Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

ĐỀ CƯƠNG THANH TRA ĐẤT ĐAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.9 KB, 32 trang )

1

THANH TRA ĐẤT ĐAI
Câu 1: nêu các khái niệm: thanh tra Nhà nước; thanh tra hành chính; thanh tra
chuyên ngành; thanh tra nhân dân. Phân biệt sự khác nhau giữa các khái + niệm
-Thanh tra nha nuoc la hoat dong xem xet danh gia, xu ly theo trinh tu thu tuc do phap luat
quy dinh cua co quan nha nuoc co tham quyen doi voi viec thuc hien chinh sach, phap
luat,nhiem vu, quyen han cua co quan, tc, cn
Thanh tra nn: tt hanh chinh, tt chuyen nganh
thanh tra hc la hd thanh cua co quan nha nuoc co tham quyen doi voi co quan, tc .cn trong
viec thuc hien chinh sach, nhiệm vụ , quyen han, pluat duoc giao
Thanh tra cn : la hoat dong cua co quan nha nuoc co tham quyen theo nganh , linh vuc doi
coi cq,tc.cn trong viec chap hanh pluat chuyen nganh , quy dinh ve chuyen mon ky thuat ,
quy tac nganh linh vuc do
TTND La hinh thuc dam sat nhan dan thong qua ban TTND doi voi viec thuc hien chinh
sach , pluat , giai quyet khieu nai , to cao. Viec thuc hien quy che dan chu tren co so cua co
quan ,tc,cn co trach nhiem o xa . p. t tran
Câu 3 Nguyên tắc hoạt động của thanh tra nhà nước
1.Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật
Nhấn mạnh đén tính pháp chế của hoạt động thanh tra
Nguyên tắc này đặt ra 2 yêu cầu căn bản
_Không thanh tra trái thẩm quyền nội dung được giao
_Không 1 cơ quan tổ chức cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh
tra , lợi dụng quyền hạn của mình để tác động đến người làm công tác thanh tra , nếu làm
trái sẽ bị sử lý theo quy định của pháp luật
2. Đảm bảo tính chính xác , khách quan trung thực , công khai dân chủ , kịp thời
_Chính xác hdtt tiến hành trên cơ sở có căn cứ rõ rang, công tác thanh tra tiến hành theo
quy định
_Khách quan trung thực : công tác thanh tra phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính
nhà nước không phải là phán đoán nhất thời hời hợt áp đặt
_Công khai dân chủ : nội dung hoạt động thanh tra phải công bố công khai rộng rãi cho đối


tượng liên quan trong thời hạn sớm nhất có thể , Cơ quan thanh tra phải thu hút được sự
cộng tác của người dân vào hoạt động thanh tra, phát huy tính dân chủ
_Kịp thời :là yêu cầu mang tính đặc thù, ngăn chặn hành vi trái pháp luật , bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà nước , tập thể và các cá nhân trong xã hội
3.Không trùng lặp về phạm vi đối tượng , nội dung , thời gian thanh tra giữa các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra
Tình trạng này làm lãng phí thời gian, nhân lực của lực lượng thanh tra.

1


2

Câu 2: Cơ cấu tổ chức, chức năng của tổ chức Thanh tra hành chính Nhà nước, thanh tra
chuyên ngành
a) Tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước
a1. Thanh tra Chính phủ
Như vậy, Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu của Thanh tra Chính phủ có Tổng Thanh tra Chính phủ, các Phó Tổng Thanh
tra Chính phủ, Thanh tra viên và cán bộ, công chức viên chức. Tổng Thanh tra Chính phủ
là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu ngành thanh tra. Tổng Thanh tra Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Phó Tổng Thanh tra Chính phủ giúp Tổng
Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Tổng Thanh tra Chính phủ.
a2. Thanh tra bộ
Thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra hành

chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tiến hành thanh tra
chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành,
lĩnh vực của Bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật.
Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh
tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh
tra Chính phủ.
Phó Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của Chánh Thanh tra bộ. Phó Chánh Thanh tra bộ giúp Chánh Thanh tra bộ thực hiện
nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ; giúp Chánh Thanh tra bộ phụ trách
một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh
Thanh tra bộ về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ có các phòng nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ được
giao. Thanh tra bộ có con dấu và tài khoản riêng.
Về mặt hoạt động, Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ
đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
2


3

a3. Thanh tra tỉnh
Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm
giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra tỉnh có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh
Thanh tra tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ, Phó Chánh Thanh tra tỉnh do Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh

tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra tỉnh giúp Chánh Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Chánh Thanh tra tỉnh; giúp Chánh Thanh tra tỉnh phụ trách một hoặc một số
lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chánh Thanh tra tỉnh về việc
thực hiện nhiệm vụ được giao.
Cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh có các phòng nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ
được giao. Thanh tra tỉnh có con dấu và tài khoản riêng.
Về mặt hoạt động, Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của
Thanh tra Chính phủ.
a4. Thanh tra sở
Thanh tra sở là cơ quan của Sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy
định của pháp luật. Thanh tra sở được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.
Thanh tra sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh
Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với
Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra sở. Phó Chánh Thanh tra sở giúp Chánh
Thanh tra sở thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra sở; giúp Chánh
Thanh tra sở phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp
luật, trước Chánh Thanh tra sở trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra sở có
con dấu và tài khoản riêng.
Về mặt hoạt động, Thanh tra sở chịu sự chỉ đạo, điều hành của Giám đốc sở; chịu sự
chỉ đạo về công tác thanh tra và hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh
tra tỉnh, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra bộ.
3


4


a5. Thanh tra huyện
Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, có
trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh
Thanh tra huyện do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh
tra huyện. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện và chịu trách nhiệm trước phát luật, trước
Chánh Thanh tra huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra huyện có con
dấu và tài khoản riêng.
Về mặt hoạt động, Thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của
Thanh tra tỉnh.
a) Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
a1. Tổng cục và tương đương, Cục thuộc bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành
+ Bộ Công thương: Cục Quản lý thị trường, Cục Hóa chất, Cục Kỹ thuật an toàn và
Môi trường công nghiệp.
+ Bộ Giao thông vận tải: Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đường sắt Việt Nam,
Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tổng cục Thống kê.
+ Bộ Khoa học và Công nghệ: Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục An
toàn bức xạ và Hạt nhân.
+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Tổng cục Dạy nghề, Cục Quản lý Lao động
ngoài nước.
+ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tổng cục Thủy lợi; Tổng cục Lâm nghiệp;
Tổng cục Thủy sản; Cục Thú y; Cục Bảo vệ thực vật; Cục Trồng trọt; Cục Chăn nuôi; Cục

Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản; Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn;
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối.
+ Bộ Ngoại giao: Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.
+ Bộ Nội vụ: Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ.
4


5

+ Bộ Tài nguyên và Môi trường: Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Tổng cục Môi
trường, Tổng cục Quản lý đất đai.
+ Bộ Tài chính: Tổng cục Thuế; Tổng cục Hải quan; Kho bạc Nhà nước; Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước; Tổng cục Dự trữ Nhà nước; Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm.
+ Bộ Thông tin và Truyền thông: Cục Tần số vô tuyến điện; Cục Viễn thông; Cục Quản
lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử; Cục Báo chí; Cục Xuất bản.
+ Bộ Y tế: Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; Cục Quản lý dược; Cục Quản lý
khám, chữa bệnh; Cục Quản lý môi trường y tế; Cục Y tế dự phòng; Cục An toàn vệ sinh
thực phẩm.
a2. Cục thuộc tổng cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành
+ Cục Dự trữ Nhà nước khu vực.
+ Cục Hải quan.
+ Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+ Cục Thuế.
+ Cục Thống kê.
a3. Chi cục thuộc sở, Chi cục thuộc cục và tương đương được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành
+ Cảng vụ Hàng không, Cảng vụ Hàng hải, Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Cục
Đường thủy nội địa Việt Nam.
+ Chi cục Thuế.

+ Trung tâm Tần số khu vực.
+ Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương.
+ Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc
Sở Y tế.
+ Chi cục về bảo vệ thực vật, thú y, thủy sản, quản lý chất lượng nông lâm sản và
thủy sản, thủy lợi, đê điều, lâm nghiệp, phát triển nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
Câu 3: giải thích các nguyên tắc hoạt động của thanh tra Nhà nước
b1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra
Phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - một nguyên tắc cơ bản của quản
lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra đòi hỏi tuân thủ nguyên tắc tuân theo pháp
luật. Nguyên tắc này đặt ra hai yêu cầu căn bản dưới đây:
5


6

- Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được thực hiện trên cơ
sở những quy định của pháp luật hiện hành về Thanh tra.
- Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt
động thanh tra. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, cơ quan thanh tra được
quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc can
thiệp không có căn cứ pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy
theo mức độ nặng, nhẹ sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật.
Những đòi hỏi nêu trên có nội dung rất rộng, theo đó, từ chương trình, kế hoạch hoạt
động của các tổ chức thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử Đoàn Thanh tra, Thanh
tra viên...đến việc kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật hiện hành.
b2. Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, dân chủ, công khai, kịp thời trong
hoạt động thanh tra


6


7

Thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, đảm bảo cho chính
sách, pháp luật, kế hoạch được tôn trọng thực hiện. Mỗi kết luận, kiến nghị hay quyết định
trong hoạt động thanh tra đều rất quan trọng bởi nó phải làm rõ tính đúng sai, nêu rõ tình
hình, tính chất, hậu quả của sự việc, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nếu họ sai
phạm và yêu cầu các đối tượng này có những biện pháp tích cực loại trừ những sai phạm
đó. Vì vậy, tính chính xác phải được coi là một nguyên tắc của hoạt động thanh tra. Bản
thân nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo ra cơ sở quan trọng để
đảm bảo cho nguyên tắc chính xác. Điều này có nghĩa là hoạt động thanh tra phải được tiến
hành trên cơ sở có đầy đủ những căn cứ rõ ràng đã được quy định trong pháp luật; việc
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác hoàn toàn phải
phù hợp với quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra đòi hỏi, mọi công việc tiến hành
trong hoạt động này phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Mọi quyết
định, kết luận hay kiến nghị trong hoạt động thanh tra đều phải xuất phát từ thực tiễn
khách quan đó chứ không phải là kết quả của việc suy diễn chủ quan, hời hợt hay mang
tính áp đặt. Muốn khách quan trong hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra phải có trình
độ hiểu biết về chính trị, pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để có thể độc lập,
khách quan trong suy nghĩ và hành động của mình.
Công khai, dân chủ là bản chất chế độ xã hội của chúng ta và nó cũng đã trở thành
một nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Các quy định pháp luật về cơ cấu, tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thanh tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của
nguyên tắc công khai, dân chủ. Nguyên tắc công khai, dân chủ đòi hỏi:
- Nội dung các công việc của hoạt động thanh tra phải được thông báo một cách đầy

đủ và rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan biết;
- Cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tích
cực tham gia vào hoạt động thanh tra, đảm bảo phát huy mạnh mẽ tính dân chủ của hoạt
động này;
- Các kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra trong hoạt động thanh tra được
thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết.
Kịp thời là một yêu cầu mang tính đặc thù trong phương pháp hoạt động của thanh
tra. Yêu cầu này nhằm đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những việc làm vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và các cá nhân trong
xã hội. Nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra đòi hỏi:
7


8

- Khi có đầy đủ cơ sở tiến hành thanh tra, tổ chức thanh tra có thẩm quyền phải nhanh
chóng tiến hành hoạt động thanh tra theo đúng quy định của pháp luật;
- Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra đều phải thực hiện trong thời
hạn được pháp luật quy định.
b3. Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra
Theo nguyên tắc này: Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cần nghiên cứu, xem
xét kỹ các căn cứ và những điều kiện khác có liên quan trước khi ra quyết định thanh tra và
thành lập Đoàn Thanh tra để tránh trùng lặp, cố gắng tránh hiện tượng có thể xảy ra là 1
năm liên tiếp có nhiều Đoàn kiểm tra, thanh tra đến 1cơ quan, đơn vị, nhất là thanh tra,
kiểm tra về cùng 1 nội dung. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, Trưởng đoàn và các thành
viên Đoàn Thanh tra cần thực hiện đúng kế hoạch thanh tra, đúng quyền hạn, trình tự thủ tục và
đúng thời gian, thời hiệu thanh tra.
Thực hiện hoạt động thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỷ luật

nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật
trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động
thanh tra nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động
thanh tra, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này, cơ quan thanh tra
phải đảm bảo không cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và
cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy, thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố và
tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra có ý nghĩa thực
tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện tình trạng một bộ phận cán bộ thanh
tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện nhưng hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Nguyên tắc này cũng lấy nguyên tắc tuân theo pháp luật làm cơ sở để đảm bảo thực
hiện. Luật Thanh tra đã quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình tổ chức
thực hiện hoạt động thanh tra, trong đó có những hành vi bị cấm nhằm đảm bảo thực hiện
nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Khoản 1, Điều 13
Luật Thanh tra cấm “ lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp
luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra”.
8


9

1. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu,
gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra.
2. Thanh tra không đúng thẩm quyền, phạm vi, nội dung thanh tra được giao.
3. Cố ý không ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; kết luận
sai sự thật; quyết định, xử lý trái pháp luật; bao che cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành
vi vi phạm pháp luật.
4. Tiết lộ thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra trong quá trình thanh tra khi chưa có kết

luận chính thức.
5. Cung cấp thông tin, tài liệu không chính xác, thiếu trung thực; chiếm đoạt, tiêu hủy tài
liệu, vật chứng liên quan đến nội dung thanh tra.
6. Chống đối, cản trở, mua chuộc, đe dọa, trả thù, trù dập người làm nhiệm vụ thanh tra,
người cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan thanh tra nhà nước; gây khó khăn cho hoạt
động thanh tra.
7. Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra, lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động
đến người làm nhiệm vụ thanh tra.
8. Đưa, nhận, môi giới hối lộ.
9. Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.
Câu 4: Các quy định về Ban thanh tra Nhân dân ở xã, phường, thị trấn; Ban thanh tra nhân
dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp
Điều 68. Tổ chức Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn
1. Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn do Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị đại
biểu nhân dân tại thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố bầu.
Căn cứ vào địa bàn và số lượng dân cư, mỗi Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn
có từ 05 đến 11 thành viên.
Thành viên Ban thanh tra nhân dân không phải là người đương nhiệm trong Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Nhiệm kỳ của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn là 02 năm.
2. Trong nhiệm kỳ, thành viên Ban thanh tra nhân dân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc
không còn được nhân dân tín nhiệm thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị
trấn đề nghị Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân đã bầu ra thành viên đó
bãi nhiệm và bầu người khác thay thế.
Thông thường Ban thanh tra nhân dân cấp xã được thành lập theo thể thức bầu trực tiếp từ
thôn ấp, bản, cụm dân cư. Các thành viên Ban thanh tra nhân dân do UBMTTQ cơ sở giới
9


10


thiệu. Việc bầu Ban thanh tra nhân dân được tổ chức tại hội nghị nhân dân hoặc hội nghị
đại biểu nhân dân tại xóm, ấp, bản cụm dân cư theo hình thức bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết
bằng giơ tay do hội đồng đó quyết định. Để tạo điều kiện thuân lợi cho hoạt động thanh tra
nhân dân và thanh thử sự chỉ đạo của MTTQ thì nên cơ cấu 1 ủy viên của MTTQ cấp xã có
tín nhiệm, có năng lực làm trưởng ban thanh tra nhân dân.
Điều 72. Tổ chức Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp nhà nước
1. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp
nhà nước do Hội nghị công nhân, viên chức hoặc Hội nghị đại biểu công nhân, viên chức
bầu.
Ban thanh tra nhân dân có từ 03 đến 09 thành viên là người lao động hoặc đang công tác
trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước.
Nhiệm kỳ của Ban thanh tra nhân dân là 02 năm.
2. Trong nhiệm kỳ, nếu thành viên Ban thanh tra nhân dân không hoàn thành nhiệm vụ
hoặc không còn được tín nhiệm thì Ban chấp hành Công đoàn cơ sở đề nghị Hội nghị công
nhân, viên chức hoặc Hội nghị đại biểu công nhân, viên chức bãi nhiệm và bầu người khác
thay thế.
Câu 5: Mục đích, yêu cầu của thanh tra các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai; mục
đích yêu cầu về thanh tra việc thực hiện pháp luật đất đai của người sử dụng đất
Mục đích, yêu cầu của thanh tra các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai (giáo trình trang
50)
Mục đích yêu cầu về thanh tra việc thực hiện pháp luật đất đai của người sử dụng đất (giáo
trình trang 71)
Câu 6: Nguyên tắc xử lý kỷ luật, đối tượng bị xử lý, hành vi vi phạm của người có thẩm
quyền trong các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. (đối tượng và các hành vi vi phạm
học trong vở)
Điều 6. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời; việc xử phạt vi
phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công khai; triệt để; mọi hậu quả do vi

phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của Nghị định này và quy định
của pháp luật có liên quan.
10


11

2. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền quy định tại các Điều 25,
26 và 27 của Nghị định này thực hiện.
3. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì từng người vi phạm đều bị xử
phạt.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm.
4. Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp
khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính đối với những hành
vi vi phạm hành chính có quy định hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu
quả được quy định trong Nghị định này trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của
Nghị định này.
5. Hình thức, mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả
của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của người có hành vi vi phạm hành chính, tình
tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được áp dụng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7
năm 2002 về việc xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi là Pháp lệnh số 44/2002/PLUBTVQH10).
6. Mức phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của mức xử phạt quy
định đối với hành vi đó; nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm
xuống mức thấp hơn, nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của mức xử phạt; nếu
hành vi vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên cao hơn, nhưng
không được vượt quá mức tối đa của mức xử phạt.

Các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người có thẩm quyền trong các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai
-

Vi phạm về hồ sơ và mốc địa giới hành chính
Vi phạm quy định về quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất
Vi phạm quy định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Vi phạm quy định về thu hồi đất
Vi phạm quy định về trưng dụng đất
Vi phạm quy định về được Nhà nước giao đất để quản lý
Vi phạm quy định về thực hiện trình tự thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất.

11


12

Câu 7: Các hành vi vi phạm PLDD của người sử dụng đất; nguyên tắc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai
Điều 8. Sử dụng đất không đúng mục đích
Điều 9. Lấn, chiếm đất
Điều 10. Huỷ hoại đất
Điều 11. Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác
Điều 12. Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử
dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện
đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai
Điều 13. Tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện
Điều 14. Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận chuyển quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai

Điều 15. Không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử
dụng đất, đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất,
không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất
Điều 16. Gây cản trở trong việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường,
giải phóng mặt bằng
Điều 17. Không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền
Điều 18. Tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc
chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính
Điều 19. Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất
Điều 20. Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai
Điều 21. Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh
tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai
Điều 22. Hành nghề tư vấn về giá đất mà không thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp
xác định giá đất theo quy định của pháp luật hoặckhông được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép
Điều 23. Hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà không đăng ký hoạt
động hành nghề
Điều 24. Cung cấp dữ liệu đất đai không đúng quy định của pháp luật
Điều 6. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
12


13

1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời; việc xử phạt vi
phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công khai; triệt để; mọi hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của Nghị định này và quy định
của pháp luật có liên quan.
2. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền quy định tại các Điều 25,

26 và 27 của Nghị định này thực hiện.
3. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì từng người vi phạm đều bị xử
phạt.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm.
4. Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp
khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính đối với những hành
vi vi phạm hành chính có quy định hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu
quả được quy định trong Nghị định này trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của
Nghị định này.
5. Hình thức, mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả
của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của người có hành vi vi phạm hành chính, tình
tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được áp dụng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7
năm 2002 về việc xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi là Pháp lệnh số 44/2002/PLUBTVQH10).
6. Mức phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của mức xử phạt quy
định đối với hành vi đó; nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm
xuống mức thấp hơn, nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của mức xử phạt; nếu
hành vi vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên cao hơn, nhưng
không được vượt quá mức tối đa của mức xử phạt.

Câu 8 : Khái niệm tranh chấp đất đai; giải quyết tranh chấp đất đai. Nguyên nhân xảy ra
tranh chấp đất đai
13


14


*Tranh chấp đất đai
Khái niệm tranh chấp đất đai theo luật đất đai 2003: là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Tranh chấp đất đai, hiểu theo nghĩa rộng là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc
xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực
tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Theo nghĩa hẹp, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
Trong thực tế, tranh chấp đất đai được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản lý, quyền sử
dụng xung quanh một khu đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình phải được quyền đó
do pháp luật quy định và bảo hộ. Vì vậy, họ không thể cùng nhau tự giải quyết các tranh
chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân xử (giải quyết)
*Giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai là xác định rõ về mặt pháp lý quyền chủ thể các bên
tham gia quan hệ pháp luật đất đai với mảnh đất đang tranh chấp.
-

Là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu
thuẫn trong nội bộ tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để tìm ra các giải pháp đứng đắn trên cơ
sở pháp luật nhằm phục hồi lại các quyền sử dụng đất bị xâm hại, đồng thời truy cứu trách
nhiệm pháp ký đối với các hành vi vi phạm pháp luật

1. Nguyên nhân tranh chấp đất đai
-

Nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp đất đai thành 3 loại:
+ Do cơ chế chính sách của Nhà nước
+ Do ảnh hưởng của xã hội
+ Do ảnh hưởng của Kinh tế
-


Nguyên nhân tranh chấp đất đai do ảnh hưởng của kinh tế chia làm 2 giai đoạn:

+ Do nền kinh tế bao cấp trước đây
+ Do nền kinh tế thị trường hiện nay
3.1. Nguyên nhân khách quan
a, Do nền kinh tế bao cấp trước đây:
Tình trạng đòi lại đất cũ:
+ Đòi lại đất trước đây đưa vào Hợp tác xã nông nghiệp hay Tập đoàn sản xuất nông
nghiệp, đã giao khoán cho các hộ khác sử dụng, khi Hợp tác xã, Tập đoàn sản xuất tan rã
có tình trạng ruộng đất của ai, người đó lấy lại sử dụng, nhưng một bộ phận nông dân
14


15

không lấy lại được ruộng đất vì người khác đang sử dụng hoặc chính quyền đã sử dụng vào
mục đích khác.
+ Đòi lại đất khi Nhà nước thực hiện chính sách “nhường cơm, sẻ áo”; đất cho người khác
thuê, mượn để sản xuất, làm nhà ở hoặc nhờ người trông coi trước năm 1987, nay những
người này đang sử dụng.
+ Đòi lại đất chính quyền chế độ cũ lấy để sử dụng, sau giải phóng, Nhà nước tiếp quản
hoặc giao cho người khác sử dụng, như ở Tiền Giang, Bến Tre… gây nhiều bức xúc. Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 815/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2001 phê duyệt
phương án giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai của một số hộ nông dân ở tỉnh Bến Tre
nhưng đến nay vẫn còn nhiều trường hợp tiếp tục khiếu nại gay gắt.
+ Đòi lại đất có nhà ở khu vực đô thị trong quá trình cải tạo công thương nghiệp Nhà nước
đã quản lý nhưng không làm đầy đủ thủ tục.
+ Đòi lại đất tôn giáo đã hiến, cho, cho mượn hoặc chính quyền đã sử dụng làm nhà trẻ,
trường học, mẫu giáo, nhà văn hoá...

+ Đòi đất cũ khi chiến tranh biên giới xảy ra, người có đất đi sơ tán sau quay lại đã có
người sử dụng hoặc Nhà nước đã giao cho người khác sử dụng.
b, Do nền kinh tế thị trường hiện nay.
Theo quy định của pháp luật hiện hành có ba loại hình tranh chấp đất đai:
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất đai;
+ Tranh chấp về tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất;
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới đơn vị hành chính (xã, huyện,
tỉnh).
-

Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý

làm cho đất đai thì đất đai ngày càng trở nên có giá trị.
-

Dưới góc độ kinh tế, đất đai được coi như một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường

theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Đây là quy luật tự nhiên, nhưng đối với đất lại
không được thừa nhận một cách dễ dàng ở nước ta trong một thời gian khá dài. Do vậy
Nhà nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả. Từ khi nhà,
đất trở nên có giá trị cao đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh
chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho
người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước
đây mà không có các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ.
15


16

Do đó ở thời kỳ này tranh chấp đất đai tập trung vào việc đòi bồi thường giải phóng mặt

bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ và tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử
dụng đất, tố cáo cán bộ thực hiện sai quy định của Nhà nước về đất đai,
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan: về cơ chế quản lý đất đai
-

Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bị buông lỏng, nhiều

sơ hở, có khi phạm sai lầm, giải quyết tùy tiện, sai pháp luật. Trong cơ chế quản lý tập
trung, kế hoạch hóa cao độ, Nhà nước phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành, dẫn đến
việc quản lý đất đai thiếu chặt chẽ, nhiều sơ hở. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản
lý dẫn đến việc tranh chấp về đất thuộc quyền quản lý của nhiều ngành khác nhau.
-

Hiện nay đã bắt đầu xuất hiện loại khiếu kiện mới liên quan đến việc giao đất nông

nghiệp theo Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ. Người sử dụng
đất nông nghiệp khi bị thu hồi đã khiếu nại đòi quyền lợi đối với thời gian còn lại của thời
hạn được giao 20 năm.
-

Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung,

có sự phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý đất đai khá rõ. Nhưng cán bộ chưa nắm
vững luật, hoặc chính sách còn lỏng lẻo. Số vụ kiện liên quan đến đất đai ngày càng đông
chiếm tới hơn 90%. Lỗi là do chính quyền một số địa phương chưa làm đúng pháp luật,
chưa công khai minh bạch, dân chủ. Điều này thể hiện năng lực, trách nhiệm của chính
quyền các cấp trong việc giải quyết khiếu kiện. Điều này góp phần làm xuất hiện nhiều
tranh chấp đất đai phức tạp, khó giải quyết. Cụ thể:
a) Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu

toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận đặc biệt
là trong việc định giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất
tái định cư (thu hồi theo giá Nhà nước quy định quá thấp, giao đất tái định cư lại theo giá
gần sát giá thị trường).
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của những người có đất
bị thu hồi, chưa chú ý những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất, không có phương
án tích cực về giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có
đất bị thu hồi. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực tới việc khuyến khích nhà đầu tư nhưng lại
gây ra những phản ứng gay gắt của những người có đất bị thu hồi.
16


17

- Việc chưa điều chỉnh kịp thời giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thực hiện dự án có
liên quan đến nhiều tỉnh hoặc việc cho người có nhu cầu sử dụng đất phát triển các dự án tự
thoả thuận bồi thường với người dân đang sử dụng đất, người được giao đất muốn giải
phóng mặt bằng nhanh đã chấp nhận giá bồi thường cao hơn quy định của Nhà nước làm
cho mức đền bù chênh lệch trên cùng một khu vực, từ đó phát sinh khiếu nại.
- Quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp để giao cho các nông trường, lâm trường, các dự án
đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng trong nhiều trường hợp chưa được
nghiên cứu kỹ lưỡng, tính khả thi thấp dẫn tới tình trạng thu hồi đất nhưng không sử dụng,
sử dụng không có hiệu quả trong khi nông dân thiếu đất hoặc không còn đất sản xuất, đời
sống khó khăn.
- Không chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư như ra thông báo giải phóng mặt bằng mà không có quyết định
thu hồi đất, không thông báo trước về kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người có đất bị
thu hồi, cưỡng chế giải phóng mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư, quyết định

thu hồi đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử dụng vào mục đích trái quy hoạch đã
được xét duyệt.
- - Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ việc quy hoạch phát triển đô thị và các khu
công nghiệp nhiều nơi chưa cân nhắc, tính toán đồng bộ toàn diện dẫn đến trường hợp
người dân bị thu hồi gần hết hoặc hết đất sản xuất, được đền bù bằng tiền (không có đất
khác để giao), giá trị thấp, việc chuyển đổi nghề nghiệp là rất khó khăn do trình độ hạn chế
dẫn đến thất nghiệp, đời sống gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội và phát sinh
ra khiếu kiện.
b) Sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai
- Nguyên nhân từ việc quản lý thiếu chặt chẽ, còn sai sót của cơ quan nhà nước: đo đạc
không chính xác diện tích, nhầm lẫn địa danh, thu hồi đất không có quyết định, không làm
đầy đủ các thủ tục pháp lý, giao đất, cho thuê đất, đấu thầu đất, bồi thường giải toả và sử
dụng những khoản tiền thu được không công khai gây ngờ vực cho nhân dân.
- Việc giao đất trái thẩm quyền, không đúng đối tượng, giao sai diện tích, vị trí, sử dụng
tiền thu từ đất sai quy định của pháp luật hoặc người sử dụng đất đã làm đủ các nghĩa vụ
theo quy định nhưng không được hợp thức quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là những nguyên nhân tạo thành khiếu kiện đông người, thành các đoàn khiếu
kiện đến các cơ quan Trung ương

17


18

Sự yếu kém, bất cập trong công tác quản lý đất đai cùng với một bộ phận không nhỏ cán
bộ, công chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử dụng đất đai, nhũng nhiễu, thiếu
công tâm là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh những khiếu nại, tranh chấp về đất đai.
c) Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Trong tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, nhiều địa
phương chưa làm tốt việc tiếp dân, nhận đơn, chưa hướng dẫn cụ thể theo pháp luật. Khi

phát sinh khiếu kiện, đã không tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, thậm chí né tránh, đùn
đẩy. Nhiều vụ việc đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng việc tổ chức thi hành quyết
định không nghiêm, cơ quan ra quyết định thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để giải quyết
dứt điểm; một số vụ việc đã có kết luận hoặc quyết định giải quyết nhưng không có tính
khả thi trong tổ chức thi hành dẫn tới phát sinh những khiếu kiện mới phức tạp hơn.
- Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn
đốc kịp thời để khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu kiện
mới phức tạp hơn.
- Tổ chức và cơ chế giải quyết khiếu kiện thiếu ổn định và nhìn chung bất cập so với yêu
cầu thực tế. Công tác giải quyết khiếu nại hiện nay chủ yếu là kiêm nhiệm. Khiếu nại về
đất đai chủ yếu nảy sinh ở cấp huyện nhưng bộ máy thụ lý ở cấp này lại không tương ứng.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp là người chủ trì, chịu trách nhiệm chính về quyết định
giải quyết khiếu nại nhưng lại phải lo mọi việc của địa phương nên khó có điều kiện
chuyên tâm về việc này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu
nại chậm chạp, thiếu dứt điểm, chất lượng thấp, tái khiếu nhiều.
- Trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, nhiều nơi chưa
nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của
nhiều cơ quan khác nhau. Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý đất
đai, Bộ Tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, Bộ Xây dựng quản lý về nhà ở.
Tại các tỉnh, việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân trong việc
giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai không thống nhất, có nơi giao cho
Thanh tra tỉnh chủ trì, có nơi giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì; ở cấp huyện
có nơi giao cho Thanh tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường, thậm
chí có nơi vừa giao cho Thanh tra vừa giao cho cơ quan Tài nguyên và Môi trường. Tình
trạng này đã gây khó khăn cho công dân và lúng túng trong việc xác định thẩm quyền tham
mưu giải quyết.
18



19

- Những tồn tại có tính lịch sử, như việc cho thuê, cho mượn, cầm cố đất trong nội bộ nhân
dân, việc đưa đất, lao động vào các tập đoàn sản xuất, các nông, lâm trường, không có hoặc
không lưu giữ được các tài liệu, sổ sách khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất
không có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã bồi thường nhưng không lưu giữ hồ sơ, đã
gây khó khăn rất lớn cho quá trình giải quyết các vụ việc. Việc đầu tư cho công tác quản lý
đất đai chưa được chú trọng nên hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách, bản đồ, tư liệu
thiếu. Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt dẫn đến việc xác định nguồn gốc, quá
trình sử dụng đất gặp nhiều khó khăn.
- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo thiếu đồng bộ. Luật Khiếu
nại, tố cáo và Luật Đất đai có các quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân. - Văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế tuy
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng còn nhiều vấn đề chưa được quy định cụ thể, rõ
ràng, nhất là xác định trường hợp được hoặc không được đền bù, xác định loại đất để đền
bù.
- Việc phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai giữa các cơ quan có thẩm quyền
chưa được chặt chẽ và thống nhất, còn đùn đẩy trách nhiệm, có nhiều vụ việc còn có ý kiến
khác nhau làm cho công dân tiếp khiếu dai dẳng.
- Một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật, lại bị kích
động nên khiếu kiện gay gắt đối với những trường hợp đã được giải quyết đúng pháp luật.
Một số trường hợp lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để kéo dài thời gian, không chấp hành
quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật.Nhiều trường hợp cố tình gây rối, coi thường
pháp luật và chống đối người thi hành công vụ nhưng chưa được xử lý nghiêm minh.Trong
khi đó, trên thực tế không có điểm dừng về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
- d) Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công
chức; sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân
Đất đai có giá trị đặc biệt, nhưng trong thời gian dài đã quản lý lỏng lẻo, dẫn tới những sai
phạm có tính phổ biến, trong đó đáng lưu ý là một bộ phận cán bộ, công chức đã lợi dụng

chức quyền để chia chác đất đai hoặc trục lợi từ đất đai, để lại những hậu quả nặng nề và
gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội.
Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc chuyển nhượng trao tay trong nhân dân
không tuân theo quy định của pháp luật làm phát sinh các khiếu kiện khó giải quyết.
Nhận thức của người dân về chính sách, pháp luật đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo
nhìn chung còn nhiều hạn chế, trong khi việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan có
19


20

trách nhiệm chưa tốt. Nhiều trường hợp người dân mặc dù hiểu rõ các quy định của pháp
luật, song cố tình không chấp hành những quyết định đã giải quyết đúng pháp luật; một số
trường hợp bị kích động hoặc lợi dụng việc khiếu kiện để kích động khiếu nại đông người,
gây sức ép đối với cơ quan Nhà nước nhưng việc xử lý không nghiêm.
Câu 9: Nguyên tắc hòa giải tranh chấp đất đai; nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Nguyên tắc hoà giải
Nguyên tắc hoà giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi tiến hành hoạt động
hoà giải phải tuân thủ một cách đầy đủ, toàn diện và nghiêm túc. Các nguyên tắc này được
quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở.
- Hoà giải phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân
Khi giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân nếu như người hoà giải
chỉ căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc, phong tục tập quán của
địa phương, dòng họ để dàn xếp các mâu thuẫn, tranh chấp thì chưa đủ và không hiệu quả.
Các vụ việc nếu chỉ dừng lại ở các quy phạm đạo đức để hoà giải thì chưa hẳn đã mang lại
kết quả tích cực và thoả đáng. Một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và có hiệu quả cao
khi người hoà giải bên cạnh việc căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán
còn cần phải nắm vững và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nhất là những quy định pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân.

Để thực hiện nguyên tắc này, tổ viên Tổ hoà giải phải nắm vững đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trước hết, cần nắm vững quy định của pháp luật liên
quan trực tiếp đến công tác hoà giải ở cơ sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan
hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế,...), pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng, quan hệ cha mẹ, con, nhận nuôi con nuôi, ly hôn, yêu cầu cấp
dưỡng...), pháp luật về đất đai (quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất...), pháp luật hành
chính và pháp luật hình sự...
Bên cạnh việc hoà giải theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
hoà giải viên cần phải kết hợp với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của
nhân dân. Pháp luật được thể hiện ở hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành. Phong tục, tập quán thường được thể hiện hoặc bằng
ngôn ngữ như luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, các hương ước, quy ước làng,
bản, thôn, ấp, cụm dân cư, tổ dân phố, hoặc bằng các thói quen ứng xử dưới dạng các hành
động cụ thể. Phong tục, tập quán được áp dụng phải là phong tục tập quán tốt đẹp, không
20


21

trái với pháp luật và quy tắc xây dựng nếp sống mới. Nếu phong tục, tập quán đã được quy
định trong các hương ước, quy ước làng thì phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện
phê duyệt thực hiện. Đối với các hủ tục, tập quán lỗi thời thì tuyệt đối không được vận
dụng để hoà giải.
- Hoà giải phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên
tranh chấp phải tiến hành hoà giải
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoà giải ở cơ sở. Vì bản chất của hoà
giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả
thuận trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên
có tranh chấp trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ.
Người làm công tác hoà giải phải hiểu được tâm lý của những người đang có mâu

thuẫn, tranh chấp, giữa họ ai cũng có những lý lẽ cho rằng mình đúng và không chấp nhận
lý lẽ của bên kia. Do đó, khi hoà giải, tổ viên tổ hoà giải phải giúp họ bình tĩnh, tỉnh táo để
nhìn nhận ra sự thật, thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên. Chỉ khi nào họ hiểu đúng đắn
và thông cảm với nhau thì họ mới tự nguyện cùng nhau giải quyết mọi mâu thuẫn.
- Hoà giải phải khách quan, công minh, có lý, có tình, giữ bí mật thông tin đời tư của
các bên tranh chấp, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng
Thông thường khi mâu thuẫn xảy ra, mỗi bên tranh chấp đều đưa ra lý lẽ để tự bảo vệ
mình cho mình là đúng, không nhìn nhận được cái sai của mình đã gây ra cho người khác.
Do đó người hoà giải phải thực sự khách quan, vô tư, công minh, đề cao lẽ phải, tìm cách
thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ sai trái, không xuề xòa “dĩ hoà vi quý” cho xong việc. Hơn
nữa sự công minh, khách quan, vô tư của người hoà giải sẽ là yếu tố để hai bên đặt lòng tin
và cùng nhau giải quyết vụ việc.
Nguyên tắc có lý có tình là một trong những nguyên tắc đặc trưng nhất đối với hoạt
động hoà giải ở cơ sở so với loại hình hoà giải khác. Trong hoà giải ở cơ sở cần tuân theo
các quy phạm đạo đức, đề cao yếu tố tình cảm, khuyên nhủ các bên ứng xử theo các chuẩn
mực đạo đức. Tuy nhiên không chỉ áp dụng theo các quy phạm đạo đức nói chung, trong
từng trường hợp cụ thể hoà giải viên cần phải hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật
để giải quyết sự việc và hướng dẫn các bên thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của công dân
theo quy định của pháp luật.
Việc tuân thủ nguyên tắc này chính là sự bảo đảm đạt được mục đích của công tác hoà
giải là giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý
21


22

truyền thống tốt đẹp trong gia đình, cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp
luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Trong quá trình thực hiện hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải phải giữ bí mật thông tin về đời

tư của các bên tranh chấp. Khi đã được các bên tranh chấp tin tưởng và thổ lộ thông tin
thầm kín về đời tư của mình cho hoà giải viên, thì hoà giải viên không được phép tiết lộ
thông tin đó cho người khác. Song cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư cá nhân
và thông tin bí mật của các bên tranh chấp về hành vi bất hợp pháp mà họ đã thực hiện.
Bên cạnh đó, hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Nguyên tắc này
mang tính pháp lý cao và thường được áp dụng cho mọi loại hình hoà giải các tranh chấp
kể cả việc hoà giải được thực hiện bởi Toà án và tổ chức trọng tài. Đối với hoà giải ở cơ
sở, các tranh chấp, xích mích trong đời sống sinh hoạt hàng ngày liên quan đến sử dụng lối
đi qua nhà, sử dụng điện, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường… thường liên quan đến nhiều
người khác ngoài các bên tranh chấp, do đó Tổ hoà giải không thể vì mục đích đạt được
hoà giải thành mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Việc hoà
giải phải tuân thủ nguyên tắc không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
- Hoà giải phải kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn
chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải
Trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày có thể xảy ra những va chạm, xích mích, tranh
chấp nhỏ giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm giềng, bạn bè… với nhau mà nếu
không được giải quyết kịp thời, có lý, có tình thì có thể từ những va chạm, xích mích, mâu
thuẫn nhỏ sẽ dễ trở thành những mâu thuẫn lớn. Từ những tranh chấp, mâu thuẫn trong
quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình có thể chuyển thành vụ án hình sự, gây mất
đoàn kết, ảnh hưởng đến trật tự chung. Vì vậy, các hoà giải viên cần chủ động, kịp thời
ngăn chặn hậu quả xấu, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự có thể xảy ra để
giữ gìn được tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng, tập
thể.
Để tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc kịp thời, chủ động trong
hoạt động hoà giải ở cơ sở, Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở thì tổ viên
tổ hoà giải có thể chủ động hoà giải hoặc tổ chức việc hoà giải theo sáng kiến của
mình (khoản 1 Điều 10). Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định: “Việc hoà giải có thể
được tiến hành theo sáng kiến của tổ viên Tổ hoà giải ngay tại thời điểm xảy ra tranh
chấp, nếu tổ viên Tổ hoà giải là người chứng kiến và xét thấy cần thiết phải hoà giải ngay ”

(khoản 1 Điều 13).
22


23

Khác với các loại hình hoà giải khác, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành việc
hoà giải một tranh chấp do tổ hoà giải thực hiện. Điều 16 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP
quy định: “Việc hoà giải được kết thúc khi các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện
thực hiện thỏa thuận đó”. Quy định này thể hiện một trong các đặc điểm của thực tiễn hoạt
động công tác hoà giải ở cơ sở là có nhiều việc tranh chấp trong cộng đồng dân cư đòi hỏi
tổ viên tổ hoà giải phải kiên trì việc hoà giải. Người hoà giải đến gặp gỡ từng bên để lắng
nghe, thuyết phục rồi sau đó tổ chức cho các bên trực tiếp gặp nhau ở một nơi thuận tiện,
giúp họ thông cảm với nhau. Cuộc gặp gỡ phải tránh biến thành cuộc đối chất giữa hai bên
trong bầu không khí căng thẳng. Sau khi tìm hiểu đầy đủ sự việc, lắng nghe ý kiến của các
bên, người hoà giải phải bằng tất cả sự cảm thông, khéo léo phân tích, thuyết phục cho các
bên đạt tới thoả thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức, tập quán tốt đẹp của nhân dân và
cùng nhau thực hiện những thoả thuận đó.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nƣớc thống nhất quản lý.
Giải quyết tranh chấp đất đai nhằm bảo vệ sở hữu toàn dân về đất đai, bảo vệ sự quản lý th
ống nhất của Nhà nước về đất đai.
Khoản 2 điều 10 luật đất đai năm 2003 chỉ rõ: “ Nhà nước không thừa nhận việc đòi
lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai
của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hoà Miền nam Việt Nam và nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam...”
Bảo vệ quyển sở hữu toàn dân về đất đai, bảo vệ sự quản lý thống nhất cuả nhà nước
về đất đai còn được thể hiện khi giải quyết tranh chấp đất đai phải do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai.

Đất đai là tài sản quốc gia, việc giải quyết tranh chấp đất đai là bảo vệ vốn đất đai mà
qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập được.
2. Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời sử dùng đất.
Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
“Người sử dụng đất
được nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm hại đến quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình” .
23


24

Từ những vấn đề nêu trên, khi giải quyết tranh chấp đất đai phải thực sự tôn trọn
g quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
3 Khuyến khích việc hoà giải các tranh chấp đất đai.
Nhà nước khuyến khích việc hoà giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân”.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với mạt trận tổ quốc
Việt Nam, hội đồng nhân dân, các tổ chức thành viên khác của mặt trận, các tổ c
hức xã hội, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hoà giải các tranh chấp đất đai Thời gia
n hoà giải là 30 ngày kể từ ngày uỷ ban nhân dân xã nhận được đơn.
Đề ra nguyên tắc phát huy truyền thống yêu thương, đoàn kết, tình làng, nghĩa xóm
của nhân dân ta, của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Thực hiện nguyên tắc khi hoà
giải tranh chấp đất đai cần chú ý:
Phải tuân theo quy định của pháp luật để làm rõ ranh giới về quyền quản lý, quyền sử dụn
g của các chủ sử dụng đất, bảo đảm người sản xuât đất nông nghiệp có đất
sản xuất, các tổ chức có đất để thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Dựa vào dân, bàn bạc dân chủ, công khai với dân, kiên trì giáo dục thuyết phục, giải
quyết sao cho thầu tình đạt lý; không gò ép, mệnh lệnh với dân, tránh giải quyết máy móc
gây căng thẳng giữa hai bên.
kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành văn bản , biên bản có chữ ký

của các bên tranh chấp và xác nhận UBND cấp xã nơi có đất , nếu hòa giải khác với
hiện trạng sử dụng thì chuyển kết quả đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải
quyết theo quy định về quản lý đất đai
4. Giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế,
xã hội và phát triển sản xuất.
Ở những nơi có tranh chấp đất đai sẽ gây cản trở lớn cho sản xuất, phát triển kinh tế
và trật tự an toàn xã hội. Do đó có sự tập trung để giải quyết, hạn chế thiệt hại do
tranh chấp gây ra.

Câu 10: Trách nhiệm hòa giải tranh chấp đất đai. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
24


25

2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai
tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn
không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa
giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được
gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng
đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường

đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với
nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân
cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được
giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ
quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án
nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một
trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy
định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân
sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì
25


×