Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Xã hội học ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.76 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TP.HCM

KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
----------

Đề tài: XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
Giáo Viên Hướng Dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Năm học

: Vũ Thị Hạnh Thu

: Trần Thị Hợi
: 02-DHQB
: 2016 _ 2017

T.p Hồ Chí Minh, tháng năm 2016


PHẦN I. GIỚI THIỆU
1. Lí do chọn đề tài

Xã hội phát triển càng cao thì nảy sinh càng nhiều vấn đề phức tạp và xã hội học đô
thị ra đời trong bối cảnh xã hội nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, các kiểu quan
hệ truyền thống bị thay đổi trong xã hội hiện đại. Xu hướng đô thị hóa gia tăng, khu
vực nông thôn ngày càng thu hẹp, khu vực đô thị ngày càng mở rộng kéo theo sự tích
tụ, tập trung dân cư, mật độ dân số cao, rất nhiều hiện tượng xã hội phức tạp khả
năng kiểm soát của xã hội đối với mỗi hành vi của một cá nhân là khăng khít, vì quan
hệ xã hội ở đô thị là quan hệ xã hội mang tính chất giao tiếp và đa dạng. Quá trình đô
thị hóa làm thay đổi các nguy cơ xã hội, các tệ nạn xã hội. Cơ cấu xã hội ở đô thị là


quan hệ mang giao tiếp và đa dạng, phức tạp và đan xen nhau. Đô thị có rất nhiều giai
cấp và tầng lớp xã hội. Phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở đô thị diễn ra rát
mạnh mẽ. Ở đô thị có người giàu nhất mà cũng có người nghèo nhất. Lối sống đô thị
là lối sống rất phức tạp, vừa có chung của những người ở đô thị, vừa có cái riêng của
từng giai cấp xã hội. Lối sống đô thị bao giờ đi trước dẫn dắt lối sống ở nông thôn.
Lối sống đô thị nhanh nhạy trong việc tiếp nhận các dòng văn hóa khác nhau Trước
thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau thì việc tìm hiểu nhằm nâng
cao nhận thức về những biến đổi xã hội hóa đô thị ở Việt Nam là việc làm mang tính
cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành động của mỗi chúng
ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn gốc, bản chất, và các quy luật phát triển của xã hội học đô thị . Các vấn đề
giáo dục trẻ em, gia đình và hôn nhân, tội phạm, sự di cư, vấn đề chủng tộc, giai cấp
và xã hội, tôn giáo, học vấn,..
3. Phạm vi nghiên cứu
Xã hội học đô thị ở Việt Nam


4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thu thập thông tin, phân tích, đánh giá
PHẦN II. nội dung
1.Các khái niệm
1.1.Khái niệm đô thị
Đô thị là một điểm dân cư hiện đại, là nơi tập trung những dân cư có những hoạt
động phi nông nghiệp (chiếm 80%), thực hiện các chức năng sản xuất công nghiệp,
giao thông vận tải, dịch vụ v à là nơi tập trung chức năng quản lý hành chính của một
địa phương. Đó còn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của một v ùng
lãnh thổ nhất định . Như vậy, đô thị có nét nổi bật là tập trung những dân cư có các
hoạt động phi nông nghiệp (chiếm từ 70 -80%). Họ là những người thực hiện những
chức năng khác nhau như sản xuất trong nhà máy, các ngành nghề tiểu thủ công

nghiệp trong các hộ gia đình, hoạt động giao thông vận tải dưới các hình thức khác
nhau như xích lô, xe bò, lái xe hơi, xe ôm và các dịch vụ thuê mướn… Chỉ xét riêng
các yếu tố ấy cũng có thể thấy đô thị hết sức đa dạng và phức tạp.
1.2. khái niệm xã hội học đô thị
Xã hội học đô thị Là một nhánh của xã hội học chuyên biệt, xã hội học đô thị nghiên
cứu về nguồn gốc, bản chất và các quy luật phát triển và hoạt động của đô thị.
2. Đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học đô thị
Quá trình phát triển đô thị trong các chế độ xã hội đã qua. Những nguyên nhân cơ
bản ảnh hưởng tới sự phát triển của đô thị, quá trình đô thị hóa cũng như bản chất xã
hội của quá trình đô thị hóa, đặc biệt nghiên cứu về đặc điểm cũng như các vấn đề đô
thị hóa trong giai đoạn công nghiệp phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Về đặc điểm lối sống văn hóa và các vấn đề của cộng đồng dân cư ở đô thị cũng như
môi trường đô thị. Các vấn đề, các hiện tượng xã hội nảy sinh trên cơ sở lối sống, giao


tiếp của xã hội đô thị cũng như trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, trong
đời sống gia đình đô thị.
Về quá trình quản lý đô thị, các yếu tố xã hội cũng như hậu quả của quá trình di dân,
sự hoạt động của người dân thành phố. Sự phân loại các thành phố cũng như vai trò
của các thành phố lớn trong hệ thống đô thị của xã hội.
Về cơ cấu xã hội cũng như các vấn đề nảy sinh và sự chuyển biến xã hội ở đô thị. Xem
xét hàng loạt mối quan hệ tạo nên cơ cấu xã hội của đời sống đô thị như mối quan hệ
giữa các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống xã hội ở đô thị (công nghiệp, tiểu thụ
công nghiệp, dịch vụ,...) hoặc mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội của
đô thị (công nhân, tư sản, trí thức,...) hay mối quan hệ giữa khu vực dân cư trong thành
phố (khu vực người da đen, người Việt Nam, người Trung Quốc,...).
3.Quá trình hình thành và phát triên
3.1. Thời kỳ phong kiến (từ năm 1858 trở về trước):
Trong giai đoạn này nước ta mới chỉ hình thành các đô thị phong kiến, chủ yếu là các
trung tâm hành chính và thương mại. Tuy nhiên đây chỉ là các đô thị nhỏ và yếu, chưa

thực sự là các trung tâm kinh tế giữ vai trò chủ đạo đối với khu vực, một số đô thị tiêu
biểu như Thăng Long, Hội An.v.v
3.2. Thời kỳ thuộc địa (1858-1954):
Xuất hiện nhiều thành phố lớn với mục đích khai thác thuộc địa của tư bản Pháp là chủ
yếu. Ngoài ra người Pháp còn xây dựng đô thị với tư cách là cơ quan đầu não về hành
chính và quân sự, là trung tâm chỉ huy bộ kiềm kẹp của chúng. Một số thành phố như
Hà Nội, Sài Gòn, Huế Hải phòng Đà Nẵng..v và một số thương cảng khác được chú ý
đầu tư mở rộng. Nhìn chung thời kỳ này đô thị nước ta phát triển chậm và không đều,
nhỏ bé về quy mô công nghiệp yếu kém.


3.3. Thời kỳ 1955-1975:
Thời kì này nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau
nên quá trình đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng theo 2 xu hướng khác nhau.
Ở miền Bắc, xã hội chủ nghĩa thì diễn ra quá trình giải đô thị tạm thời để giảm thiệt hại
cho cuộc chiến tranh, chúng ta phải sơ tán một cách triệt để dân cư và cơ sở sản xuất
CN về nông thôn.
Ở miền Nam xảy ra quá trình “đô thị hóa cưỡng bức”, do chiến tranh đe dọa, tàn phá
và do chính sách mở rộng chiến tranh, bình định nông thôn của Mỹ, hàng triệu người
dân từ nông thôn, rừng núi, đồng bằng ven biển kéo về thành phố. Vì vậy các đô thị ở
miền Nam trước giải phóng trở nên quá tải, chật chội và môi trường sống hết sức phức
tạp.
3.4. Thời kỳ 1975 đến nay:
Đây là thời kỳ mới, đất nước thống nhất cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
thực hiện dân giàu, nước mạnh. Các thành phố của chúng ta đã từng bước trở thành
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội cho cả nước và cho khu vực. Đặc biệt sau
đại hội VI của Đảng chúng ta chuyển từ cơ cấu kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường
dưới sự điều tiết của nhà nước chúng ta thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế và
ngoại giao, quá trình đô thị hóa của nước ta diễn ra nhanh hơn, bộ mặt đô thị có nhiều
thay đổi rõ nét.

III.Thực trạng và giải pháp xã hội học đô thị hiện nay
Đô thị Việt Nam đang vận động và thay đổi từng ngày, sự thay đổi đó góp phần tích
cực và tiêu cực đến cuộc sống của con người, đặc biệt là con người đô thị. Một trong
số những nhiệm vụ thực tiễn quan trọng của xã hội học đô thị là phải tiến hành các
nghiên cứu, khảo sát để phản ánh một cách cụ thể và xác thực về thực trạng xã hội.


Vậy thực trạng đó ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Và hướng giải quyết các vấn đề
đó ra sao? Chúng ta sẽ tìm hiểu qua các lĩnh vực về kinh tế, dân số, văn hóa xã hội,
môi trường.v.v để từ đó thấy được tình hình xã hội hóa đô thị của nước ta trong giai
đoạn hiện nay và đưa ra những gải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế còn gặp
phải.
3.1Kinh tế
Đô thị hóa đang làm thay đổi tập quán sản xuất, kinh doanh của người đô thị theo
hướng công nghiệp hóa, đa. thành phẩm, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. khắc
phục được tác phong sản xuất nhỏ trì trệ, manh mún, hình thành tác phong công nghiệp
hiện đại.
Đô thị là nơi tâp trung các trường đại học, các nhà khoa học, đồng thời có sức hấp dẫn
lớn với các nguồn lao động có kĩ thuật và đây chính la lợi thế đặc biệt của đô thị trong
việc phát triển kinh tế.
+ Sự hình thành các khu công nghiệp , khu chế xuất sự gia tăng mạnh mẽ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kéo theo nhu cầu về
lao động, xây dựng cơ sở hạ khiến cho tốc độ đô thị hóa gia tăng nhanh chóng. Có thể
thấy ở đâu có khu công nghiệp, khu chế xuất thì ở đó có khu nhà ở mới, khu dân cư
mới và đặc biệt khu đô thị mới được hình thành.
VD các khu nhà mới xung quanh khu chế xuất Linh Trung 1, 2..các khu dân cư mới
xung quanh khu công nghiệp Tân Bình..
Thu nhập của người lao động ở khu vực đô thị được cải thiện rõ rệt, tăng mức tích lũy
của doanh nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng đô thị.
Bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế như:



Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với tỉ lệ tăng dân số đô thị; tỉ lê dân số trong
độ tuổi lao động không có việc làm ở khu vực thành thị còn cao. “Dự báo đến năm
2020, dân số khu vực đô thị ở VN sẽ vào khoảng 46 triệu người , chiếm 45% dân số cả
nc” .
+ Trong khi vấn đề lao động và việc làm ở đô thị chưa được giải quyết, thì tình trạng
đô thị hóa nhanh đã đẩy 1 bộ phận dư thừa từ nông thôn ra thành thị tạo thêm gánh
nặng cho khu vực đô thị.
Giải pháp:
Phát triển kinh tế luôn là nền tảng của mọi hoạt động xã hội. Để phát triển đô thị không
thể xem nhẹ phát triển kinh tế. Mỗi đô thị cần xác định cho mình phương hướng phát
triển, và các ngành kinh tế chủ lực nhằm khai thác hiệu quả cao đối với thế mạnh và
các nguồn lực của đô thị.
Tăng cường công tác quản lí kinh tế cần bắt đầu từ việc rà soát điều chỉnh và thực
hiện tốt việc lập và thực thi quy hoạch.
Thiết lập một hành lang pháp lí về quản lí kinh tế của đô thị mình phù hợp với cơ chế
thị trường hiện nay của Việt Nam. Điều tiết hoạt động của các ngành, các doanh
nghiệp thong qua các hành lang pháp lí, các chính sách đất đai, chính sách đầu tư.
3.2 Về văn hóa xã hội
Về văn hóa:
Trong tổ chức đời sống văn hóa người dân đô thị đã dần hình thành được ý thức chấp
hành pháp luật , ý thức công dân và ý thức cá nhân. Thái độ đối với gia đình bạn bè, xã
hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng
tự do cá nhân(sống và làm theo hiến pháp và pháp luật). Các hoạt động của cá nhân và


gia đình phụ thuộc nhiều vào hệ thống dịch vụ như: du lịch theo tour, mua bán
online.v.v
Người dân đô thị có nhu cầu về văn hóa, giáo dục cao. Việc tiếp cận với các phương

tiện hiện đại( rạp chiếu phim, máy vi tính, nhà hát, nhà sách, câu lạc bộ văn hóa.v.v) đã
giúp họ cập nhật được những thông tin về sự thay đổi của thế giới xung quanh từ đó
tác động đến nhận thức và suy nghĩ của mỗi người.
Có sự ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa khác nhau trong nước, và nước ngoài
Về xã hội
Đặc trưng nhất là về lối sống của người dân khu vực đô thị, điểm khác biệt rõ rệt nhất
giữa nông thôn và thành thị chính là lối sống.
Những người dân khu đô thị có tính năng động và nhạy cảm chính trị cao, có nghĩa là
họ nắm bắt những thông tin biến động về tình hình trong nước và quốc tế cũng như
những thay đổi trong sự phát triển đất nước một cách nhanh nhất để từ đó có những
phản hồi, đánh giá để nhà nước kịp thời cập nhật, bổ sung và sửa đổi.
Các quan hệ xã hội theo “truyền thống” đã giảm, thay vào đó là các quan hệ xã hội đa
chiều, phức tạp. Nếu ở nông thôn sự giao tiếp gia đình chỉ bó hẹp trong họ hàng, làng
xóm thì ở đô thị nó mở ra trên một diện rất rộng bao gồm nhiều loại hình giao tiếp
khác như quan hệ đối tác, đồng nghiệp,hoạt động nhóm trong câu lạc bộ, tronng một
số hoạt động giải trí như xem phim, ca nhạc, mua bán trực tuyến.v.v
Người dân đô thị từ chỗ chủ yếu ăn theo bữa trong gia đình hoăc xách cơm hộp đến
công sở hoặc ăn bếp ăn tập thể đã dân chuyển sang ăn ở nhà hàng, cửa hàng tự chọn
hoặc mua thức ăn được chế biến sẵn, bữa ăn gia đình thường duy trì vào bữa tối, thức
ăn nhanh ngày càng phổ biến, khá hấp dẫn đối với thanh thiếu niên...


Đô thị Việt Nam đang hướng tới lối sống đô thị, hành thành quan hệ có tính sòng
phằng, thiết thực đôi khi là đề cao tính thực dụng, tâm lý lập thân, lập nghiệp, tư duy
táo bạo, dám nghĩ dám làm, con người năng động và làm chủ công việc.
Bên cạnh những ưu điểm của văn hóa xã hội thì còn tồn tại khá nhiều những hạn chế
như:
Khác biệt với nông thôn, những yếu tố mang nội dung nhân bản văn minh của các giá
trị văn hóa truyền thống và hiện đại hầu như chưa được ăn sâu, bám rễ trong đời sống
đô thị, nó chưa thể tạo nên một bản sắc riêng cho khu vực này.

Tình trạng văn hóa đọc,viết đang bị mai một là ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của
cư dân đo thị hiện đại. Vô tuyến truyền hình trò chơi điện tử, máy tính phát triển một
cách quá nhanh bên cạnh việc mang đến lợi ích cho người dùng nó cũng là nguyên
nhân góp phần làm tăng các tệ nạn xã hội ở đô thị như (giết người, mại dâm,trộm
cắp.v.vv)
Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết thông qua giá trị đồng tiền. Một bộ phận cư dân
đô thị có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong đó có cả cán bộ, công
chức và thanh niên học sinh, sinh viên.
Sự phân tầng, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái
trong đô thị nhất là giữa dân số-việc làm-thu nhập-kết cấu hạ tầng.v.v, những người có
thu nhập cao thì có nhu cầu về nhà ở, đời sống vật chất và tinh thần cao hơn những
người thu nhập trung bình và nghèo.
Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng, trật tư đô thị chưa được đảm
bảo do công tác quản lý nhà nươc về đô thị và văn hóa của ta còn yếu kém.


“theo thống kê của cơ quan bảo vệ pháp luật, tỉ lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị
hàng năm vào khoảng 70%-75 % so với cả nước, riêng 4 tp lớn : Hà Nội , Hải Phòng,
Đà Nẵng, tp.Hồ Chí Minh chiếm 45-50%.”
Trật tự và văn minh đo thị chưa được lập lại, tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè
làm nơi buôn bán, vệ sinh công cộng còn rất phổ biến. Nhiều danh lam thắng cảnh , di
tích lịch sử, văn hóa, không gian văn hóa đô thị bị phá vỡ.
Giải pháp
Thay đổi các điều kiện sống, lao động của người đô thị theo hướng văn minh, hiện đại,
tiến bộ, cũng như chú trọng xây dựng các quy tắc, chuẩn mực xã hội đô thị dựa trên
pháp luật, lấy pháp luật làm nền tảng.
Tăng cường hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý đô thị, nhất là công tác quản lý nhà
nước về đô thị; gấp rút hoàn thiện để áp dụng trên diện rộng mô hình chính quyền đô
thị nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý đô thị.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đô thị, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý

nhà nước trong các đô thị. Khẩn trương giải quyết các vấn nạn đô thị, như: nhập cư tự
do và quản lý nhân khẩu đô thị, đô thị hóa tự phát, ùn tắc giao thông, úng ngập, ô
nhiễm môi trường, an ninh trật tự, sự phát triển không đồng bộ các dịch vụ công…
Chú trọng công tác xây dựng, nâng cao đời sống văn hóa cơ sở; nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, dần dần nâng cao văn hóa pháp luật
cho người dân đô thị. Trong quá trình này, cần phát huy vai trò quan trọng của hệ
thống giáo dục - đào tạo vốn là thế mạnh của các đô thị;
3.3.Dân số và lao động
Từ sự phát triển của kinh tế đã thu hút một lượng lớn dân số từ nông thôn lên đô thị
điều này đã giải quyết được vấn đề về số nhân công cho các công ty, xí nghiệp. Người


lao động tìm kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn, tiệp cận với khoa học kĩ thuật
và công nghệ hiện đại hơn. Các doanh nghiệp cũng thuê được nguồn nhân lực dồi dào
để phục vụ việc phát triển sản xuất.
Ngoài ra, dòng di cư thứ 2 chính là Sinh viên các tr Đại hoc, cao đẳng sau khi học
xong ở lại đô thị hoặc đến các đô thị khác để tìm kiếm việc làm. Siinh viên ra trường
không tìm dc việc ở nông thôn, vậy các thành phố lại được thêm 1 nguồn lao động đầy
tiềm năng. Nguồn lao động này tạo ra sụ cạnh tranh mạnh mẽ trên thị tr lao động.
Tuy nhiên, việc bùng nổ dân số tại các đô thị cũng sẽ dẫn tới nhiều hệ quả đáng lo ngại
như:
Việc tăng dân số đô thị quá nhanh so với lượng việc làm dẫn tới tình trạng thất nghiệp,
lao động thời vụ phổ biến với dân nhập cư, những ngành công nghệ cao mới hình
thành lại thiếu nhân lực do hệ thống đào tạo không đáp ứng kịp thời, phương pháp đào
tạo lạc hậu. Thiếu việc làm dẫn tới tệ nạn xã hội gia tăng tại các đô thị như: hiện tượng
trộm cắp , cướp giật diễn ra thường xuyên hơn, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng như
hút chích, mại dâm, ….
Nhập cư đô thị tăng nhanh đặt ra nhiều nan giải trong quản lí xã hội đô thị như giải
quyết vấn đề nhà ở, dịch vụ nhà ở…Tiền lương của lao động nhập cư thấp nên đời
sống khó khăn chủ yếu đảm bảo các chi phi tối thiểu như thuê nhà, tiền điện, tiền nc,

ăn , măc. Còn các nhu cầu tinh thần, các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí, học tập rất khó
khăn thường tách biệt xã hội
Dân số tăng nhanh làm cho tình trạng ách tắc và an toàn giao thông diễn ra khá phổ
biến và ngày càng phức tạp kéo theo các vấn nạn về môi trường, y tế, giáo dục.v.v
Giải pháp:


Tăng cường kiểm soát vấn đề dân cư các khu vực lân cận và trong các khu dân sinh
thành phố , không cho di cư, định cư bất hợp pháp.
Chuyển hướng đầu tư: chuyển các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, bênh
viện, nhà máy ra các khu vực lân cận.
Tập trung cho việc phát triển nông thôn về việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo việc làm
cho người lao động nhằm dãn dân từ thành thị về nông thôn, giảm áp lực cho các thành
phố lớn, đồng thời đây cũng là giải pháp phát triển kinh tế một cách đồng bộ và hiệu
quả nhất, giảm sự chênh lệch giữa khu vực nông thôn và thành thị.
3.4.Cơ sở hạ tầng
Trong xã hội đô thị, vấn đề về xây dựng cơ sở hạ tầng luôn được quan tâm và đầu tư
hàng đầu, đây cũng là bức tranh thể hiện sự khác biệt khá rõ nét so với nông thôn. Đặc
biệt ở Việt Nam, tại các thành phố lớn, khu đô thị không còn thấy hình ảnh lũy tre, nhà
tranh vách đất, con đường mòn mà thay vào đó là nhà cửa san sát nhau, các trung tâm
thương mại, tòa cao ốc, hệ thống siêu thị, khu mua sắm.v.v được đầu tư xây dựng khá
quy mô đáp ứng nhu cầu của người dân.
Hệ thống điện, đường cũng được nâng cấp, cải thiện rõ rệt. tuy nhiên với sự bùng nổ
dân số một cách khó kiểm soát tại đô thị hiện nay và tình trạng đô thị hóa đang diễn ra
một cách ồ ạt thì vấn đề cơ sở hạ tầng đang trở thành nỗi bức xúc của một bộ phận
người dân sống tại đây.
Giao thông
Tỉ lệ đất dành cho giao thông nhất là ở khu vực đô thị nước ta thuộc vào loại thấp nhất
thế giới. cơ sở hạ tầng giao thông còn quá lạc hậu . Bố cục giao thông của thành phố tổ
chức theo mạng lưới xuyên tâm với nhiều trục chính kết nổi bởi nhiều nhánh ngang và



hướng vào trung tâm, mật độ giao thông trên các trục chính này rất dày đặc, quá tải
vào các giờ cao điểm.
Hạ tầng giao thông lại không an toàn bởi cắt xén nguyên liệu trong thi công trước kia.
Những nơi có dân số tập trung đông không đáp ứng đủ đường để đi lại, mặc dù đã có
cầu vượtvà cầu chui. “theo thống kê, ở tphcm lượng phương tiện cơ giới gần 6tr
phương tiện nhưng tổng số chiều dài đường bộ chưa bằng 1% so với cả nước( 1680
km/ 210.000 km) . Đặc biệt là những nhánh đường giáp giữa nội thành và ngoại thành
thì hẹp và xấu lại là nơi có nhiều người đi lại nên dễ bị ùn tắc. (năm 2013 Hà Nội còn
57 điểm có nguy cơ xảy ra ùn tắc giao thông; thành phố Hồ Chí Minh còn 50 điểm...).
Phương tiện giao thông cá nhân tại các đô thị lớn tăng nhanh (khoảng 13% 15%/năm). Cơ cấu phương tiện tham gia giao thông mất cân đối (năm 2013 Hà Nội xe
môtô, xe gắn máy chiếm 75,4 %, Tp. Hồ Chí Minh xe môtô, xe gắn máy chiếm 91,3
%, Hải Phòng xe môtô, xe gắn máy chiếm 92,7 %, Đà Nẵng xe môtô, xe gắn máy
chiếm 94,2%, Cần Thơ xe môtô, xe gắn máy chiếm 96,4 %); dòng phương tiện lưu
thông hỗn hợp lại không tách làn; công tác tổ chức giao thông còn bất cập so với kết
cấu hạ tầng và lưu lượng phương tiện..
Chất thải từ các phương tiện giao thông chủ yếu là oxitcacbon, oxitnito, bụi hạt(pm)
.v.v gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường góp góp phần làm tăng nguy cơ gây
hiệu ứng nhà kính, ngoài ra nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người ,
các bênh về hô hấp.
Giải pháp:
Cải thiện vận tải công cộng như : cấu tạo tuyến đường hiệu quả hơn, giá vé thấp hơn,
thông tin tốt hơn, dịch vụ phục vụ thường xuyên hơn … Đặt ít bãi đỗ xe trong thành
phố hoặc đánh thuế cao trên các bãi đỗ tự do ở các nơi làm việc, tăng lệ phí đỗ xe. Tuy


nhiên với Việt Nam, một nước có mật độ giao thông bằng ô tô còn thấp thì biện pháp
này hiện nay chưa thích hợp nếu áp dụng quá cứng nhắc.
Lập lại trật tự đô thị bằng cách xây dựng lại các phố và tạo những hành lang đi bộ an

toàn cho khách bộ hành và xe đạp, tách biệt hẳn với đường dành cho động cơ. Tiến
hành điều chỉnh và thiết lập các lối cho người đi bộ băng qua đường.
Phối hợp với các cơ quan của bộ hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
giao thông vận tải, quy hoạch giao thông vận tải để kết nối với giao thông, tiếp tục
hoàn thiện đầu tư cho hạ tầng, đặc biệt là phối hợp với bộ triển khai các dự án giao
thông trọng điểm trên địa bàn; tiếp tục áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ nhằm giảm ùn
tắc giao thông, không để phát sinh các điểm ùn tắc mới.
Bảo vệ môi trường sao cho không để tình trạng các công trình xây dựng, giao thông
bụi mờ mịt như hiện nay. Nên thay thế hệ thống xe bus vốn quá lạc hậu như hiện tại
bằng hệ thống xe chạy điện như trước đây, song hành với đẩy nhanh tiến độ xây dựng
hệ thống tàu điện trên cao, tàu điện ngầm, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, xử phạt nghiêm để hình thành văn hóa giao thông.
3.6.Xây dựng
Kết cấu hạ tầng xây dựng có vai trò đặc biệt quan trọng với bộ mặt đô thị. Ngoài một
bộ phận các nhà máy, công ty, các cơ quan tổ chức được đầu tư xây dựng thì vấn đề
nhà ở của người dân đang trở thành một vấn đề lớn của xã hội học đô thị.
Sự phân tầng trong xã hội đã nảy sinh 2 vấn đề chính về nhà ở.
Trong cơ chế thị trường, hy vọng có được nhà ở tối thiểu của người nghèo là khó được
thực hiện nếu không có sự trợ giúp của nhà nước do giá nhà đã vượt xa khả năng kinh
tế của họ. Do đó việc thiếu nhà ở hay hàng vạn hộ gia đình hiện nay phải sống trong


điều kiện ở “ dưới tiêu chuẩn” vẫn còn là một vấn đề thời sự, bức thiết ở các đô thị lớn
như Hà Nội, tp.Hồ Chí Minh..vv..
Theo kết quả điều tra của một số tổ chức thì mức thu nhập của người nghèo ở tp hcm
là 700000/tháng trong khi người giàu gấp 10 lần con số đó, ngoài ra cũng còn những
tầng lớp khác trong đó như sinh viên, công nhân, viên chức.v.v thu nhập của mỗi thành
phần này là khác nhau và thường cũng không cao chỉ ở mức thấp đến trung bình, họ
vẫn phải sống tại các dãy trọ ọp ẹp, chật chội.
Trong khi những người có điều kiện kinh tế thuộc vào loại giàu và rất giàu thì họ có

khả năng xây, tậu những công trình lớn, có khả năng hoạt động và chi phối thị trường
nhà đất, bất chấp người nghèo. Họ cũng chi phối cả lực lượng thiết kế, xây dựng theo ý
muốn của họ, và vì thế rất dễ vi phạm các nguyên tắc, tiêu chuẩn của công tác đo thị.
Mặt khác vẫn còn tồn tại một nhóm người không thể đủ điều kiện cải thiện điều kiện
cư trú vốn rất tồi tàn của họ, sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn do giá đất , giá
nhà ngày một tăng và nhu cầu của cuộc sống cũng ngày một nâng cao. Kết quả là
không tránh khỏi tồn tại của các khu nhà ổ chuột bên cạnh các biệt thự, khách sạn sang
trọng mà không thể dễ dàng giải tỏa, quy hoạch được. Các khu nhà ổ chuột là nơi sinh
sống của một bộ phận người dân nghèo dọc theo các kênh rạch, ven sông Sài Gòn và
thậm chí là ngay dưới các tòa nhà cao ốc tráng lệ, phần lớn các ngôi nhà đều có chiều
ngang 3m, chiều dài 15 m được làm một cách tạm bợ, lụp xụp và có thể sập bất cứ khi
nào.
Theo thống kê mới nhất của sở xây dựng tp Hồ Chí Minh, có hơn 17000 căn nhà ổ
chuột nằm rải rác, lẻ tẻ tại các kênh, rạch, ven sông SG.v.v. Ngay giữa lòng thủ đô Hà
nội, các khu vực gần cầu Long Biên vẫn còn những ngôi nhà xập xệ của người lao
động nghèo.
Vấn đề quy hoạch đô thị: Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, việc quy hoạch tiến
hành chậm so với thực tế xây dựng đô thị, quy hoạch đô thị còn thiếu và chất lượng


còn hạn chế. Kiến trúc đô thị phát triển chưa có tính định hướng, nhiều di sản, kiến
trúc đô thị phát triển còn vi phạm và biến dạng nghiêm trọng.
Trong các khu đô thị mới phần lớn đất đai dành phát triển quỹ nhà ở, xây dựng công
trình dịch vụ để bán, cho thuê khiến diện tích cây xanh, khu vui chơi công cộng bị thu
hẹp tối đa. Nếu xét về lợi ích kinh tế trước mắt cách đầu tư xây dựng này sẽ giúp chủ
đầu tư thu hồi vốn và có lãi nhanh, nhưng về lâu dài nó lại ảnh hưởng đến chất lượng
môi trường cũng như chất lượng dịch vụ xã hội(công viên, cây xanh, tuyến đi bộ).
Sự phân tầng trong xã hội ảnh hưởng đến thái độ của người dân về những vấn đề chính
sách, pháp luật có liên quan đến công tác quy hoạch đô thị.
Thiếu sự thống nhất giữa nhà quản lý, nhà tư vấn quy hoạch, nhà xây dựng trong quá

trình quản lý quy hoạch và kiểm soát phát triển đô thị.
Giải pháp :
Cải thiện nâng cấp nhà ở cũ và giải pháp thiết kế mới cho các loại hình nhà ở.
Có chính sách về thuế, về giá đất và nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi trong công
tác vay vốn đề người có thu nhập thấp có điều kiện mua nhà, giảm hiện tượng người
cần không mua được, chủ dầu tư không bán được nhà, khuyến khích người dân sống
trong khu chung cư, việc làm này sẽ cải thiện đáng kể tình trạng xây dựng tự do, tràn
lan làm phá vỡ không gian đô thị và quá tải về các công trình hạ tầng kỹ thuật.
Cần tập trung quy hoạch các khu đô thị một cách đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ,
nhanh chóng giải tỏa mặt bằng các khu nhà ổ chuột, xử lý hậu quả về vấn đề môi
trường, ổn định cuộc sống tái định cư của những hộ dân sống ở đây.
Thực hiện các chính sách về xây dựng, phát triển kinh tế tại các vùng nông thôn nhằm
giảm áp lực về dân số cho các thành phố lớn.


3.7. Môi trường
quá trình đô thị hóa công nghiệp hóa đang thúc đẩy nhanh tình trạng ô nhiễm môi
trường nhất là ở các tp lớn, khu cn, khu chế xuất.
- Hệ thống cấp nước đô thị
Hiện nay, số lượng giếng khoan trên địa bàn các thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh là không thể kiểm soát nổi. Chính tình trạng khoan giếng một cách bừa bãi
như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn nước mặt và nước ngầm gây ô nhiễm
nguồn cung cấp nước chính cho các nhà máy nước đô thị
Theo kết quả thống kê cho biết, khoảng 70% hệ thống cấp nước đô thị lấy từ nguồn
nước mặt, 30% lấy từ nguồn nước ngầm. Hệ thống phân phối nước lại cũ kỹ, hư hỏng,
rò rỉ làm thất thoát tới 30-40% lượng nước cung cấp . Như vậy lượng nước máy cung
cấp đến người dân đô thị còn thấp (ở các thành phố loại I, tỉ lệ dân số được cung cấp
nước máy chiếm 49,2%, ở thành phố loại II tỉ lệ này là 47,1%) . Còn lại phần lớn dân
cư tự khoan giếng lấy nước sinh hoạt.
- Hệ thống thoát nước thải và vệ sinh môi trường

Tại các khu đô thị, tình trạng sử dụng nhà vệ sinh không hợp tiêu chuẩn vẫn tồn tại (ở
Hà Nội là các khu phố cổ, ở thành phố Hồ Chí Minh là các vùng kênh rạch
Theo báo cáo chiến lược vệ sinh và thoát nước đô thị Quốc gia cho thấy, ở Hà Nội, số
hộ gia đình không có nhà vệ sinh chiếm tới 43%, thành phố Hồ Chí Minh là 18%.
Mặt khác, hệ thống cống thoát nước thải cũng không đúng tiêu chuẩn, không có bất kỳ
một hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nước thải được đổ trực tiếp vào hệ thống thoát
nước chung và đổ ra các ao hồ sông ngòi trong thành phố (ở Hà nội, sông Tô Lịch và
sông Kim Ngưu là hai con sông được coi là bẩn nhất với hàm lượng các chất ô nhiễm
đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép).
- Hệ thống thoát nước mưa và tình trạng úng lụt


Hệ thống thoát nước mưa ở hầu hết các khu đô thị đều rất kém. Ở Hà nội chỉ cần một
trận mưa khoảng 50mm/h sẽ làm cho khoảng 42 điểm trong nội thành bị ngập nước,
đặc biệt là khu vực đường Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thái Học…
Nguyên nhân chính của tình trạng úng lụt là do các đường ống thoát nước có đường
kính nhỏ, không kịp thoát nước, thêm vào đó là các sông ngòi, ao hồ thoát nước đều bị
bồi lấp, tồn tại nhiều lòng chảo trong phạm vi thành phố và do mặt bằng đô thị Hà Nội
lại thấp hơn so với mực nước sông Hồng.
- Hệ thống xử lý chất thải rắn và tình trạng ô nhiễm đất
Hiện nay ở các thành phố lớn chưa có biện pháp xử lý rác thải đúng tiêu chuẩn kỹ
thuật. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có xưởng xử lý rác thải hữu cơ nhưng
công suất thấp (chỉ bằng 1% lượng rác thải trong thành phố).
Rác thải bệnh viện đang là một vấn đề gây rất nhiều sự chú ý của người dân. Các bệnh
viện hầu hết chưa có lò đốt rác hợp vệ sinh. Không những thế khu vực đặt lò đốt rác lại
sát ngay khu dân cư, khi đốt dân cư xung quanh sẽ hít phải những mùi rất khó chịu và
rất độc hại. Đó là chưa kể đến tình trạng rác thải bệnh viện không được phân loại mà
đổ chung với rác thải thông thường không qua xử lý. Đây là nguy cơ lây lan các căn
bệnh truyền nhiễm.
Gần đây, ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nhiều bệnh viện đã có lò đốt rác thải

hợp tiêu chuẩn vệ sinh y tế nhưng vẫn chưa xử lý hết được lượng chất thải bệnh viện.
Ngoài ra ở một số bệnh viện nhỏ do kinh phí còn hạn hẹp nên không có lò đốt rác hoặc
nếu có thì cũng không thể đưa vào hoạt động.
Phương pháp xử lý rác phổ biến hiện nay ở các đô thị là chôn ủ tại các bãi rác tập
trung. Nhưng hiện nay chưa có bãi rác nào được coi là đảm bảo được vệ sinh môi
trường, từ đó gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí khu vực lân
cận.
- Hệ thống giao thông và tình trạng ô nhiễm không khí


Tỉ lệ xe máy, ôtô tăng nhanh, ước khoảng từ 17-20% mỗi năm . Các loại xe phần lớn là
cũ kỹ lạc hậu, hệ thống đường lại trong tình trạng quá tải hoặc thiếu sửa chữa, bảo
dưỡng, xe thô sơ đi lẫn với xe cơ giới nên các xe phải thường xuyên thay đổi tốc độ,
khí thải xả ra nhiều và gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng.
+ Ô nhiễm bụi: Hà Nội khoảng 1,2mg/m3, gấp 3 – 4 lần tiêu chuẩn cho phép; Hải
Phòng khoảng 1,8mg/m3; thành phố Hồ Chí Minh khoảng1,6mg/m3.
+ Ô nhiễm SO2: Đường Nguyễn Trãi Hà nội lên tới 1,5-7,5 mg/m3 (gấp 3-15 lần tiêu
chuẩn cho phép).
+Tiếng ồn: ở Hà Nội, đo lường trên một số trục đường chính cho thấy mức ồn giao
thông trung bình trong cả ngày khoảng 75-79 dB; Hải Phòng là khoảng 73-74 dB.
Giải pháp
- Biện pháp chống tiếng ồn
Trồng cây xanh ngăn cách giữa khu dân cư với các khu công nghiệp, đường giao thông
làm giảm cường độ âm thanh khi lan truyền trong không khí khoảng 15-18dB.
- Biện pháp điều chỉnh giao thông
Cải thiện vận tải công cộng như cấu tạo tuyến đường hiệu quả hơn, giá vé thấp hơn,
thông tin tốt hơn, dịch vụ phục vụ thường xuyên hơn … Đây là biện pháp cần có sự hỗ
trợ tích cực và bù lỗ của chính phủ để đạt được lợi ích lâu dài, làm cho vận tải công
cộng trở nên hấp dẫn và thuận tiện hơn cho người dân, giảm tình trạng ách tắc giao
thông do lưu lượng xe lưu thông trên đường quá lớn.

Đặt ít bãi đỗ xe trong thành phố hoặc đánh thuế cao trên các bãi đỗ tự do ở các nơi làm
việc, tăng lệ phí đỗ xe. Tuy nhiên với Việt Nam, một nước có mật độ giao thông bằng ô
tô còn thấp thì biện pháp này hiện nay chưa thích hợp nếu áp dụng quá cứng nhắc.
Xây dựng lại các phố, xây đường dành riêng cho người đi xe đạp, tách biệt hẳn với
đường dành cho động cơ.


- Biện pháp giải quyết rác thải
Tiến hành thu gom, phân loại rác ngay từ nguồn tạo chất thải để tái sử dụng.
Nhà nước cần đầu tư trang thiết bị cho việc vận chuyển thu gom rác thải bởi thực tế cho
thấy việc thu gom vận chuyển rác chi phí tới 70-80% tổng chi phí dành cho quản lý
kiểm soát chất thải rắn ở đô thị.
Đối với các nhà máy, nhà nước có thể áp dụng biện pháp quy định mức chuẩn thải và
phí xả thải đối với lượng chất thải mà hãng xả ra, yêu cầu các hãng phải lắp đặt các hệ
thống xử lý chất thải trước khi đổ ra hệ thống thoát nước thành phố, hệ thống lọc bụi và
hấp thụ khí độc hại. di chuyển một số nhà máy xí nghiệp lớn ở nội thành ra khu công
nghiệp ở ngoại thành
Cần phải quan tâm bảo vệ môi trường nước mặt và nước ngầm, xây dựng các nhà máy
xử lý rác độc hại, đảm bảo các bãi đổ rác, ủ rác đúng tiêu chuẩn kỹ thuật
Tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng về tầm quan trọng của môi trường đối
với sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Công khai các thông tin, số liệu liên quan đến
tình hình ô nhiễm và các nguồn gây ô nhiễm môi trường trên các phương tiện truyền
thông để nâng cao ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường sống trong đô thị.
Tích cực thực hiện các biện pháp tuyên truyền, khuyến khích cộng đồng sử dụng các
nhiên liệu sạch trong sinh hoạt thay cho các loại nhiên liệu gây ô nhiễm không khí và
nguồn nước sinh hoạt.
IV KẾT LUẬN
Xã hội học đô thị và các mô hình kinh tế ngày càng phục thuộc nhiều vào các mô hình
xã hội của cuộc sống đô thị. Việc mở rộng, quy hoạch, xây dựng ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống của người dân đô thị trong các lĩnh vực lao động sản xuất, sinh hoạt – vui

chơi, giải trí…của người dân.


Quá trình hình thành đô thị ở Việt Nam dẫn tới biểu hiện của các hiên tượng khác nhau.
Đô thị gắn với khu công nghiệp, hiện tượng gắn với việc làm và lao động, đô thị là thủ
phủ hành chính gắn với các viên chức nhà nước.
Chính vì thế, nếu hiểu được bản chất, tiến trình của xã hội học đô thị sẽ giúp cho các
nhà Lãnh đạo, chức trách có những hoạch định, chính sách phát triển đúng đắn.
Qua bộ môn Xã hội học, nhóm đã có những kiến thức khái quát về vấn đề xã hội học đô
thị, góp phần vận dụng và định hướng tốt hơn cho các môn học sau, trong quá trình
làm tiểu luận vẫn còn những sai sót và hạn chế từ việc chắt lọc thông tin, sắp xếp nội
dung cho đến trình bày rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài tiểu luận của nhóm
được tốt hơn.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×