Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận khoán hộ và thể chế quản lý mới trong sản xuất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.19 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC & KHOA HỌC XÃ HỘI

TIỂU LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chủ đề: Khoán hộ và thể chế quản lý mới trong sản xuất nông nghiệp.
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Mã sinh viên:
Giảng viên hướng dẫn:
Hà Nội, 24 tháng 9 năm 2016

Hà Văn Long
QL19.02
14101263
Ths. Nguyễn Thị Tâm


MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của Ths. Nguyễn Thị Tâm – Giảng viên tại khoa triết học &
khoa học xã hội, trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội.
Các nội dung trong tiểu luận này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Những số liệu trong tiểu luận phục vụ cho việc phân tích,
chứng minh được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong
phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong tiểu luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn
gốc.


Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung tiểu luận của mình. Trường đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
không liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá
trình thực hiện (nếu có).

Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Hà Văn Long

2


LỜI MỞ ĐẦU

Q

ua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp,
nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Kinh tế tăng trưởng khá,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát
triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối
ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.

Và một trong những thành tựu đáng tự hào đó phải kể đến bước nhảy vọt
mạnh mẽ nghành nông nghiệp. Từ chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp với tư duy
quản lý tập thể, cơ chế hoá trong nông nghiệp, với hình thức khoán việc, đến sự ra
đời của hình thức khoán hộ. Từ khoán hộ ở một xã, huyện một cách công khai đến
khoán chui, khoán lùi, rồi khoán sản phẩm, khoán lúa, khoán 100 và khoán 10 là cả
một chặng đường ghệp ghềnh, gian nan, đi từ thử nghiệm này đến thử nghiệm khác
và từng bước điều chỉnh để tìm ra con đường phát triển đúng đắn và phù hợp cho
nông nghiệp nước ta. Từ một nước nông nghiệp thiếu đói triền miên, chỉ sau vài
năm đổi mới, Việt Nam đã tự lực được lương thực và vươn lên trở thành nước
đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Bài học về khoán hộ và sự thăng trầm của khoán hộ là một thực tế đáng suy
ngẫm trong quá trình đi đến đổi mới ở Việt Nam. Khoán hộ không chỉ là vấn đề
của quá khứ, nó còn nhiều bài học nóng hổi cho giai đoạn phát triển đất nước hiện
nay.

3


GIỚI THIỆU KIM NGỌC

I.
1.

Tiểu sử và gia đình

Ông Kim Ngọc tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh ngày 10/10/1917 tại thôn
Đại Nội, xã Bình Định, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc trong một gia đình nông dân
nghèo. Ông chỉ học hết lớp 5, rồi tự học để lên được lớp 7, nhưng những tư duy đổi
mới của ông vào thời đó có thể nói là ít người sánh kịp.
Năm 1947, ông lấy bà Lê Thị Liên và sau đó lần lượt sinh được 6 người con

(cả 6 người con của ông bây giờ đều thành đạt). Ông Ngọc tham gia hoạt động
cách mạng từ năm 1939, đến năm 1954 ông đã là Phó Chính uỷ Quân Khu Việt
Bắc.
Năm 1958 ông về làm Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc, quê hương ông. Suốt 24
năm ông làm bí thư tỉnh uỷ đều gắn với hạt lúa của người nông dân, nhất là gắn
với những thăng trầm của khoán hộ.
Ông Nguyễn Thành Tô, thư ký riêng nhiều năm liền cho ông Kim Ngọc kể:
Ngay từ hồi những năm 60, khi mà sự giáo điều trong nhận thức lúc đó còn hết sức
nặng nề về “ăn ngon, mặc đẹp, ở sang” (đồng nghĩa với sự sùng bái vật chất tư bản
chủ nghĩa), nhưng ông Kim Ngọc phát biểu trong Đảng bộ tỉnh đã khẳng định một
chân lý có thể nói là cực kỳ táo bạo về sự phấn đấu của người đảng viên là làm sao
để: “Dân luôn được: ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, học hành chữa bệnh không mất
tiền”. Ông nói, đấy chính là mục tiêu của CNXH.
Một con người chỉ học hành hết lớp 7, vậy mà tư duy đã thật đi rất xa so với
thời gian. Chính những năm 65-67, khi Vĩnh Phúc làm khoán hộ, đời sống của
người dân khấm khá hẳn lên. Ông Trường Chinh về thăm Vĩnh Phúc đã phải tặng
bài thơ: “Phù Lập làm phân thật khác thường/Phương Trù thuỷ lợi đáng nêu
gương/Chăn nuôi tập thể Hoà Loan giỏi/Cây rợp bên đường bóng Lạc Trung” (các
địa danh ở Vĩnh Phúc) (ký bút danh Sóng Hồng).

2.

Cuộc đời và sự nghiệp

Năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1946 ông làm Bí thư Huyện ủy Tam Dương.
Năm 1947 ông làm Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Vĩnh Yên.
4



Năm 1950 ông làm Bí thư Huyện ủy Bình Xuyên.
Ông từng làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, từng tham gia khu ủy Việt Bắc;
Năm 1954 ông là Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc, Chính ủy Cục Công binh, sau
đó là Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ.
Đến năm 1958 là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc (từ tháng 3 năm 1952 đến tháng
10 năm 1955 và từ tháng 1 năm 1959 đến 1968).
Năm 1968 hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ sáp nhập thành tỉnh Vĩnh Phú, ông tiếp
tục giữ chức vụ Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú cho đến năm 1977.
Tháng 5 năm 1977, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú lần thứ III, Kim
Ngọc xin rút khỏi chức bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú.
Năm 1978, Kim Ngọc chính thức về hưu.
Ngày 26 tháng 5 năm 1979 Kim Ngọc mất ở tuổi 62 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Hà Nội.
Kim Ngọc là người khởi xướng việc "khoán hộ" trong nông nghiệp ở Việt
Nam vào thập kỷ 60 của thế kỷ 20. Thời kỳ đó do sự bắt chước một cách máy móc
mô hình tổ chức xã hội của Liên Xô, các nhân vật cấp cao trong đảng Cộng sản đã
không đánh giá đúng về khoán hộ nên ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim Ngọc phải
làm kiểm điểm và tự nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ". Tuy nhiên,
ông vẫn được tiếp tục bầu làm bí thư tỉnh uỷ.
Theo lời ông Nguyễn Thành Tô, thư ký riêng của Kim Ngọc, thì ông chưa
bao giờ bị kỷ luật, kể cả trong khoán hộ mà "chỉ" bị làm bản kiểm điểm và tự phê
bình nghiêm túc, sau khi có chỉ đạo trực tiếp của Trường Chinh, lúc bấy giờ là Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng.

3.

Những cống hiến

Cách khoán của Khoán hộ:





Khoán cho hộ làm một khâu hoặc nhiều khâu sản xuất trong một thời gian dài;
Khoán cho hộ các khâu dài ngày hoặc suốt vụ;
Khoán sản lượng cho hộ, cho nhóm;
5




Khoán trắng ruộng đất cho hộ - Hình thức khoán trắng đơn giản, dễ tính toán
nên được nông dân hưởng ứng rầm rộ và tự nó đã thành phong trào quần chúng
rộng rãi trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Có thể nói khoán hộ là bước mở đầu cho
một tư duy mới về quản lý kinh tế hợp tác xã.

Sáng kiến "khoán hộ" hay "Cải tiến công tác quản lý lao động hợp tác xã"
năm 1966, đã dẫn đến "khoán 10" hay "Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1988", tháo bỏ sự ràng buộc, kìm hãm của cơ chế quản lý lạc
hậu, đưa Việt nam bao năm thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế
giới. Nghị quyết 10 hoàn toàn dựa trên những kinh nghiệm đúc kết của nhiều tỉnh
thành Việt Nam đã âm thầm áp dụng khoán hộ của Kim Ngọc.

4.

Tôn vinh và ghi danh

Năm 1995, ghi nhận những đóng góp công lao, trí tuệ của ông cho sự nghiệp đổi
mới của cách mạng Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã tặng Huân chương Độc lập
hạng Nhất cho Kim Ngọc.
Năm 1996, hai ngôi trường nơi ông sinh ra ở xã Bình Định, huyện Yên Lạc được

đặt tên ông.
Năm 2004, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam tặng gia đình ông bức
tượng tạc bằng đồng nặng tới 45 kg để biểu thị lòng kính trọng Kim Ngọc.
Năm 2005, một trong những con đường đẹp nhất của thành phố Vĩnh Yên cũng
được mang tên ông.
Năm 2009, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Năm 2009, Hãng phim Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất bộ phim truyền hình 50
tập "Bí thư Tỉnh ủy" lấy nguyên mẫu cuộc đời ông.

6


TÌNH HÌNH XÃ HỘI VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA KHOÁN HỘ

II.
1.

Mô hình hợp tác xã và khoán việc

Với nhận thức: “…còn chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lối
làm ăn riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật chất và điều kiện xã hội cho khuynh hướng
tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở”, sau khi thực hiện cải cách ruộng đất và cải tạo
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đề mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc. Trong nông nghiệp chủ trương thực hiện phong trào hợp tác
hoá, thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, hô hào nông dân tham gia hợp tác xã.
Tính đến cuối tháng 3-1959, toàn miền Bắc đã có 6.830 hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp bao gồm 7% nông hộ và gần 70% nông hộ vào tổ đổi công (21% nông hộ
vào tổ đổi công thường xuyên). Trong số 6.830 hợp tác xã đã có 119 hợp tác xã
cấp cao và có một ít xã đã thu hút trên 90% nông hộ vào hợp tác xã. Số xã viên của
từng hợp tác xã cũng đông hơn. Trung bình mỗi hợp tác xã gồm 30 hộ. Cá biệt có

hợp tác xã gồm tới 100 hộ và kinh doanh nhiều mặt: nông nghiệp, thủ công
nghiệp, mua bán (như hợp tác xã Vũ La, Hải Dương).
Ở miền núi đã có 239 hợp tác xã nông nghiệp. Dân đánh cá cũng hăng hái
tham gia vào hợp tác xã ngư nghiệp; tính đến tháng 2-1959 số hợp tác xã ngư
nghiệp và nông - ngư nghiệp đã lên tới 102 hợp tác xã.
Đến cuối 1960, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đã cơ bản thành công
với 85,8% số hộ nông dân và 68,1% diện tích đất canh tác ở miền Bắc được đưa
vào 40.422 hợp tác xã nông nghiệp. Nguyên tắc của hợp tác xã là: tập thể hoá tư
liệu sản xuất và sức lao động, quản lý theo cơ chế tập trung, phân phối tư liệu và
sản phẩm một cách thống nhất.
Khi vào hợp tác xã, hộ nông dân đóng góp tất cả tư liệu sản xuất mà mình có
được bao gồm: ruộng đất, trâu, bò, cày, cuốc… để sơ hữu chung, dưới sự quản lý
của Ban chủ nhiệm hợp tác xã và các Đội sản xuất. Mọi việc làm và kết quả thu
hoạch được đều do Ban chủ nhiệm và các Đội sản xuất quản lí, điều hành và phân
phối. Hình thức tổ chức sản xuất ở các hợp tác xã là khoán việc. Đơn vị sản xuất là
tổ đội sản xuất chứ không còn là hộ gia đình, vai trò kinh tế hộ nông dân bị xoá bỏ.
Khoán việc không quy trách nhiệm cho ai, xã viên không hề thấy quyền lợi mà
mình sẽ được hưởng trên cánh đồng chung. Xã viên làm việc theo tiếng kẻng, buổi
sang theo kẻng đủng đỉnh ra đồng, làm việc cầm chừng đợi kẻng hết giờ ra về,
không quan tâm đến chất lượng công việc.

7


Theo chế độ khoán việc, công sức lao động của xã viên được qui thành công,
điểm (công là ngày công, còn điểm là 1/10 ngày công). Từ cấy hái, chăm bón đến
họp hành đều tính thành công điểm mà người ghi điểm là cán bộ thôn, xã. Cán bộ
thôn, xã được bầu theo quan điểm giai cấp nên hầu hết là những bần, cố nông –
những người còn nhiều hạn chế về khả năng và trình độ quản lí. Ngày công được
tính cho mỗi lao động khi thực hiện một công việc theo tiêu chuẩn hợp tác xã đề ra.

Cuối mỗi vụ đều dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Đây chính là điểm sơ hở đẻ ra
rất nhiều sâu mọt, quan tham ngay từ cơ sở. Kẻ ghi công điểm thì không phải lao
động và có quyền ban phát công điểm cho nông dân. Còn nông dân thì một nắng
hai sương nhưng chẳng được bù đắp gì vì mọi thứ đều là của chung và rơi vào tình
trạng “cha chung không ai khóc”. Tình trạng “dong công, phóng điểm” ngày càng
phát triển tràn lan.
Thêm vào đó là áp dụng một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đối với hợp
tác xã, vì thế chẳng bao lâu những nhược điểm, khuyết điểm của hợp tác hóa dần
dần bộc lộ. Nông dân chẳng còn thiết tha với ruộng đồng, sản xuất theo kiểu đối
phó, năng suất lúa năm sau tuột hơn năm trước. Nạn đói diễn ra thường xuyên.
Tỉnh Vĩnh Phúc cũng nằm trong hoàn cảnh trên.

2.

Tình hình kinh tế xã hội

Trong thời kì 1961-1965, diện tích trồng trọt của miền Bắc tuy đã tăng thêm
khoảng 20 vạn hecta do khai hoang, nhưng năng suất lúa giảm chỉ còn 17-18
tạ/hecta. Năm 1961, mức bình quân lương thực đầu người là 24kg/tháng, đến năm
1965 giảm chỉ còn 14kg/tháng.
Với cơ chế khoán việc, chỉ đạo của hợp tác xã, người nông dân không thiết
tha với công việc của hợp tác xã, cha chung không ai khóc, làm việc chỉ vì công
điểm, không vì chất lượng nên chỉ sau một thời gian ngắn, nông nghiệp bị giảm sút
nghiêm trọng. Riêng tỉnh Vĩnh Phúc, năm 1966, diện tích và sản lượng một số cây
trồng không đạt kế hoạch, đặc biệt, cây lương thực bị giảm sút nhiều, nhất là lúa.
Tổng sản lượng qui ra thóc bị tụt 37.000 tấn, riêng lúa tụt 32.000 tấn so với năm
1965. Phần nghĩa vụ với nhà nước cũng giảm 22.000 tấn so với năm 1965”.
Câu hỏi đặt ra là vì sao hợp tác xã (HTX) luôn luôn được coi là điển hình
tiên tiến của xã hội chủ nghĩa vậy mà dân vẫn đói nghèo, chẳng ai thiết tha gì với
đồng ruộng. Nhà thơ Tố Hữu đã hình tượng hoá lãng mạn hợp tác xã bằng câu thơ:

“ Dân có ruộng dập dìu hợp tác, Lúa mượt đồng ấm áp làng quê “. Nhưng có sâu
8


sát với người nông dân mới thấu hiểu ra chúng ta áp dụng mô hình hợp tác “mọi
thứ đều là của chung” là rất sai. Hình thức khoán việc kiểu ấy đẻ ra bao thứ quan
liêu, nạn cường hào mới, tệ rong công, phóng điểm, làm an gian dối. Vậy sao
người ta cứ thổi phồng lên là HTX no ấm, người dân phấn khởi?

3.

Sự ra đời của khoán hộ

Trong lúc khó khăn, một số địa phương, hợp tác xã đã chủ động nghiên cứu,
tìm hiểu nguyên nhân và tìm cách làm ăn mới hiệu quả hơn. Theo điều tra lúc bấy
giờ, nông dân không mặn mà với đất đai của chung hợp tác xã vì hiệu quả ngày
công không cao nên họ tập trung đầu tư vào mảnh đất 5% (thường được gọi là
ruộng phần trăm), vì công lao chăm bón, cày cấy và thu hoạch trên mảnh ruộng
này hoàn toàn thuộc về hộ gia đình, làm được bao nhiêu họ hưởng cả, vì thế mà họ
ra sức chăm bón, cày cấy, quay vòng để nuôi gia đình. Tức là khi hộ nông dân
được tự chủ, họ có thể toàn tâm, toàn ý, bỏ hết công sức để đạt được năng suất cao
nhất có thể. Vậy nếu khoán việc tới hộ nông dân thì sẽ khắc phục được những hạn
chế trên và thúc đẩy người lao động hăng hái tham gia sản xuất, tăng năng suất lao
động.
Với nhãn quan nhạy cảm, ông Kim Ngọc đã nhìn thấy hướng đi cho hợp tác
xã qua việc thay đổi cách khoán của các hợp tác xã. Việc thường xuyên gặp gỡ trao
đổi với nông dân, cộng với khảo sát của số cán bộ trong cơ quan được cử đến các
hợp tác xã, ông Kim Ngọc rút ra được những kết luận hết sức quan trọng.
Trước hết tuy có hàng vạn thanh niên vào bộ đội nhìn chung lao động ở
nông thôn còn khá dồi dào, nhưng do không quản lý tốt, sử dụng không hợp lý nên

để lãng phí một lực lượng lao động đáng kể. Kết luận thứ hai: khi xây dựng hợp tác
xã, người ta coi hộ là yếu tố cơ bản để tính quy mô hợp tác xã, phân bố tư liệu sản
xuất, giao chỉ tiêu sản xuất kinh doanh…Nhưng trong quá trình sản xuất lại tách hộ
khỏi tư liệu sản xuất cơ bản nhất, do vậy đã triệt tiêu động lực của sự phát triển nên
sản xuất kém hiệu quả.
Từ năm 1963 đến năm 1965, ở Vĩnh Phúc đã xuất hiện việc khoán hộ rải rác
ở các hợp tác xã Văn Quan, Đa Phúc, Hoà Loan, Tứ Kỳ dưới các hình thức khoán
nuôi trâu, bò đẻ, nuôi lợn, khoán trồng rau… Đây chính là những cơ sở thực tiễn
ban đầu để hình thành chủ trương khoán hộ của Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 10/9/1966, nghị quyết 68 của Đảng bộ Vĩnh Phúc về một số vấn đề
quản lí lao động nông nghiệp trong HTX hiện nay đã ra đời, một nghị quyết mang
9


tính đột phá vào thành trì bảo thủ của nông nghiệp, dám thẳng thắn phê bình sự
thụt lùi, yếu kém của mô hình HTX lúc ấy. Nghị quyết mang số 68 do ông Trần
Quốc Phi, phó bí thư tỉnh ủy, trưởng ban công tác nông thôn, ký. Sau này bà con
nông dân thường gọi tắt là nghị quyết 68 hoặc là nghị quyết khoán hộ.
Theo nghị quyết này, đối với một số khâu trong quá trình canh tác mà xã
viên có thể đảm nhiệm hiệu quả như cấy, chăm bón lúa (làm cỏ, bón phân, tát
nước…) và thu hoạch, thì giao cho xã viên diện tích phải làm, kèm theo mức
khoán số công điểm được ăn chia, sản lượng phải đạt và nộp cho hợp tác xã. Với
cách làm như vậy, xã viên làm tốt, vượt mức khoán thì họ được hưởng lợi hoàn
toàn, nên xã viên hăng hái, chăm chỉ tham gia sản xuất. Khả năng tự chủ của hộ gia
đình lại được phát huy, mọi tiềm năng lao động lại được tận dụng.

Nghị quyết 68 đề ra nhiều cách khoán như:








Khoán cho hộ làm một khâu hoặc nhiều khâu sản xuất trong một thời gian
dài.
Khoán cho hộ các khâu dài ngày hoặc suốt vụ.
Khoán sản lượng cho hộ, cho nhóm.
Khoán trắng ruộng đất cho hộ. Hình thức khoán trắng đơn giản, dễ tính toán
nên được nông dân hưởng ứng rầm rộ và tự nó đã thành phong trào quần
chúng rộng rãi trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Có thể nói khoán hộ là bước mở
đầu cho một tư duy mới về quản lý kinh tế hợp tác xã
Khoán hộ là cách HTX trực tiếp giao ruộng cho người lao động để từng hộ
chủ động canh tác. HTX chỉ cung cấp giống, kĩ thuật, phân bón, thuốc trừ
sâu và đến vụ thu hoạch thì người lao động chia lại một phần lúa cho hợp tác
xã từ sản lượng lúa mà họ thu hoạch được.

4.

Kết quả đạt được từ khoán hộ

Chỉ sau 1 năm khoán hộ, bộ mặt nông nghiệp của Vĩnh Phúc đã thay đổi rất
mạnh. Mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng trải qua hai vụ sản xuất với hình thức
khoán mới, nền nông nghiệp Vĩnh Phúc đã có bước tiến vượt bậc. Năm 1967 tuy
chiến tranh ác liệt, hạn hán kéo dài nhưng toàn tỉnh đã có hai huyện, 46 xã và 160
HTX (hơn 70% số HTX) đạt năng suất bình quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha. Trong
10


đó có bảy xã, 23 HTX đạt trên 6 tấn, bốn HTX đạt trên 7 tấn. Tổng sản lượng quy

thóc năm 1967 toàn tỉnh đạt 222.000 tấn, tăng hơn năm 1966 là 4.000 tấn.
Năm 1967, Vĩnh Phúc huy động thóc làm nghĩa vụ chỉ đạt 99,5% kế hoạch
nhưng các loại nông sản khác lại vượt mức: hoa màu, rau xanh đứng thứ 3 toàn
miền Bắc, thuốc lá thu mua vượt 14%, thịt bán cho nhà nước vượt 31,5%. Một số
xã như Cao Trào, Yên Lập đàn trâu đã tăng gấp 3 lần so với năm 1963. Hợp tác xã
Đông Nam năng suất lúa tăng từ 520kg vụ chiêm, 840 vụ mùa (năm 1967) lên
602kg vụ chiêm, 980 kg vụ mùa (năm 1968), diện tích canh tác tăng thêm 100 mẫu
bãi. Năm 1967, tổng đàn lợn trong tỉnh là 307.000 con, tăng 20% so với năm 1966.
Vĩnh Phúc là một trong 14 đơn vị ở miền Bắc vượt kế hoạch thu mua thịt lợn hơi.
Kết quả đó cho thấy hiệu quả rõ rệt của khoán hộ ở Vĩnh Phúc, vì trong giai
đoạn này khoán hộ chủ yếu được thực hiện với hoa màu, rau và chăn nuôi. Với
nhiều hình thức khoán khác nhau, phù hợp với tâm lý, khả năng lao động, trình độ
quản lý điều hành của cán bộ và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lúc bấy
giờ nên khoán hộ ở Vĩnh Phúc đã huy động và tận dụng được các lực lượng lao
động, khuyến khích xã viên hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạn
chế đáng kể các hiện tượng tiêu cực trong các hợp tác xã lúc bấy giờ.
Nông dân hiểu và làm theo rất đơn giản, Cái gì mật thiết bới họ thì họ chọn
và họ đã chon đúng. Hạt lúa đã gắn với công sức và quyền lợi người nông dân.
Nếu họ chăm chỉ làm việc thì lúa sẽ tốt hứa hẹn vụ mùa đó sẽ thu hoạch đựoc
nhiều hơn cho mình và HTX. Đó là một chân lí đơn giản.
KHOÁN HỘ BỊ PHÊ PHÁN VÀ CHẤN CHỈNH

III.
1.

Khoán hộ bị phê phán gay gắt

Ngày 26-1-1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết hợp nhất tỉnh
Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú với diện tích 5.103km2 và gần 1,3
triệu dân. Ông Kim Ngọc được cử giữ chức bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú.

Phú Thọ lúc đó chưa có chủ trương “khoán hộ”. Chỉ có một số hợp tác xã
biết “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc mang lại hiệu quả kinh tế nên bí mật làm theo. Đứng
trước tình hình khó khăn đó, tháng 10-1968 Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra nghị quyết về
phương hướng phát triển kinh tế và triển khai một số nhiệm vụ lớn trong năm
1969.

11


Nhiệm vụ đặt ra là phải củng cố phong trào hợp tác hóa nông nghiệp và cải
tiến công tác quản lý lao động, do đó Tỉnh ủy Vĩnh Phú chủ trương thống nhất áp
dụng phương pháp khoán theo tinh thần nghị quyết 68 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc
trước đây. Đây là một quyết định vì lợi ích chung nhưng vì nhiều lý do khác nhau,
một số người phản đối kịch liệt. Họ lấy lý do “khoán hộ” là đi ngược lại chủ
trương đường lối tập thể hóa xã hội chủ nghĩa, đưa nông dân trở về với con đường
làm ăn riêng lẻ theo chế độ tư bản.
Ngày 6-11-1968, tại hội nghị cán bộ tỉnh Vĩnh Phú chủ trương “khoán hộ” bị
phê phán gay gắt: “Nói tóm lại việc khoán ruộng cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại
là phát triển tư tưởng tự tư tự lợi, làm phai nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu
phong trào thi đua yêu nước trong hợp tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ
thuật trong nông nghiệp; giảm nhẹ vai trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa,
phục hồi và phát triển lối làm ăn riêng lẻ, đẩy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vào
con đường thoái hóa và tan rã” - (Trích tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo tỉnh ủy
Vĩnh Phúc).
“Khoán cho hộ thực chất là trở lại cách làm ăn cá thể. Nó phá vỡ nội dung
của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, làm cho hợp tác xã chỉ còn là hình thức.
Nó không những sai lầm về phương pháp quản lý mà còn trái với đường lối hợp
tác hóa nông nghiệp của Đảng và của Nhà nước…”.
“Bằng cách giao khoán ruộng đất của hợp tác cho hộ, trong một số hợp tác
xã đang diễn ra tình trạng chia lại ruộng đất… Bằng cách khoán sản lượng cho hộ,

một số hợp tác xã đã biến mình thành người phát canh thu tô đối với xã viên…
Trong nhiều hợp tác xã, phương thức sản xuất cá thể đang lấn át phương thức sản
xuất tập thể… Ở một số địa phương, đường lối và nguyên tắc hợp tác hóa nông
nghiệp của Đảng bị vi phạm nghiêm trọng”...

2.

Trung ương chấn chỉnh khoán hộ

Thông tri số 224-TT/TW ngày 12/12/1968 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
“Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp ở một số địa phương” đã chấn chỉnh việc triển khai khoán hộ ở Vĩnh
Phúc. Khoán hộ bị coi là buông lỏng quản lý, khoán trắng ruộng đất, khoán trồng
trọt, khoán chăn nuôi, khoán cả công cụ sản xuất cho hộ dẫn đến tư hữu hoá tư liệu
sản xuất, “trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên
tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá thể…, vì vậy việc khoán hộ ở Vĩnh Phúc
12


không được ủng hộ. Bí thư Đảng uỷ tỉnh Vĩnh Phúc là ông Kim Ngọc sau đó đã
“Quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, đưa phong trào hợp tác hoá xã và sản xuất nông
nghiệp của tỉnh Vĩnh Phú vững bước tiến lên” (tháng 6/1969).
Ngày 28/4/1971, Tỉnh ủy họp ỏ Gia Thanh (nơi sơ tán của Tỉnh ủy), Ông
Kim Ngọc đã đọc bản kiểm điểm để nhận khuyết điểm trong việc áp dụng khoán
hộ, trong đó có đoạn: “Trong quá trình thực hiện công việc nông nghiệp, tôi có một
sai lầm nghiêm trọng. Khuyết điểm, sai lầm lớn nhất của tôi là khoán hộ”. Sau đó
theo chỉ đạo của TƯ mà trực tiếp là ông Trường Chinh, khoán hộ bị dừng lại.
Sau khi khoán hộ ở Vĩnh Phúc được chấn chỉnh, khoán việc tiếp tục được
bảo vệ và thắng thế qua nhiều hội nghị và đại hội Đảng. Hội nghị nông nghiệp tại
Thái Bình (tháng 8/1974), Đại hội Đảng lần thứ IV (04/1976) mặc dù phát động

phong trào đẩy mạnh việc cải tiến quản lý trong các hợp tác xã nhằm cứu vãn
phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đang lâm vào khủng hoảng nhưng cơ chế quản
lý theo khoán việc vẫn được duy trì, và sau khi thống nhất đất nước, lại được triển
khai trên toàn quốc. Khoán việc tiếp tục kéo dài dẫn đến tình trạng “sản xuất chậm
phát triển, có mặt trì trệ, sút kém, không đảm bảo nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Nhà nước phải đưa thóc về cứu tế cho nông dân, đời sống nông dân sa sút… sản
xuất mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, khép kín, phường hội, nhiều tiêu cực mới
phát sinh, quản lý mất dân chủ, tham ô, lãng phí…

3.

Nông dân âm thầm khoán chui

Trước tình trạng nông dân thiếu đói trầm trọng, nông nghiệp sa sút, một số
địa phương đã lặng lẽ, kín đáo chuyển sang thực hiện khoán sản phẩm và khoán hộ
nên thời kì này thường được gọi là khoán chui vì khoán hộ bị cấm, cán bộ thực
hiện khoán hộ có thể bị kỷ luật nhưng hoàn cảnh lúc đó, “khoán chui hay là chết”
đã buộc một số địa phương, một số hợp tác xã không còn sự lựa chọn khác.
Khoán chui được thực hiện ở một số hợp tác xã tại Vĩnh Phú, hợp tác xã Sơn
Công huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Sơn Bình, (từ 1978). Ở Hải Phòng, hàng loạt hợp
tác xã thực hiện khoán chui: xã Minh Tân huyện An Thuỵ thực hiện khoán chui từ
năm 1972, xã Bắc Hà và Đoàn Xá (huyện Kiến An) khoán chui từ năm 1977. Ngay
cả một số hợp tác xã nổi tiếng, được coi là lá cờ đầu trong phong trào hợp tác hoá
nông nghiệp lúc bấy giờ như Định Công (huyện Thiệu Yên, Thanh Hoá) hay Vũ
Thắng (huyện Vũ Thư, Thái Bình) cũng kín đáo chuyển sang khoán chui. Tại Nam
Bộ, khoán chui xuất hiện sớm nhất ở xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng
13


Nai (từ năm 1979), sau đó là thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Tiền Giang.

Tỉnh lúa lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long là Hậu Giang (nay là Sóc Trăng và
Cần Thơ) cũng về Hải Phòng học tập cách thực hiện khoán sản phẩm.
Mặc dù TƯ cấm khoán hộ, nhưng cách làm này đã đi vào lòng dân, nên dù
có bị cấm người dân vẫn cứ làm (vì vậy mà nó còn được gọi là khoán chui). Nhiều
chi bộ thôn, xã, huyện vẫn kiên quyết đi theo khoán mới bất chấp lệnh cấm của
TƯ. Những người nông dân đã tiếp bước ông Kim Ngọc, âm thầm khoán chui để
đến năm 1988, khi số phận đất nước đã “ngàn cân treo sợi tóc”, chính khoán chui
đã tạo nên sức mạnh để Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng.
TRUNG ƯƠNG CÔNG NHẬN KHOÁN HỘ

IV.
1.

Thừa nhận khoán chui

Trước hiệu quả thực sự của khoán chui ở các địa phương, Hội nghị lần thứ
VI Ban chấp hành trung ương Đảng (tháng 09/1979) ra Nghị quyết số 20 –NQ/TW
ngày 20/09/1979 “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách”, thừa nhận sự tồn tại khách
quan của các thành phần kinh tế, cho phép các hộ xã viên mượn đất sản xuất, ổn
định nghĩa vụ lương thực, bãi bỏ việc phân phối định suất, thực hiện phân phối
theo lao động, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, nởi lỏng quyền tự do lưu
thông và trao đổi nông sản, thực phẩm…
Tuy nhiên, quá trình đổi mới còn trải qua nhiều bước thăng trầm, quanh co
và phức tạp. Tuy đã có sự đổi mới về nhận thức như trên, thấy được lợi ích rõ rệt
của khoán chui nhưng một số cán bộ lãnh đạo lại cho rằng khoán chui chỉ là một
bước lùi tạm thời, về lâu dài và căn bản vẫn phải là khoán việc mới là làm ăn tập
thể, mới là xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nhiều người mới gọi khoán chui là khoán lùi.

2.


Khoán 100, thừa nhận khoán hộ

Sau Vĩnh Phúc, Hải Phòng là địa phương thứ 2 công khai thực hiện khoán
hộ, khoán sản phẩm, bỏ khoán việc. Tháng 06/1980, huyện uỷ Đồ Sơn ra nghị
quyết số 05 giao ruộng đến xã viên, ngày 27/06/1980, Thành uỷ Hải Phòng ra nghị
quyết số 24, công khai chuyển 06 huyện ngoại thành sang khoán sản phẩm, bỏ
khoán việc.

14


Ngày 21/10/1980, Ban Bí thư trung ương Đảng ra nghị quyết số 22 TB-TW
cho ý kiến về công tác khoán trong hợp tác xã và đội sản xuất, ghi nhận và đánh
giá những tác dụng tích cực của hình thức khoán mới, cho phép các địa phương thử
nghiệm các hình thức khoán sản phẩm với cây lúa. Dựa trên một những kinh
nghiệm thực tiễn với hiệu quả tích cực ở một số địa phương và Báo cáo của một số
cơ quan chuyên ngành nghiên cứu về các hình thức khoán trong nông nghiệp,
tháng 12 năm 1980, Hội nghị Trung ương 9 khóa IV đã họp bàn về việc thực hiện
và hoàn thiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp,
Báo cáo của Ban Quản lý hợp tác xã trung ương, Bộ Nông nghiệp ngày
18/12/1980 đã chỉ rõ những nhược điểm của khoán việc: “Hình thức khoán việc…
nhìn chung không phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý và điều kiện sản xuất của
đa số hợp tác xã ở nước ta hiện nay. Hình thức khoán việc còn nhiều nhược điểm
không những khó làm nên 70% hợp tác thuộc loại trung bình và yếu kém chưa làm
được tốt hoặc không làm được mà còn làm cho người lao động ít quan tâm đến sản
phẩm cuối cùng họ làm ra, chỉ lo chạy theo công điểm, không đảm bảo qui trình kĩ
thuật, tình trạng dong công phóng điểm, không tiết kiệm chi phí sản xuất diễn ra
khá phổ biến”
Báo cáo cũng khẳng định sự tiến bộ của khoán sản phẩm so với khoán việc.
Khoán sản phẩm vừa nâng cao được ý thức trách nhiệm của tập thể và mỗi cá

nhân, cụ thể hoá chế độ làm chủ tập thể, vừa đảm bảo nguyên tắc phân phối công
bằng cho người lao động nên khuyến khích được hợp tác xã và xã viên tích cực tận
dụng lao động, đất đai, thâm canh, tăng vụ, phát triển sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động.
Ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động
và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp chính thức công nhận khoán sản
phẩm. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp
cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán sản phẩm, hay khoán
100.
Chỉ thị 100 nêu rõ ba mục đích của khoán sản phẩm là: bảo đảm phát triển
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế (trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái
lao động, kích thích tăng nǎng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu hiện có),
củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn, nâng cao thu nhập
của người lao động.

15


Nguyên tắc khoán sản phẩm:quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất,
trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết
quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân
phối giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích người lao động.
Phạm vi khoán sản phẩm: áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi.
Khoán 100 có tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ
gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình
dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang
lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất.
Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu
trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khoán 100 đã có tác dụng làm
sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với

thời kỳ trước.
Sau khi chỉ thị 100 được ban hành, như được cởi trói, khoán sản phẩm đã
được triển khai, thực hiện phổ biến ở các hợp tác xã và các tổ, đội sản xuất. Nhìn
chung, năng suất lúa sau khi thực hiện khoán sản phẩm ở các hợp tác xã đều tăng
lên, nơi tăng ít khoảng 4-5%, tăng vừa từ 15-20%, cá biệt có nơi tăng 50%.
Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm
dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như
toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này cùng tính
chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông dân, trước
hết là hộ nhận khoán. Mức khoán không ổn định, được điều chỉnh theo từng năm,
ngày càng cao hơn khiến xã viên vượt khoán được hưởng lợi rất ít, người nông dân
chỉ còn lại khoảng 16-20% sản lượng khoán, không bù đắp được vốn và sức lao
động bỏ ra, vì vậy, động lực vừa mới được tạo ra đã dần bị triệt tiêu. Hộ nông dân
không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt
ruộng đất. Khoán việc quay trở lại và xã viên không hào hứng với các công việc do
hợp tác xã huy động. Năm 1987, sản xuất lương thực giảm gần 1 triệu tấn, đã dẫn
đến nạn đói tháng 03 năm 1987, tháng 03/1988 ở một số vùng. Vụ giáp hạt năm
1988, nạn đói xảy ra ở 21 tỉnh thành phía Bắc với hơn 9,3 triệu người đói ăn, bằng
39% số nhân khẩu trong nông nghiệp, trong đó, số người đói gay gắt, đứt bữa là
3,6 triệu người.

16


3.

Khoán 100, chính thức công nhận khoán hộ

Trước tình hình khủng hoảng nghiêm trọng, hầu hết các hợp tác xã lâm vào
tình trạng kiệt quệ về lương thực mà nguyên nhân chủ yếu là cơ chế quản lý lạc

hậu không khuyến khích được sản xuất. Tất cả đều có một mong muốn được
chuyển sang khoán hộ, chỉ có khoán hộ mới cứu đất nước thoát khỏi nạn đói trầm
trọng đang đe doạ.
Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động
chuyển sang khoán gọn. Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 10 NQTW về Đổi mới quản lý nông nghiệp, Khoán 10 ra đời. Khoán 10 thừa nhận “hộ
nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”, thực hiện giao ruộng khoán cho hộ dài ngày
(15-20 năm) đối với đất trồng cây ngắn ngày, 1 đến 2 chu kì đối với cây dài ngày,
ổn định sản lượng khoán, bảo đảm cho người trồng lúa có lãi không dưới 40%. Hộ
nông dân được tự quyết định việc canh tác trên diện tích được giao, chỉ có nghĩa vụ
đóng thuế, được tự do lưu thông sản phẩm làm ra ở nơi có lợi nhất sau khi hoàn
thành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Cùng với việc thực hiện khoán 10 là sự đổi
mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội
ở nông thôn theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Từ đây, chức
nǎng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại.
Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VI) tháng 3-1989
và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định hộ nông
dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá. Đổi mới hình thức và nội dung
hoạt động của các hợp tác xã nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm nǎng kinh tế hộ
nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang sản xuất
hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tác dụng của cơ chế Khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải tạo
giống, thâm canh tăng năng suất ở đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng diện tích đất
canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam sang trang
sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn phải nhập khẩu hơn
450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu lương thực
trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ 1 đến 1,5 triệu tấn và tiến dần
lên tới 4 đến 4,5 triệu tấn những năm sau đó, làm cho cả thế giới phải kinh ngạc.

17



V.

CƠ CHẾ QUẢN LÝ MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP
1.

Vai trò của cơ chế quản lý

Từ khoán hộ đến khoán 10 là quá trình đi đến đổi mới của nông nghiệp Việt
Nam. Con đường đó bắt đầu từ cơ sở, từ thực tiễn sản xuất, trải qua nhiều thử
nghiệm, đúc rút những bài học và kinh nghiệm mới đi đến thành công. Có người
còn nhận định, khoán hộ, khoán lùi, khoán 100 chính là những cuộc đổi mới từng
phần, để đi đến sự đổi mới hoàn toàn là khoán 10. Tính từ khoán hộ được thực hiện
ở Vĩnh Phúc năm 1966, đến khoán 10 năm 1988, chặng đường đó dài hơn 20 năm.
Có người nuối tiếc nếu khoán hộ được chấp nhận và triển khai ngay sau khi thực
hiện ở Vĩnh Phúc thì kết quả nền kinh tế nước ta sẽ rất thay đổi. Nhưng lịch sử là
không thể thay đổi và nuối tiếc, có chăng chỉ là những bài học từ khoán hộ được
rút ra cho hôm nay và mai sau mà thôi.
Sự thành công của khoán 10 đã khẳng định vai trò quan trọng của cơ chế
quản lý trong nền kinh tế. Khoán 10 ra đời trong thời cơ chín muồi vì đã trải qua
giai đoạn tập dượt khoán hộ ở Vĩnh Phúc, khoán chui ở Hải Phòng cùng một số địa
phương và sự hạn chế của khoán 100 bị bộ lộ. Các giai đoạn thực hiện các hình
thức khoán đều chỉ phát huy tác dụng trong một thời gian nhất định, sau đó lại rơi
vào suy giảm, bế tắc, không mang lại kết quả như mong muốn vì vẫn nằm trong
tình trạng cải cách nửa vời, chưa giải quyết được khâu căn bản về cơ chế quản lý
trong nông nghiệp. Chỉ khi khoán 10 đánh vào khâu đột phá nhất, đó là khẳng định
vai trò kinh tế tự chủ của hộ nông dân, cởi bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp,
chấp nhận sự điều tiết của nền kinh tế thị trường thì điều kỳ diệu đã đến với nông
nghiệp Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn.


2.

Ý nghĩa của khoán 10, làm thay đổi nền nông nghiệp

Hiệu quả nhanh chóng sau khi thực hiện khoán 10 cho thấy tầm quan trọng
của cơ chế quản lý tác động tới nền kinh tế như thế nào. Cũng với đất nước ấy,
những con người ấy, điều kiện khoa học kĩ thuật ấy, nhưng chỉ cần thay đổi chính
sách, cơ chế quản lý, thì không cần đầu tư tốn kém tiền của mà vẫn nhanh chóng
chuyển bại thành thắng. Từ chỗ thiếu ăn, đứt bữa, phải nhập khẩu gạo để cứu đói
đến đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu chỉ trong vòng có một năm. Đó cũng chính là bài
học cho công cuộc đổi mới tiếp tục ngày hôm nay, không chỉ trong nông nghiệp mà
còn các lĩnh vực khác.
18


Khoán 10 đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt vì đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn, phù hợp với những điều kiện lịch sử đương thời.
Yêu cầu của thực tiễn lúc bấy giờ là: hạn chế được cách làm nặng về hình
thức của khoán việc, sự quan liêu và lạm quyền của Ban quản lý hợp tác xã cả về
tổ chức, điều hành, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, đòi hỏi sự công bằng
về quyền lợi của người lao động… tất cả chứa đựng trong cơ chế làm ăn tập thể,
“cha chung không ai khóc”. Trong khi đó, khoán 10 giao đất cho người nông dân,
công nhận vai trò tự chủ của hộ gia đình trong nền kinh tế, đã mang lại động lực
cho người nông dân trong sản xuất, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, tạo ra
mối quan hệ tự nhiên gắn kết giữa hiệu quả và quyền lợi của người lao động, hiệu
quả cao thì quyền lợi nhiều, vì thế tạo động lực cho người nông dân làm ăn chăm
chỉ, tìm mọi cách để nâng cao năng suất lao động.
Điều kiện cơ sở vật chất, con người cũng như trình độ quản lý lúc bấy giờ
chưa phù hợp với việc tập thể hoá triệt để tư liệu sản xuất, việc thành lập các hợp
tác xã bậc cao, vì vậy, khi khoán 10 trao lại quyền sử dụng đất cho nông dân, tư

hữu hoá trở lại tư liệu sản xuất là phù hợp với điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất và
trình độ quản lý lúc bấy giờ nên lập tức phát huy được hiệu quả.

19


VI.

KẾT LUẬN

Khoán hộ là cách làm khoán trực tiếp đến mỗi người lao động. Giao ruộng
cho người lao động. Hợp tác xã chỉ cung cấp giống, kỹ thuật, phân bón, thuốc trừ
sâu và đến vụ thu hoạch thì người lao động chia lại một phần lúa cho hợp tác xã từ
năng suất lúa mà họ thu hoạch được. Hạt lúa đã gắn với công sức và quyền lợi của
người nông dân. Nếu họ chăm chỉ thì lúa sẽ tốt và hứa hẹn vụ mùa đó họ sẽ thu
hoạch được nhiều cho mình hơn. Một chân lý đơn giản như vậy nhưng đã phải trải
qua biết bao sóng gió, thăng trầm để có thể trở thành sự thực.
Qua quá trình thăng trầm từ khoán hộ đến khoán 10, có thể khẳng định
khoán hộ ở Vĩnh Phúc chính là sự khởi đầu đúng đắn và là sự tập dượt đầu tiên cho
sự ra đời và triển khai khoán 10 sau này. Khoán hộ manh nha ở một số hợp tác xã
thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đầu những năm 1960, nhưng chính thức được Tỉnh uỷ tỉnh
Vĩnh Phúc Nghị quyết hoá năm 1966, (Nghị quyết số 68-NQ/TW) và triển khai
những năm 1966-1968.
Khoán hộ được thể hiện trong Nghị quyết của Đảng uỷ tỉnh Vĩnh Phúc khi
đề cập đến 5 nhiệm vụ cụ thể trong việc quản lý lao động nông nghiệp trong hợp
tác xã lúc đó, trong đó đặc biệt chú trọng tới nhiệm vụ thứ 2 là: kiên quyết thực
hiện đúng và tốt chế độ 3 khoán: khoán việc cho nhóm, cho lao động và cho hộ
nhằm bảo đảm sử dụng hợp lý sức lao động và tăng năng suất. Nghị quyết khẳng
định khi lao động nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm, vấn đề tổ chức hợp lý
hoá sản xuất có tầm đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao

động đó là thực hiện tốt chế độ ba khoán: Ba khoán sẽ giải quyết được vấn đề tăng
năng suất một cách thiết thực, tạo động lực kích thích, chủ động nâng cao năng
suất của từng người, từng nhóm người lao động, từ đó tránh được sự ỷ lại, dựa
dẫm, lười biếng, tự do, tuỳ tiện. Nhờ đó, lao động sẽ được quản lý chặt chẽ, có kỷ
luật tự giác, tiết kiệm sức lao động, tận dụng khả năng sức lao động phụ, lao động
nhàn rỗi trong các gia đình, đồng thời khắc phục tình trạng quan liêu, thoát ly sản
xuất, xa rời quần chúng, tham ô, tư lợi của cán bộ cơ sở. Tuy chưa đề cập hoàn
toàn tới khoán hộ nhưng trong Nghị quyết và triển khai, Vĩnh phúc đã nhận thất rất
rõ những hạn chế của cơ chế khoán việc và cơ bản chuyển sang thực hiện khoán
hộ. Đó chính là cơ sở thực tiễn đầu tiên để đi đến việc ban hành khoán 10 sau này.
Sự “hồi sinh” của khoán hộ đã đưa tình hình của đất nước thoát khỏi tình thế
khủng hoảng. Đảng đã dám vượt qua chính mình để công nhận một hình thức

20


khoán kiểu mới, mà theo như lúc đó là một cách làm “phá vỡ quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, đẩy lùi tiến bộ khoa học kỹ thuật”.
Công lao của ông Kim Ngọc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là rất to
lớn.
Như đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Nông dân ta no ấm, trước
hết là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ. Nhưng trong quá trình xây dựng đất nước thì
chúng ta phải cảm ơn Kim Ngọc, một đảng viên sáng tạo, dám chịu trách nhiệm
đến cùng trước nhân dân... Đất nước phải biết ơn anh Kim Ngọc. Một người tâm
huyết dám đưa ra cái mới, đến bây giờ đất nước có phát triển là nhờ có lúa gạo
mà anh Ngọc đã đi tiên phong...”.
Hay như đánh giá của ông Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ
Thương Mại: “Bài học về khoán hộ ở Vĩnh Phú mãi còn giá trị, không phải ở cách
cụ thể mà đồng chí Kim Ngọc giải quyết mà là ở chỗ ông đồng cảm sâu sắc trước
tình cảnh đói nghèo của người dân, cùng đau nỗi đau của họ và dám tháo bỏ

những quy định mà thực tiễn đã chứng tỏ không phù hợp để thúc đẩy phát triển”.
Tuy nhiên, phải chăng đã đến lúc phải có sự điều chỉnh khoán 10 cho phù
hợp với tình hình và điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay?
Từ khi thực hiện khoán 10 đến nay đã gần 30 năm. Trong tình hình hiện tại,
đã có một số vấn đề nảy sinh sau một thời gian thực hiện khoán 10: đó là tình trạng
người nông dân sản xuất manh mún, cá thể, điều đó có thể hạn chế việc áp dụng
những tiến bộ của khoa học kĩ thuật ngày nay có thể mang lại cho nông nghiệp
hiệu quả cao hơn. Việc canh tác manh mún đó làm cho chúng ta khó có thể áp dụng
cơ giới hoá, hiện đại hoá để có được hạt gạo có chất lượng cao, nên khi xuất khẩu
không mang lại giá trị kinh tế cao. Và vì vậy, nông nghiệp chỉ dừng ở việc đủ ăn,
có dự trữ, có xuất khẩu nhưng lại chưa tạo được sự bứt phá cấn thiết để thúc đẩy
nền kinh tế như buổi đầu thực hiện khoán 10.
Việc canh tác manh mún sẽ tác động đến lối suy nghĩ và cách tư duy của
người nông dân, vẫn chiếm đa số trong dân số Việt Nam, đó là tư duy tiểu nông.
Với tư duy tiểu nông, khó có thể xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp hiện đại,
áp dụng những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học kĩ thuật ngày nay để tạo nên
một nền nông nghiệp năng suất cao, chất lượng sản phẩm đồng đều. Trên thực tế,
gần đây ở một số địa phương đã xuất hiện việc liên kết giữa các hợp tác xã và sự
thâu tóm của các chủ vựa để có thể áp dụng cơ giới và khoa học kĩ thuật, nâng cao
chất lượng hạt gạo, xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Ở Nam Bộ đã xuất
21


hiện các cánh đồng mẫu lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người nông dân, đưa nông dân thực sự tiến vào thời kì công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Khoán 10 ra đời và có giá trị lịch sử bởi nó đáp ứng đúng yêu cầu của thực
tiễn, của nông dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Giờ đây, một số điều kiện lịch sử
đã thay đổi, nên chăng có những sự nghiên cứu, điều chỉnh để thực hiện những cơ
chế sản xuất và quản lý phù hợp hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và tạo sự

bứt phá cho nền kinh tế Việt Nam.
Bài học về khoán hộ và sự thăng trầm của khoán hộ là một thực tế đáng suy
ngẫm trong quá trình đi đến đổi mới ở Việt Nam. Khoán hộ không chỉ là vấn đề
của quá khứ, nó còn nhiều bài học nóng hổi cho giai đoạn phát triển đất nước hiện
nay.

22


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tiểu luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS.
Nguyễn Thị Tâm – Giảng viên tại khoa triết học & khoa học xã hội, trường Đại
học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình
viết viết bài tiểu luận này.
Trong quá trình viết tiểu luận khó tránh khỏi sai sót, rất mong Cô bỏ qua.
Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
Cô để rút kinh nghiệm và hoàn thành tốt hơn các bài tiểu luận sắp tới.
Cuối cùng em kính chúc Cô thật dồi dào sức khỏe và thành công trong ứ
mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.


Ban chấp hành Đảng bộ Vĩnh Phú, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú, tập II.
Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương khóa

3.

II, từ ngày 16 đến 30 tháng 4 và ngày 1 đến 10 tháng 6 năm 1959.
Thái Duy, Từ “khoán” đến hộ nông dân tự chủ, Đổi mới ở Việt Nam-nhớ lại

4.

và suy ngẫm, Nxb Tri thức, H.2008.
Vũ Thị Hoà, Tìm hiểu khoán hộ ở Vĩnh Phúc 1966-1968, Nghiên cứu Lịch

5.

sử số 5, 2012.
Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hóa
nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính

6.
7.
8.

trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20.
Lịch sử Đảng bộ Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb CTQG. H.2007.
Nghị quyết 10-NQ/TW 1988 đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Nguyễn Thị Hồng Mai –Tìm hiểu khoán hộ trong nông nghiệp ở Vĩnh Phúc

9.
10.


trước đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, 2008.
Vân Thảo - “Bí thư khoán hộ” ký sự báo Tuổi Trẻ tháng 4 năm 2009.
Đức Trung - “Kim Ngọc và số phận khoán chui” ký sự báo Dân Trí tháng 3
năm 2006.

24



×