở những mặt
hàng mà Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu như: tôm, ghẹ, mực,cá …

• Diện tích nuôi trồng tôm, cua được mở rộng, nhiều cơ sở nuôi tôm hiện đại,
mang tính công nghiệp ra đời, giảm bớt tình trạng thiếu hụt nguyên liệu.Sản
lượng nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng và chiếm tỉ trọng tăng dần trong sản
lượng thủy sản.
• Chính phủ Nhật Bản đang dành một phần vốn ODA để giúp ngành thủy
sản Việt Nam xây dựng mạng lưới kiển soát chất lượng thủy sản xuất khẩu.
• Nhiều nhà nhập khẩu thủy sản lớn của Nhật Bản đã lập văn phòng đại
diện tại Việt Nam để tham gia tích cực vào việc đưa hàng thủy sản của Việt Nam
vào thò trường Nhật Bản.
• Một số những đối thủ cạnh tranh mạnh trên thò trường Nhật Bản như:
Thái Lan, Ân Độ đang gặp khó khăn về nuôi trồng, kiểm soát dòch bệnh thủy sản
và đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam chiếm lónh thò phần.
• Kinh tế Nhật Bản phục hồi và tăng trưởng trở lại sẽ là cơ hội rất lớn để
Việt Nam xuất khẩu hàng thủy sản.
II.3.3.2. Những thách thức:
• Tính bất ổn trong xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản vẫn cao vì mới tập
trung xuất khẩu ở một vài mặt hàng.
• Chất lượng thủy sản vẫn chưa ổn đònh vì gần như chưa có sự gắn kết chặt
chẽ về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm giữa các doanh nghiệp ở các khâu
sản xuất nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và nhà thương mại.

49

• Nhật Bản thắt chặt kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
• Sức cạnh tranh giữa các nước nhập khẩu thủy sản vào Nhật bản cao, trong
đó kể cả cạnh tranh về giá cả
• Thủ tục thoái thu thuế VAT còn chậm, giấy tờ phức tạp khiến các nhà xuất
khẩu bò ứ đọng vốn kinh doanh, trong khi đó đa số doanh nghiệp thủy sản nuôi
trồng, đánh bắt cũng như chế biến đều thiếu vốn để phát triển.
• Thuế nhập khẩu nguyên liệu thủy sản còn cao. Theo quyết đònh số

193.2000/QĐTC ban hành ngày 05/10/2000 và có hiệu lực ngày 01/01/2001 thì hầu
hết các loại thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam đều là 30%. Thuế nhập khẩu cao
khiến hạn chế khả năng nhập khẩu nguyên liệu chế biến thành phẩm thực hiện
tái xuất khẩu.
II.4.Đánh giá chung:
II.4.1.Về ưu điểm:
• - Tốc độ phát triển của ngành tăng liên tục trong những năm gần đây, tạo
đà phát triển cho những năm tới.
• - Số lượng tàu khai thác hải sản xa bờ tăng, số lượng tàu khai thác gần bờ
đã được khống chế. Sản lượng khai thác xa bờ cũng ngày càng tăng. Nghề nuôi
trồng thủy sản có xu hướng phát triển, và dần được chuyển hóa về chiều sâu.
• - Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, số lượng sản phẩm xuất
khẩu ngày càng phong phú
• - Hình thành được một mạng lưới từ sản xuất-chế biến-kinh doanh thương
mại cho ngành thủy sản
• - Nhà nước ưu tiên cho phát triển thủy sản và tích cực hỗ trợ về mọi mặt.
Quan hệ ngọai giao Việt Nam – Nhật Bản ngày càng tốt đẹp. Việt Nam tham gia
vào các tổ chức quốc tế, có điều kiện để giảm thuế nhập khẩu.
• - Kinh tề Nhật bản đang phục hồi, nhu cầu của Nhật bản về thủy sản còn
lớn
• - Có sự tham gia của các thành phần kinh tế trong ngành.
II.4.2.Về nhược điểm:
• - Mất cân đối gay gắt giữa năng lực của khu vực chế biến và năng lực của
khu vực tạo nguyên liệu.
• - Trình độ công nghệ vẫn còn chưa thỏa mãn nhu cầu chất lượng và an toàn
thực phẩm; tỷ trọng hàng bán thành phẩm XK còn cao, chất lượng sản phẩm chưa
ổn đònh, hình thức sản phẩm chưa đa dạng. Vốn đầu tư cho sản xuất và chế biến
còn thấp..
• - Thông tin thò trường và xúc tiến thương mại còn yếu. Hiểu biết về khách
hàng tiêu dùng cuối cùng còn hạn chế.

• - Trình độ của người lao động trong ngành còn thấp.
• - Hình thức đưa sản phẩm vào thò trường còn qua trung gian, giá cà xuất
khẩ chỉ ở mức trung bình.

50


×