Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tại sao đại cương về văn hóa Việt Nam lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa của các cộng đồng người sinh sống trong phạm vi lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.89 KB, 9 trang )

A. MỞ BÀI
Cho đến nay văn hóa Việt Nam đã trải qua nhiều biến động, nhưng do hoàn
cảnh địa lý – khí hậu và lịch sử - xã hội riêng nên dù biến động đến đâu, nó vẫn
mang trong mình những nét bản sắc không thể trộn lẫn được với một tiến trình tạo
thành ba lớp văn hóa rõ rệt: Nó hình thành trên nền của văn hóa Nam và Đông Á
(lớp văn học bản địa). Trải qua nhiểu thế kỷ, nó đã phát triển trải qua sự giao lưu
mật thiết với văn hóa khu vực, trước hết là Trung hoa (lớp thứ hai). Từ vài thế kỷ
trở lại đây nó đang chuyển mình dữ dội nhờ đi vào giao lưu ngày càng chặt chẽ với
văn hóa phương Tây (lớp thứ ba).Để hiểu rõ hơn về văn hóa Việt Nam em xin
được nghiên cứu sâu hơn về vấn đề 17: “ Tại sao đại cương về văn hóa Việt Nam
lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa của các cộng đồng người sinh sống trong
phạm vi lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”
Bài viết được hoàn thành trong thời gian có hạn, nguồn tư liệu còn nhiều hạn
chế nên không thể tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của
thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. PHẦN NỘI DUNG
I.
Khái niệm
1. Văn hóa là gì?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về
văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc
trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
1


Tóm lại, ta cũng có thể hiểu rằng: “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động


thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.”
2. Các yếu tố cấu thành văn hóa Việt Nam
a. Yếu tố mang tính phổ biến (nhân loại)
Đây là những yếu tố mang tính duy lý và phổ quát, chung cho toàn nhân loại và
chủ yếu là gắn với các hệ giá trị chuẩn của văn minh công nghiệp và hậu công
nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, những chuẩn mực về
kỹ thuật, tài chính, pháp lý, các tri thức khoa học, các giá trị đạo đức và thẩm mỹ
tiến bộ đang phát tán rộng khắp thế giới để hình thành nên các chuẩn mực ứng xử
chung cho mọi dân tộc. Chẳng hạn như việc áp dụng các quy phạm quốc tế về nhân
quyền, về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững , về vệ sinh dịch tễ và an toàn
thực phẩm… không còn là những yêu cầu riêng của một dân tộc.
Xét từ giác độ văn minh, nhân loại đang kiến tạo nên một nền văn hóa chung
mang tính phổ quát.
b. Yếu tố mang tính đặc thù (khu vực)
Cái đặc thù, theo quan điểm biện chứng, được hiểu là sự thống nhất giữa tính
phổ biến và tính đơn nhất. Trạng thái hòa trộn giữa tính phổ biến với tính đơn nhất
trong văn hóa tạo nên những sắc thái đặc thù mang tính khu vực. Sắc thái này vừa
dùng để phân biệt một khu vực văn hóa này với những khu vực còn lại trên thế
giới; song lại vừa dung để xác định tính đồng nhất văn hóa trong bản than khu vực
ấy. Theo nghĩa đó, những yếu tố đặc thù trong văn hóa Việt Nam cũng chính là
những yếu tố đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á.
c. Yếu tố mang tính đơn nhất (dân tộc)
2


Là những yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Văn hóa tồn tại và vận
động trong không gian dân tộc. Không có văn hóa chung thì các cộng đồng thiếu
điểm tựa tinh thần để liên kết thành dân tộc. Nhưng không có dân tộc thì cũng
không có văn hóa vì thiếu đi cái chủ thể để liên kết những giá trị sáng tạo chung.
Thiếu đi không gian tồn tại của văn hóa. Trong phạm vi ảnh hưởng đối với con

người, văn hoá là những yếu tố đã định hình, ổn định “neo giữ” những giá trị
chung. những giá trị chân - thiện - mỹ, Trên bình diện xã hội, văn hóa là kết quả
của sự tương tác giữa các giá trị trong những quan hệ sống. là kết quả của sự tích
luỹ và kế thừa vừa là kết quả của sáng tạo và giao lưu, vừa là cái truyền thống vừa
là cái hiện đại, vừa là cái bảo tồn vừa là cái phát triển. Ai đó đã nói: “văn hóa là cái
còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”
đó cũng chính là nét chân thực của văn hóa.
Văn hóa như một cơ thể sống. văn hoá là sản phẩm của con người, Văn hóa giáo
dục con người hướng thượng, hướng thiện, hướng mĩ, sống có nhân cách tử tế, Văn
hóa giúp cho con người sự biết sống đẹp, có thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh.
II. Thực tiễn của văn hóa Việt Nam
1. Văn hóa nhân cách
- Những phẩm chất nổi trội trong tính cách người Việt
Khi xét đến yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên, có thể thấy Việt Nam là một
xứ sở có những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trải qua hang ngàn
năm, người Việt vẫn duy trì một nền nông nghiệp lúa nước trên châu thổ các con
sông lớn như: sông Hồng, sông Mã, sông Cửu Long… và dọc theo duyên hải. Chín
vì vậy người Việt bị trói chặt vào kinh tế nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp, cư dân
nông dân, xã hội nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người
Việt Nam. Do đó, những căn tính nông dân, những đặc trưng của một xã hội nông
nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam.
3


- Lối sống
+ Văn hóa ăn: Văn minh Việt Nam – nền văn minh thực vật hay văn minh
thôn giã, văn hóa lúa nước mang tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) in dấu
đậm nét trong đời sống hàng ngày của con người Việt Nam. Trong bữa an của
người Việt thường xuất hiện ba thành phần chính là: Cơm – Rau – Cá. Bên cạnh
đó, bữa ăn của người Việt cũng mang đậm dấu ấn văn hóa ẩm thực của khu vực

Đông Nam Á, thể hiện ở: Tính tổng hợp trong chế biến cũng như trong thưởng
thức các món ăn; tính đa dạng trong chế biến món ăn; tính linh hoạt và hài hòa
trong việc lựa chọn món ăn và cách thức sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
+ Văn hóa mặc: Những đặc trưng đó là thường sử dụng các chất liệu thực vật
có sẵn trong tự nhiên như sợi gai, đay, chuối, bông và sau này là tơ tằm nhằm tạo
ra các trang phục mỏng và nhẹ phù hợp với thời tiết nóng ẩm. Chú trọng đến bền
chắc (ăn lấy chắc, mặc lấy bền). Thường chọn các màu sắc âm tính (nâu, đen,
chàm,…). Sử dụng các màu sắc dương tính (đỏ, vàng, xanh lá cây,…) vào các dịp
lễ hội.Phụ nữ vận váy “quai cồng”, yếm (thời xưa), áo tứ thân, quần lĩnh, áo dài
(tân thời), đội khăn, thắt lung, và trang phục kín đáo. Đàn ông cởi trần đóng khố,
quần “lá tọa”, áo cánh.
+ Văn hóa giao tiếp: Một số đặc trưng trong giao tiếp của người Việt là: Vừa
cởi mở, vừa rụt rè; xử sự nặng về tình cảm hơn lý trí; trọng danh dự thái quá; giữ ý
trong giao tiếp nên thường không biểu lộ trực tiếp cảm xúc, nguyện vọng hay nhu
cầu trước mặt người khác và thiếu tính quyết đoán.
+ Nghệ thuật ngôn từ: Mang tính ước lệ cao, tính so sánh và tương phản cao,
giàu tính nhịp điệu và tiết tấu, giàu chất biểu cảm, linh hoạt và mềm dẻo.
+ Văn hóa đi lại: Hệ thống giao thông đường bộ của người Việt kém phát
triển, người Việt thường sử dụng đường thủy để vận tải và rất thành thạo nghề
4


sông nước. Các phương tiện vận tải khá thô sơ: đường bộ - sử dụng gia súc kéo,
đường thủy – tận dụng sức gió, sức nước.
+ Văn hóa ở và kiến trúc: Kiến trúc truyền thống của người Việt khá đa dạng,
phức tạp và chứa nhiều yếu tố vay mượn. Tuy nhiên, nó vẫn có những nét đặc
trưng để khẳng định bản sắc riêng của mình.
2. Văn hóa làng xã
- Đặc trưng thứ nhất: Chủ nghĩa tập thể
Có thể nhận thấy rằng trong truyền thống cộng đồng Việt Nam, ít thấy những

quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng đồng lớn mà thường là quan hệ trách
nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Để duy trì những quan hệ cộng đồng, cá nhân phải
hòa mình vào tập thể và ngược lại cơ chế quản lý làng xã phải được tổ chức sao
cho đảm bảo được quyền bình đẳng giữa các thành viên.
- Đặc trưng thứ hai: Thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới và
không có năng lực tực biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội.
Làng xã vận hành theo nguyên tắc mặc định và cứng nhắc. Độ vênh giữa lệ
làng “bất di bất dịch” với đời sống vật chất và nội tâm của cá thể “luôn biến động”
theo chiều hướng ngày một giãn rộng, tới độ, để có thể duy trì sự tồn tại của mình,
lệ làng bóp nghẹn mọi tiềm năng sáng tạo, mọi ý thức về cái tôi của chủ thể. Nhân
cách, và tính đa dạng của nhân cách, bị tan biến trong cộng đồng làng xã.
- Đặc trưng thứ ba: tính tự quản
Tính tự quản thể hiện ở chỗ; việc các thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một
yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương.Tính tự quản của
làng xã còn thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng xã với chính quyền trung
ương.
5


- Đặc trưng thứ tư: chủ nghĩa cục bộ địa phương
Trong không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mọi vấn đề phát
sinh đều có thể quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”.
3. Văn hóa đô thị
Đô thị ở Việt Nam, trước hết, là trung tâm chính trị, rồi sau đó mới là kinh tế và
văn hóa.
- Thể chế làng xã của Việt Nam mang tính bao trùm tới mức tất cả các cộng
đồng lớn nhỏ đều là sự phóng chiếu của chính nó. Có thể nói, “Siêu làng lớn nhất
là nước, là dân tộc”.
- Các làng nghề của Việt Nam không thể phát triển thành các thị trấn để từ
đó phát triển tiếp lên thành các đô thị, bởi: “Nghề” chỉ là một hoạt động phụ thu so

với canh tác nông nghiệp của làng. Hệ thống giao thông không phát triển.Thị
trường tiêu thụ không mở rộng được.
- Thành kiến của người Việt đối với thương nghiệp rất nặng. Tư tưởng “trọng
nông, ức thương” bám rễ quá sâu trong mỗi người dân.Có thể nói tình trạng này
còn trầm trọng hơn cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á khác.
- Ở Việt Nam, không tồn tại một tầng lớp thương nhân độc lập, mà chỉ có những
thương nhân gắn chặt với làng quê. Vì vậy, không thể có văn hóa riêng và do đó
cũng không thể có văn hóa đô thị đích thực.
4. Văn hóa Nhà nước – dân tộc
a. Đất nước trong quan niệm của người Việt Nam
Đất nước không phải của Vua hay bất cứ dòng họ nào mà của chính người
dân. Người Việt Nam sống ở vùng đất trẻ, nhiều đầm lầy, kênh rạch sông ngòi và
6


trải dài theo bờ biển, nên để định cư được, họ phải tiến hành khai hoang mở đất, trị
thủy. Vậy nên, đất đai, lãnh thổ không phải là “cái có sẵn” một cách tự nhiên mà
phải đấu tranh, thậm chí phải “tạo ra” – mới có được. Do đó, thái độ của người
Việt Nam đối với đất nước thì hoàn toàn khác so với Trung Quốc hay các nước
Châu Âu: các vị vua của Việt Nam không thể cắt đất của các làng xã để phong hầu
cho những kẻ có công, và cũng không được phép chuyển nhượng đất đai cho thế
lực bên ngoài.Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, hễ ai có thể lãnh đạo các tộc
người chống được ngoại xâm thì người đó được tôn vinh làm vua bất luận người ấy
thuộc thành phần xuất thân nào hoặc thuộc tộc người nào.
b. Chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước thì không phải chỉ ở người Việt Nam mới có.Nhưng sự khác
biệt so với những dân tộc khác chính là ở những sức mạnh cấu thành chủ nghĩa yêu
nước của người Việt Nam. Những sức mạnh căn bản đó là:
- Sức mạnh của phật giáo
- Sức mạnh của truyền thuyết

-

Áp lực của hoàn cảnh tự nhiên và điều kiện địa lý đối với đời sống

của các tộc người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam.
- Sức mạnh của ý thức về chủ quyền quốc gia ở người Việt Nam
Có thể nói, quan niệm về nước và chủ nghĩa yêu nước là những đặc thù văn hóa
nổi trội nhất trong bản sắc của người Việt Nam.

III. KẾT LUẬN

7


Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14%
tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 86%, tập
trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển.Văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Có một nền
văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng
đồng 53 dân tộc anh em có nhiều phong tục tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội
nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự
khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ
trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học,
nghệ thuật.
Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra
những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam.
Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ
về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng
Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những
ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của

Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt
Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh
mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt
Nam hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
8


1. TS. Phạm Thái Việt (chủ biên), TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về văn
hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2004;
2. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999;
3. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà
4.
5.

Nội, 2002;
/>

9



×