Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
MỤC LỤC
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 1
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên thế giới, theo đó nền kinh
tế của các quốc gia cũng từng bước phát triển với sự gắn kết mật thiết với nhau. Để cạnh
tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân, một trong những
công cụ chính của mỗi quốc gia đó là tập trung khai thác tối đa những lợi thế so sánh của
mình cũng như quyết định đâu là ngành kinh tế chiến lược để từ đó đưa ra những mục tiêu
và chính sách hợp lí.
Xuất khẩu thủy sản được xem là một trong những ngành then chốt của nền kinh tế nước
ta. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm, hình ảnh thủy sản Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường thế giới. Bên cạnh những thuận lợi, điểm mạnh mà
ngành thủy sản Việt Nam nói riêng, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nói chung đã tận
dụng được thì chúng ta cúng không thể không nhắc đến những khó khăn, trở ngại mà ngành
xuất khẩu thủy sản nước ta gặp phải trong nền kinh tế toàn cầu luôn tồn tại những biến động
bất thường. Vậy làm thế nào để đưa ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam phát triển hơn nữa?
Đâu là những thuận lợi và khó khăn chính mà các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang
mắc phải? Và liệu có những giải pháp gì cho những vấn đề này?
Xuất phát từ những câu hỏi trên, em muốn tìm hiểu kĩ hơn, đi sâu nghiên cứu về ngành
xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên đã chọn đề tài “ Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt
Nam sang các thị trường chính trong những năm gần đây”.
Trong quá trình tìm hiểu chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, vì thế
em mong nhận được những ý kiến nhận xét của thầy cô để có thể hoàn thiện nội dung nghiên
cứu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 2
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
1.1Khái niệm về hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá và dịch vụ
được bán, cung cấp cho nước ngoài mà phương tiện thanh toán là những đồng tiền chung
hoặc những đồng tiền mạnh trên thế giới. Hoạt đông xuất khẩu hàng hoá chính là sự phản
ánh các mối quan hệ giữa các quốc gia và sự phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá
sản xuất quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá
cũng cho chúng ta thấy rõ được sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia
trên thế giới.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất
khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ
kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Hoạt động này diễn ra trong
phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một ngày hay kéo
dài hàng năm; có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức
cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Có
nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật.. hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện các hình
thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được lựa chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít hơn, rủi ro
thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.
1.2Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân:
Với khái niệm được nhắc đến ở trên cho thấy, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối
ngoại cơ bản, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng trong
sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 3
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Với xu hướng tự do thương mại toàn cầu ngày càng phát triển, ngoại tệ có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là các ngoại tệ mạnh có khả năng thanh toán
cao . Nhất là đối với các nước đang phát triển, các quốc gia này thường xuyên nhập khẩu
máy móc thiết bị, công nghệ của các nước tiên tiến để tiến hành hoạt động sản xuất làm tiêu
hao lượng ngoại tệ lớn. Để bù đắp cho lượng ngoại tệ này có rất nhiều con đường như: thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ nước ngoài, thu từ lượng kiều hối từ nước ngoài chuyển
về, nhưng con đường cơ bản và quan trọng nhất là xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ.
1.2.2 Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khầu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Xuất khẩu không chỉ tác động
làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất , kinh doanh
ở những ngành liên quan khác. X uất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ , giúp
cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển vì có nhiều thị trường nên phân tán rủi ro do cạnh
tranh . Bên cạnh đó, xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua cạnh tranh trong xuất khẩu ,buộc
các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất ,tìm ra những cách thức kinh doanh sao
cho có hiệu quả ,giảm chi phí và tăng năng suất .
1.2.3 Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân.
Xuất khẩu làm tăng GDP,làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân,từ đó có tác động làm
tăng tiêu dùng nội địa->nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng . Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo
thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế ,nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất
khẩu , xuất khẩu làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu -> nhân tố
kích thích nền kinh tế tăng trưởng .
1.2.4 Xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong quá trình hội nhập hàng hóa các nước gặp phải quá trình cạnh tranh ngày càng
khốc liệt với các rào cản thương mại, quy định pháp luật, sức mạnh của đối thủ cạnh tranh và
sự co giãn của cung cầu thị trường. Vì thế, muốn tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp
không ngừng cải tiến công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao chất
luợng sản phẩm của mình , tạo lợi thế cạnh tranh so với hàng hóa của nước khác.
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 4
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
1.3Các hình thức giao dịch trong hoạt động xuất khẩu:
1.3.1 Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản
xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm
đó ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Ưu điểm:
Thông qua xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao hơn do
giảm được các chi phí trung gian, việc xuất khẩu diễn ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả
cao hơn. Hơn thế các doanh nghiệp còn có thể khắc phục được những thiếu sót và có điều
kiện để chủ động thâm nhập vào thị trường thế giới.
Nhược điểm:
Để tham gia hình thức xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp, giao tiếp tốt, được đào tạo một cách cơ bản, nắm vững và tinh thông những
nghiệp vụ về thị trường ngoại thương, tâm huyết với nghề và có kinh nghiệm.
1.3.2 Gia công ủy thác:
Đây là hình thức xuất khẩu diễn ra giữa một doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu một
loại hàng hoá nào đó nhưng không có điều kiện tham gia quan hệ xuất khẩu trực tiếp, mà họ
phải tiến hành hoạt động uỷ thác cho một tổ chức trung gian có khả năng tham gia xuất
khẩu trực tiếp hàng hoá đó để tiến hành giao dịch mua bán với bên tham gia nhập khẩu. Tổ
chức trung gian nhận uỷ thác sẽ tiến hành xuất khẩu hàng hoá với danh nghĩa của mình
nhưng moị chi phí đều do bên uỷ thác thanh toán và họ còn nhận được một khoản tiền gọi là
phí uỷ thác.
Ưu điểm:
Xuất khẩu hàng hoá thông qua hình thức này các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
không phải tổ chức một bộ máy phục vụ cho công tác xuất khẩu nên giảm được chi phí,
đồng thời cũng giúp doanh nghiệp giảm được những rủi ro lớn trong kinh doanh xuất nhập
khẩu. Hình thức xuất khẩu này rất phù hợp với những doanh nghiệp đang gia nhập thị trường
mới hay đang tung ra những sản phẩm mới có tính chất thử nghiệm.
Nhược điểm:
Hình thức xuất khẩu này cũng có một số bất lợi như: làm cho danh nghiệp bị mất quan
hệ trực tiếp với thị trường, bị phụ thuộc vào trung gian, bị tách rời với thị trường nên hệ
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 5
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
thống thông tin phản hồi từ khách hàng và thị trường thường không chính xác và kịp thời,
ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu còn bị mất một khoản phí uỷ thác.
1.3.3 Giao dịch đối lưu:
Giao dịch đối lưu là hình thức trao đổi hàng hóa mà việc mua làm tiền đề và điều kiện
cho việc bán và ngược lại. Hiện nay loại này chiếm khoảng 55% buôn bán quôc tế. Trong
hình thức xuất khẩu này, mục đích hoạt động là giá trị sử dụng, không phải là giá trị, không
phải là kiếm lời.
Ưu điểm:
- Khắc phục được các trở ngại, hạn chế buôn bán của các nước và tình trạng khan
hiếm ngoại tệ.
- Khắc phục hàng rào cản trở của các nước như sự điều chỉnh về xuất nhập khẩu các
mặt hàng, quota hết hạn ngạch.
Nhược điểm:
Các bên tham gia hình thức này phải xác định được hàng hóa có giá trị với mỗi bên,
yêu cầu sự cân bằng về giá cả, điều kiện giao hàng v.vv nên kém linh hoạt.
1.3.4 Gia công quốc tế:
Gia công quốc tế là hoạt động nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm hoặc linh kiện
phụ tùng về nước mình để chế biến, cải tiến hoặc lắp ráp chúng thành thành phẩm và lại
giao hoặc bán ra nước ngoài nhằm thu về một số thù lao gọi là phí gia công. Gia công quốc
tế còn được gọi là hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ.
Ưu điểm:
- Thị trường tiêu thụ đã có bên đặt gia công lo, các doanh nghiệp nhận gia công
không phải bỏ chi phí cho hoạt động bán sản phẩm xuất khẩu.
- Vốn đầu tư cho sản xuất thấp.
- Giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động.
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 6
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
- Học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tạo mẫu mã bao bì.
Nhược điểm:
- Tính bị động cao vì toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công phụ thuộc
vào bên phía đặt gia công: về thị trường, giá bán sản phẩm, giá đặt gia công, nguyên
vật liệu, mẫu mã, nhãn hiệu sản phẩm,…
- Nhiều trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để bán máy
móc. Khi không còn gia công nữa máy móc trở thành nguồn lãng phí. Hoặc bên đặt
gia công đưa máy móc thiết bị cũ, lạc hậu về công nghệ sang dẫn tới công nhân làm
việc nặng nhọc, môi trượng bị ô nhiễm.
- Do nặng lực tiếp cận kém, nhiều doanh nghiệp bị bên đặt gia công lợi dụng đặt
quota phân bổ để đưa hàng vào thị truờng ưu đãi. Có những trường hợp bên phía
nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để đưa các nhãn hiệu hàng hóa chưa đăng ý
hoặc nhãn hiệu giả vào nước nhận gia công.
1.3.5 Giao dịch tái xuất:
Theo hình thức này, các hàng hoá xuất khẩu không được sản xuất ở trong nước mà do
các doanh nghiệp nhập khẩu vào rồi đem xuất khẩu sang nước khác mà chưa thông qua chế
biến để hưởng chênh lệch giá.
Ưu điểm:
Tham gia hình thức xuất khẩu này sẽ giúp các doanh nghiệp vẫn đáp ứng được các đơn
hàng xuất khẩu mà không phải thay đổi công nghệ sản xuất nên tiết kiệm được chi phí.
Nhựoc điểm:
Để tham gia hình thức xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cô cùng nhạy bén
và nắm vững các kiến thức về thị trường.
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 7
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
CHƯƠNG II: Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị
trường chính trong 3 năm gần đây 2009-2011.
2.1 Đặc điểm mặt hàng thủy sản
Thực phẩm thuỷ sản chiếm 90% sản lượng thuỷ sản khai thác và nuôi trồng như cá,
tôm, cua, mực, các loài thân mềm, vv, có hàm lượng protein cao (khoảng 17 - 22%), với
thành phần hầu như đầy đủ các axit amin cần thiết và các chất dinh dưỡng khác như lipit,
muối khoáng, vitamin cần cho cơ thể. Tuỳ theo hàm lượng mỡ trong thịt, cá được chia thành
3 nhóm: ít mỡ (dưới 2%), béo vừa (2 - 5%) và nhiều mỡ (trên 5%).
Đặc điểm nổi bật của thuỷ sản tươi sống là chóng ươn do tác dụng của các men nội
quan và vi sinh vật. Do vậy, ngay sau khi tách chúng khỏi môi trường nước, cần tiến hành
các biện pháp bảo quản và chế biến (ướp đông, ướp muối, làm khô, hun khói, vv.). Những
dạng sản phẩm thủy sản chủ yếu được dùng làm thực phẩm hiện nay: thuỷ sản tươi (giữ sống
hoặc làm lạnh) chiếm khoảng 30%; thuỷ sản đông - khoảng 30%; thuỷ sản khô (kể cả hun
khói, ướp muối, vv.) - khoảng 20%; đồ hộp thuỷ sản và thức ăn chín khoảng 20%. Gan và
mỡ của nhiều loại cá và thú biển được dùng chế dầu cá (trong đó có dầu gan cá) là loại sản
phẩm có giá trị y dược lớn. Các loài cá tạp kém giá trị kinh tế, các phế thải trong quá trình
chế biến được dùng để sản xuất bột cá, keo cá, guanin, vv. Gần đây, nhiều sản phẩm cao cấp
được chế biến từ thịt cá (nhất là các loài cá kém giá trị kinh tế) và thịt moi theo các công
nghệ hiện đại (surimi, thịt cá xay, dịch đạm cá, xêlos cá, vv.), được phát triển. Ngoài cá,
nhiều loại thuỷ sản khác (tôm, mực, hàu, vẹm, ốc, trai, cua, điệp, vv.) cũng được chế biến
thành những sản phẩm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao: tôm tươi, tôm đông lạnh, mực đông
lạnh, mực khô, cồi điệp, cước cá, bóng cá, vv.
Sản phẩm thủy hải sản dễ bị thối, hỏng nên cần được bảo quản trước khi đem bán trên
thị trường. Khoảng 1/2 sản lượng cá dùng làm thức ăn trên thế giới được bán dưới dạng tươi
sống (Vannuccini 2003). Tuy nhiên, những sản phẩm đem bán cho người tiêu dùng dưới
dạng tươi hoặc đông lạnh có thể đã được ướp lạnh trước rồi sau đó rã đông theo các qui định
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 8
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
pháp luật liên quan. Một số loài như hào, trai, cua và tôm hùm có thể bán dưới dạng tươi
sống (và cũng có thể dưới dạng ướp lạnh). Những hình thức chế biến phục vụ kinh doanh
chủ yếu tiếp theo là dạng đông lạnh, đóng hộp và bảo quản qua chế bản (bằng cách ướp
muối, hun khói và phơi khô). Đông lạnh và đóng hộp là những hình thức bảo quản phổ biến
nhất. Tuy nhiên, một số nước đang phát triển cố gắng cung cấp cá tươi sống bằng cách
chuyên chở bằng đường hàng không.
2.2 Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường chính trong 3 năm
gần đây 2009-2011:
2.2.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường chính trong giai đoạn
2009-2011:
2.2.1.1 Ba quý đầu năm 2011:
a. Xét về thị trường
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản của Việt Nam đến
nửa đầu tháng 9 năm 2011 đạt 4 tỷ USD, tăng 25,6% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó
tính riêng nửa đầu tháng 9 kim ngạch đạt 264,413 triệu USD (tăng 20,7% so với cùng kì năm
ngoái).
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính ba quý đầu
năm 2011 (GT: giá trị, triệu USD)
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 9
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
THỊ TRƯỜNG
Nửa đầu tháng
9/2011 (GT)
So với cùng kỳ
2010 (%)
Từ 1/1 đến
15/9/2011 (GT)
So với cùng kỳ
2010 (%)
EU
55,576
+19,3
920,453
+20,0
Đức
7,412
-31,2
167,071
+26,0
Italia
7,887
+52,1
125,685
+39,5
Hà Lan
6,172
+4,7
(Nguồn
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 10
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Từ lâu, tôm và cá tra được xem là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Đối với mặt hàng tôm trong giai đoạn này cũng có những chuyển biến tích cực. Trong
năm 2011, tính đến thời điểm ngày 15/09/2011, tổng lượng tôm xuất khẩu đạt 1564,212 tấn,
tăng 21,7% so với cùng kì năm ngoái; trong đó tôm chân trắng chiếm 438,553 tấn, tăng 68,9
% so với cùng kì, tôm sú chiếm 954,428 tấn, tăng 10,6 % so với cùng kì năm ngoái. Điều
này có thể được lí giải do năm nay hiện tượng tôm chết hàng loạt diễn ra, người dân đang
hạn chế dần hoạt động nuôi thả tôm, dẫn tới tình trạng thiếu nguyên liệu cho chế biến và
xuất khẩu. Bên cạnh đó, dịch bệnh đã bùng phát trên tôm sú và đẩy nhiều nông dân chuyển
sang nuôi thả tôm thẻ chân trắng thay thế. Với việc tôm thẻ chân trắng được đưa vào nuôi
thả, tình trạng thiếu nguyên liệu có thể được giải quyết phần nào do nguồn tôm thẻ giống dồi
dào, sức chống chịu bệnh tốt và sản lượng cao.Chính vì vậy mà trong cơ cấu sản phẩm thủy
sản của Việt Nam, khối lượng của tôm chân trắng tăng mạnh so với cùng kì năm ngoái trong
khi tôm sú chỉ tăng với mức 10,6% so với cùng kì.Giá xuất khẩu cao, nhu cầu thế giới vững
và mùa vụ tôm thất bát tại một số nước sản xuất chính và việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC)
đầu tháng 9 công bố kết quả thuế chống bán phá giá (CBPG) mà các doanh nghiệp tôm Việt
Nam phải chịu trong đợt xem xét hành chính lần thứ 5 (POR 5 giai đoạn 1-2-2009 đến
31-1-2010) thấp hơn nhiều so với kết quả của POR 4 là những nhân tố thuận lợi giúp thúc
đẩy kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc xuất khẩu tôm của Việt Nam cũng gặp không ít
khó khăn do nguồn tôm sú luôn khan hiếm và đặc biệt sự kiện cuối năm 2010, Bộ Y tế lao
động và phúc lợi Nhật Bản đã cảnh báo về việc tôm Việt Nam xuất sang nước này có dư
lượng trifluralin và nâng mức kiểm soát hóa chất này từ 0% lên 30% (ba lô kiểm tra một lô).
Ngay sau đó, cơ quan chức năng Nhật phát hiện thêm các lô hàng tôm Việt Nam nhiễm
trifluralin quá mức cho phép. Đây là một ví dụ điển hình về tình trạng tôm Việt Nam, một
mặt hàng được yêu thích tại thị trường Nhật Bản bị đưa vào “tầm ngắm” bởi liên tục vi
phạm các quy định an toàn vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản. Theo quy định của Nhật, kể từ
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 11
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
lô thứ hai phát hiện chứa trifluralin sẽ nâng mức kiểm soát lên 100%. Theo số liệu từ Bộ Y
tế, Lao động và An sinh xã hội Nhật Bản, từ đầu năm đến ngày 13/9/2011 đã có 81 lô hàng
thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản bị cảnh báo nhiễm dư lượng
kháng sinh vượt quá mức cho phép, trong đó nhiều nhất là các lô hàng tôm. Điều này làm
cho tôm Việt Nam đang mất vị thế cạnh tranh so với Thái Lan, Indonesia tại thị trường Nhật.
Đối với sản phẩm cá tra và cá ngừ cũng có khối lượng xuất khẩu lớn trong giai đoạn
này. Tính từ đầu năm 2011 đến ngày 15/9/2011, măt hàng cá tra xuất khẩu được 1228,365
tấn, tăng 29,4% so với cùng kì, cá ngừ tăng 31,3% so với cùng kì đưa tổng khối lượng xuất
khẩu cá ngừ lên đến 273,390 tấn. Bên cạnh đó, một số mặt hàng khác của Việt Nam cũng
tăng mạnh như mực và bạch tuột.
2.2.1.2 Giai đoạn năm 2009-2010:
a. Xét về mặt thị trường:
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 2008-2010 (Khối lượng: 1000
tấn, Giá trị: triệu USD)
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 12
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
(Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Nhìn vào biểu đồ, ta thấy hầu hết giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng dần theo
từng năm, đặc biệt là vào những tháng cuối năm- mùa cao điểm, và giá trị xuất khẩu thủy
sản ít biến động vào thời gian hè.
Minh họa cho lập luận này bằng số liệu năm 2010 cho thấy, xuất khẩu thủy sản năm
2010 đạt 5,03 tỷ USD, từ tháng 1 cho đến tháng 2 năm 2010 xuất khẩu thủy sản giảm từ 300
triệu USD xuống còn trên 200 triệu USD, đến tháng 3 cho đến tháng 10 năm 2010 xuất khẩu
thủy sản liên tục tăng qua các tháng từ đạt ngần 400 triệu USD vào tháng 3/2010 tăng lên
khoảng 500 triệu USD vào tháng 10, đến cuối tháng 11 lại có chiều hướng giảm chút ít còn
dưới 500 triệu USD, đặc biệt có sự bứt phá ngoạn mục ở tháng 12 đạt gần 700 triệu USD. Rõ
ràng chúng ta thấy nhu cầu tiêu dùng thủy sản thế giới dịp cuối năm và chuẩn bị đón Noel là
rất lớn. Trong năm 2010, có thể thấy rằng giá trị xuất khẩu thủy sản chính ngạch của cả nước
tháng 12 năm 2010 đạt 513,6 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Cả năm 2010
đạt 5 tỷ USD (gồm cả lũy kế), tăng 18,4%.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường và các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản chính Việt Nam năm
2009.
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 13
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu thị trường và các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam
năm 2010
( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Qua so sánh hai biểu đồ trên nhận thấy rằng, EU, Mỹ và Nhật Bản vẫn là ba thị trường
xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam. Tuy nhiên, vị trí trọng yếu của ba quốc gia này đã
thay đổi từ năm 2009 sang 2010. Năm 2009, EU là thị trường dẫn đầu của xuất khẩu thủy
sản Việt Nam chiếm 25,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, vị trí này được duy trì đến năm 2010
nhưng chỉ còn 23,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp thêo là Nhật Bản chiếm 17,8%,
Mỹ 16,8% vào năm 2009 nhưng qua đến năm 2010 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
156,998 triệu USD đã đưa Mỹ lên vị trí thứ hai chiếm 19,3% vượt lên Nhật Bản giảm còn
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 14
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
17,8% trong tổng cơ cấu thị trường chính của Việt Nam. Một trong những nguyên nhân của
sự sụt giảm vị trí của Nhật Bản đó là do lạm phát và việc đồng Yên Nhật mất giá làm chênh
lệch chi phí xuất khẩu của các doanh nghiệp.Số liệu cụ thể hơn được dẫn chứng từ bảng
thống kê thương mại sau.
Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường và các nhóm hàng xuất khẩu thuỷ sản chính:
(KL: khối lượng, tấn; GT: giá trị, triệu USD)
THỊ
TRƯỜNG
Năm 2010
So với cùng kỳ
2009 (%)
KL GT ↑↓KL ↑↓GT
EU 364.015 1181,401 4,0 9,6
Đức 57.035 209,975 -7,1 -1,0
Tây Ban Nha 68.838 167,664 9,5 8,6
Italia 42.100 135,386 10,8 19,8
Hà Lan 39.835 131,608 12,4 12,8
Pháp 28.212 121,902 59,6 68,3
Mỹ 156.998 971,561 30,5 45,3
Nhật Bản 135.136 896,980 19,6 19,1
Hàn Quốc 112.139 386,190 13,0 28,3
TQ và HK 62.212 247,252 9,2 22,2
Hồng Kông 26.903 86,142 5,6 8,7
ASEAN 96.317 215,650 8,0 14,1
Ôxtrâylia 28.612 151,899 8,3 16,2
Canađa 22.878 117,042 9,4 8,3
Nga 40.800 89,682 -17,4 2,2
Mêhicô 39.875 88,755 26,6 20,5
Các TT khác 294.175 687,314 13,6 4,2
TỔNG
CỘNG
1.353.156 5033,726 11,3 18,4
( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Mặc dù nền kinh tế thế giới vẫn chưa thật sự thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế năm
2008 và EU dường như bị tác động rất nặng bởi cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp. Tuy
nhiên, trong năm 2010, EU là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với tổng
kim ngạch đạt 1181,401 triệu USD, tăng 9,6% so với năm 2009. Tiếp đến là Mỹ với khối
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 15
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011
lượng thủy sản xuất khẩu lên đến 156,998 tấn có giá trị 971,561 triệu USD, tăng 45,3% so
với năm ngoái đã đưa Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu trọng điểm thứ hai của Việt Nam.
Kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản cũng tăng nhẹ 19,1% so với năm 2009 với tổng giá trị
xuất khẩu đạt 896,980 triệu USD và một số thị trường khác như Hàn Quốc đạt 386,190 triệu
USD( tăng 28,3%), Trung Quốc và Hồng Kông 247,252 triệu USD( tăng 22,2%), v.v...so với
năm 2009. Điểm đáng chú ý trong năm 2010 là Đức dù vẫn đạt kim ngạch cao chiếm
209,975 triệu USD nhưng đã có dấu hiệu giảm nhẹ 1% so với năm 2009. Ngược lại, thị
trường xuất khẩu thủy sản cũng đã nhận dấu hiệu tích cực từ Pháp với giá trị xuất khẩu đạt
121,902 triệu USD, tăng 68,3% so với năm 2009.
b. Xét về mặt hàng xuất khẩu:
Năm 2009:
Bảng 2.4: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2009
Sản phẩm
Từ 1/1 – 31/12/2009
So với cùng
kỳ 2008 (%)
KL GT
Tôm đông lạnh 209.567 1675,142 +9,4 +3,0
Cá tra, basa 607.665 1342,917 -5,2 -7,6
Cá ngừ 55.814 180,906 +5,7 -4,1
Cá khác 132.758 347,524 +0,8 -16,1
Mực và bạch
tuộc đông lạnh
77.308 274,368 -10,8 -13,8
Hàng khô 42.855 160,261
+31,
2
+9,9
Hải sản khác 90.144 270,195 -10,0 -25,7
Tổng cộng 1.216.112 4251,313 -1,6 -5,7
( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam)
Năm nay, Việt Nam xuất khẩu 85 loại sản phẩm thủy sản sang 163 thị trường. Số lượng
sản phẩm và thị trường xuất khẩu đều tăng so với năm 2008, nhờ sự linh hoạt đa dạng hóa
sản phẩm và thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong đó, tôm đông lạnh là mặt
hàng chiếm tỉ trọng cao nhất (39,4%), cá tra 31,6%, mực, bạch tuộc 6,45%, cá ngừ 4,26%,
hàng khô 3,77%, cá biển và các loại hải sản khác chiếm 14,5%.
GVHD: Phùng Nam Phương Trang 16