Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.87 KB, 29 trang )

Các thuật ngữ trong Chuẩn mực này được hiểu như sau:
1.

Hợp đồng đảm bảo (Dịch vụ đảm bảo): Là hợp đồng dịch vụ, theo đó kiểm
toán viên hành nghề đưa ra ý kiến kết luận nhằm nâng cao mức độ tin cậy của
người sử dụng thông tin. Hợp đồng đảm bảo được thực hiện để cung cấp:
a) Sự đảm bảo ở mức độ cao các vấn đề phù hợp với các tiêu chuẩn được đặt ra từ
trước xét trên các khía cạnh trọng yếu; hoặc
b) Sự đảm bảo ở mức độ vừa phải các vấn đề hợp lý trong các trường hợp cụ thể.
Hợp đồng đảm bảo bao gồm hợp đồng tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam, được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế chung về hoạt động đảm
bảo, do Bộ Tài chính ban hành, hoặc tuân thủ các chuẩn mực cụ thể về hợp đồng
đảm bảo do Bộ Tài chính ban hành, ví dụ cuộc kiểm toán báo cáo tài chính hoặc
soát xét báo cáo tài chính theo các Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam.

2.

Kế toán viên (Người làm kế toán): Là những người của doanh nghiệp hoặc tổ
chức (có hoặc không có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ hành nghề kế
toán) chịu trách nhiệm thực hiện công việc kế toán của đơn vị đó. Người làm kế
toán bao gồm cả người hành nghề kế toán.

3.

Kế toán viên chuyên nghiệp: Là những người có Chứng chỉ hành nghề kế toán
của Việt Nam hay của nước ngoài nhưng làm việc trong các doanh nghiệp và tổ
chức.

4.

Người hành nghề kế toán: Là những người có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc


Chứng chỉ hành nghề kế toán có đăng ký kinh doanh dịch vụ kế toán, hành nghề
cá nhân hoặc hành nghề trong các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán.

5.

Kiểm toán viên: Là những người có Chứng chỉ kiểm toán viên nhưng chưa
đăng ký hành nghề kiểm toán hoặc đã đăng ký hành nghề kiểm toán nhưng chưa
được công ty kiểm toán giao trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán (là người có đủ
tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật cho người hành nghề kiểm
toán nhưng chưa được công ty kiểm toán giao trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán).
- Kiểm toán viên hành nghề: Là những người có Chứng chỉ kiểm toán
viên đã đăng ký hành nghề tại một doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và
hoạt động theo pháp luật Việt Nam và được công ty kiểm toán giao trách nhiệm
ký báo cáo kiểm toán.
- Trợ lý kiểm toán viên: Là những người cùng tham gia nhóm kiểm toán nhưng
chưa có Chứng chỉ kiểm toán viên.

6.
7.

Người làm kiểm toán: Là những người gồm: Kiểm toán viên hành nghề, kiểm
toán viên và trợ lý kiểm toán.
Nhóm kiểm toán (Nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo): Là nhóm bao gồm:
a) Kiểm toán viên hành nghề, các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia hợp
đồng kiểm toán (hợp đồng đảm bảo);
b) Tất cả các nhân viên khác trong công ty kiểm toán có ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả của báo cáo kiểm toán, gồm:

1



- Người đề xuất phí kiểm toán hoặc giám sát trực tiếp, quản lý hoặc thực
hiện các hoạt động giám sát khác đối với Giám đốc phụ trách hợp đồng
đảm bảo trong quá trình thực hiện hợp đồng đảm bảo. Đối với hợp đồng
kiểm toán, những người này còn gồm tất cả các nhân viên cấp cao, từ
Giám đốc phụ trách cuộc kiểm toán cho tới những người điều hành của
công ty kiểm toán;
- Những người tham gia tư vấn về các vấn đề, nghiệp vụ hoặc sự kiện có
tính chất kỹ thuật hoặc liên quan đến các chuyên ngành cụ thể của hợp
đồng đảm bảo; và
- Những người phụ trách kiểm soát chuyên môn các hợp đồng đảm bảo, kể
cả người soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ.
8.

Nguyên tắc cơ bản của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm
toán, gồm:
a) Độc lập (áp dụng chủ yếu cho kiểm toán viên hành nghề và người hành nghề
kế toán);
b) Chính trực;
c) Khách quan;
d) Năng lực chuyên môn và tính thận trọng;
e) Tính bảo mật;
f) Tư cách nghề nghiệp;
g) Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.

9.

Độc lập: Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên hành nghề
và người hành nghề kế toán.
Trong quá trình kiểm toán hoặc cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán viên hành

nghề và người hành nghề kế toán phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động
bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực,
khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Kiểm toán viên hành nghề và người hành nghề kế toán không được nhận làm
kiểm toán hoặc làm kế toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc
quyền lợi kinh tế như góp vốn, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ
đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý
tiêu thụ hàng hóa.
Kiểm toán viên hành nghề và người hành nghề kế toán không được nhận làm
kiểm toán hoặc làm kế toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ gia đình ruột
thịt (như có bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột) là người trong bộ máy
quản lý diều hành (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, kế toán trưởng, các trưởng,
phó phòng và các cấp tương đương) trong đơn vị khách hàng.
Kiểm toán viên hành nghề không được vừa làm dịch vụ kế toán, như ghi sổ kế
toán, lập báo cáo tài chính, kiểm toán nội bộ, định giá tài sản, tư vấn quản lý, tư

2


vấn tài chính, vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng. Ngược lại,
người làm dịch vụ kế toán không được làm kiểm toán cho cùng một khách hàng.
Trong quá trình kiểm toán hoặc cung cấp dịch vụ kế toán, nếu có sự hạn chế về
tính độc lập thì kiểm toán viên hành nghề, người hành nghề kế toán phải tìm mọi
cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không thể loại bỏ được thì phải nêu rõ điều này
trong Báo cáo kiểm toán hoặc Báo cáo dịch vụ kế toán.
10.

Chính trực: Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải thẳng thắn, trung
thực và có chính kiến rõ ràng.


11.

Khách quan: Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải công bằng, tôn
trọng sự thật và không được thành kiến, thiên vị.

12.

Năng lực chuyên môn và tính thận trọng: Người làm kế toán và người làm
kiểm toán phải thực hiện công việc kiểm toán, kế toán với đầy đủ năng lực chuyên
môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm
toán viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực
tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công
việc.

13.

Tính bảo mật: Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải bảo mật các
thông tin có được trong quá trình kiểm toán; không được tiết lộ bất cứ một thông
tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải
công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp
của mình.

14.

Tư cách nghề nghiệp: Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải trau dồi
và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín
nghề nghiệp.

15.


Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: Người làm kế toán và người làm kiểm toán
phải thực hiện công việc kế toán, kiểm toán theo những kỹ thuật và chuẩn mực
chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam, quy định của Hội nghề nghiệp và các quy định pháp luật hiện hành.

16.

Mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế
toán, kiểm toán là đưa ra các quy định nhằm để giải quyết các vấn đề về đạo
đức của người làm kế toán và người làm kiểm toán trong các trường hợp cụ
thể. Các quy định trong Chuẩn mực này cung cấp các hướng dẫn về mục tiêu
và các tiêu chuẩn phổ biến để áp dụng trong hành nghề đối với các trường
hợp điển hình cụ thể xảy ra trong nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Chuẩn
mực này chỉ quy định và hướng dẫn phương pháp tiếp cận chứ không liệt kê
tất cả các trường hợp có thể gây ra nguy cơ không tuân thủ và các biện pháp
xử lý cần thực hiện.

17.

Nội dung Chuẩn mực này gồm 3 phần sau:
a) Phần A: Áp dụng cho tất cả người làm kế toán và người làm kiểm toán;
b) Phần B: Áp dụng cho kiểm toán viên hành nghề, nhóm kiểm toán và công
ty kiểm toán;

3


c) Phần C: Áp dụng cho người có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ
hành nghề kế toán đang làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức.
3.4.2 Các nguy cơ phát sinh vi phạm chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm

toán
3.4.2.1 Các nguy cơ phát sinh
Môi trường làm việc của những người làm kế toán và người làm kiểm toán có thể
tạo ra một số nguy cơ trong việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chuẩn mực đạo
đức. Không thể xác định được toàn bộ những trường hợp có thể dẫn đến những nguy
cơ đó để xác định các biện pháp bảo vệ thích hợp trong từng trường hợp. Do bản chất
của từng dịch vụ và công việc có thể khác nhau nên các nguy cơ cũng khác nhau đòi
hỏi phải áp dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau. Cách tiếp cận về nhận thức, mà theo
đó lợi ích của công chúng được đề cao, đòi hỏi người làm kế toán và người làm kiểm
toán phải xác định, đánh giá và xử lý các nguy cơ đe dọa sự tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản chứ không chỉ đơn thuần tuân thủ các quy định một cách máy móc. Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp này đưa ra một khuôn khổ nhằm hỗ trợ những người làm kế toán
và người làm kiểm toán xác định, đánh giá và xử lý những nguy cơ đe dọa việc tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản. Nếu các nguy cơ được xác định là đáng kể, thì người làm
kế toán và người làm kiểm toán cần áp dụng các biện pháp bảo vệ thích hợp để loại bỏ
hay làm giảm nhẹ các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được để việc tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản không bị ảnh hưởng.
- Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán biết được hoặc có căn cứ hợp lý
để phải biết về các trường hợp hoặc các mối quan hệ có thể làm ảnh hưởng đến việc
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, những người làm kế toán và người làm kiểm toán có
nghĩa vụ đánh giá bất cứ nguy cơ nào đối với việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
chuẩn mực đạo đức.
- Người làm kế toán và người làm kiểm toán cần xem xét đến các yếu tố định tính
và định lượng khi đánh giá mức độ của một nguy cơ. Nếu không thể áp dụng các biện
pháp bảo vệ thích hợp, người làm kế toán và người làm kiểm toán cần khước từ hoặc
dừng không tiếp tục cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp có liên quan, khi cần thiết phải từ
chối cung cấp dịch vụ cho khách hàng (áp dụng cho kiểm toán viên hành nghề, nhóm
kiểm toán và công ty kiểm toán) hay từ chối làm việc cho tổ chức sử dụng lao động
(áp dụng cho người có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ hành nghề kế toán
đang làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức).

- Người làm kế toán và người làm kiểm toán có thể vô ý vi phạm quy định của
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp này. Tùy thuộc bản chất và mức độ quan trọng của

4


vấn đề, nếu vi phạm một cách vô ý có thể không làm ảnh hưởng tới việc tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản với điều kiện là khi phát hiện ra vi phạm thì người làm kế toán và
người làm kiểm toán phải sửa chữa ngay các vi phạm đó và áp dụng các biện pháp bảo
vệ cần thiết.
Việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản có thể bị đe dọa trong rất nhiều trường hợp.
Các nguy cơ có thể được phân loại như sau:
a) Nguy cơ do tư lợi: Nguy cơ này có thể xảy ra do việc người làm kế toán và
người làm kiểm toán hoặc thành viên trong quan hệ gia đình ruột thịt hay quan hệ gia
đình trực tiếp của người làm kế toán và người làm kiểm toán có các lợi ích tài chính
hay lợi ích khác;
b) Nguy cơ tự kiểm tra: Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kế toán và
người làm kiểm toán phải xem xét lại các đánh giá trước đây do mình chịu trách
nhiệm;
c) Nguy cơ về sự bào chữa: Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kế toán và
người làm kiểm toán ủng hộ một quan điểm hay ý kiến tới mức độ mà tính khách quan
có thể bị ảnh hưởng;
d) Nguy cơ từ sự quen thuộc: Nguy cơ này có thể xảy ra khi, do các mối quan hệ
quen thuộc mà người làm kế toán và người làm kiểm toán trở nên quá đồng tình đối
với lợi ích của những người khác; và
c) Nguy cơ bị đe dọa: Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kế toán và người
làm kiểm toán có thể bị ngăn cản không được hành động một cách khách quan do các
đe dọa (các đe dọa này có thể là có thực hoặc do cảm nhận thấy).
3.4.2.2 Các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên và công ty kiểm
toán

Tính độc lập có nguy cơ bị ảnh hưởng do tư lợi, tự kiểm tra, sự bào chữa, quan hệ
ruột thịt, quan hệ khác và sự đe dọa.
1. “Nguy cơ do tư lợi” diễn ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên nhóm
kiểm toán có thể thu được lợi ích tài chính hoặc các xung đột lợi ích cá nhân khác với
khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm.
Ví dụ về các trường hợp có thể tạo ra "Nguy cơ do tư lợi":
a)
Lợi ích tài chính trực tiếp hoặc lợi ích tài chính gián tiếp có tính
chất trọng yếu tại khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo;
b)
Một khoản nợ, khoản bảo lãnh hoặc quà tặng nhận từ khách hàng
sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc từ giám đốc hay nhân viên của họ;
c)
Quá phụ thuộc vào phí dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ
đảm bảo;
5


d)
Lo lắng về khả năng mất hợp đồng;
e)
Có quan hệ kinh doanh mật thiết với khách hàng sử dụng dịch vụ
đảm bảo;
f)
Có khả năng trở thành nhân viên của khách hàng sử dụng dịch vụ
bảo đảm trong tương lai;
g)
Phát sinh phí bất thường liên quan đến dịch vụ đảm bảo.
2. “Nguy cơ tự kiểm tra” diễn ra khi:
a)

Bất kỳ sản phẩm hay đánh giá từ một hợp đồng cung cấp dịch vụ
đảm bảo hoặc phi đảm bảo nào trước đây cần được đánh giá lại để có được kết
luận của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo;
b)
Khi một thành viên của nhóm kiểm toán trước đây đã từng là
Giám đốc của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, hoặc là nhân viên có
chức vụ, có ảnh hưởng đáng kể và trực tiếp đối với vấn đề trọng yếu của hợp
đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo.
Ví dụ về các trường hợp có thể tạo ra "Nguy cơ tự kiểm tra":
a)
Một thành viên của nhóm kiểm toán gần đây đã hoặc đang là
Giám đốc hoặc nhân viên có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng sử dụng dịch
vụ đảm bảo.
b)
Một thành viên của nhóm kiểm toán gần đây đã hoặc đang là
nhân viên của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, có chức vụ có ảnh hưởng
đáng kể và trực tiếp đối với vấn đề trọng yếu của hợp đồng cung cấp dịch vụ
đảm bảo;
c)
Tiến hành các dịch vụ cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo
có ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo;

d)
Ghi sổ kế toán hoặc lập báo cáo tài chính là đối tượng của hợp
đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo.
3. “Nguy cơ về sự bào chữa” xảy ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên
nhóm kiểm toán xúc tiến, hoặc nhận thức được việc xúc tiến các giao dịch của một
khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc ý kiến có thể được hiểu là vi phạm tính
khách quan. Đây là trường hợp công ty kiểm toán hoặc một thành viên của nhóm kiểm
toán bị phụ thuộc vào khách hàng trong việc đưa ra ý kiến.

Ví dụ về các trường hợp có thể tạo ra "Nguy cơ về sự bào chữa":
a)
Là người trung gian giao dịch hoặc xúc tiến bán các loại cổ phiếu,
các chứng khoán khác của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo; và
b)
Đóng vai trò là người bào chữa đại diện cho khách hàng sử dụng
dịch vụ đảm bảo trong vụ kiện hoặc khi giải quyết các tranh chấp với bên thứ
ba.

6


4. “Nguy cơ về quan hệ ruột thịt” xảy ra khi công ty kiểm toán hoặc thành viên
của nhóm kiểm toán thông cảm với lợi ích của khách hàng vì có quan hệ ruột thịt với
khách hàng (như thành viên Ban Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, kế toán
trưởng và tương đương của khách hàng) sử dụng dịch vụ đảm bảo.
Ví dụ về các trường hợp có thể tạo ra "Nguy cơ về quan hệ ruột thịt":
a)
Một thành viên của nhóm kiểm toán có quan hệ gia đình ruột thịt
với Giám đốc hoặc thành viên Ban Giám đốc của khách hàng sử dụng dịch vụ
đảm bảo;
b)
Một thành viên của nhóm kiểm toán có quan hệ gia đình ruột thịt
với nhân viên giữ chức vụ có ảnh hưởng đáng kể và trực tiếp đối với vấn đề
trọng yếu của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo của khách hàng sử dụng
dịch vụ đảm bảo;
c)
Trong một số trường hợp có các mối quan hệ khác không là quan
hệ ruột thịt nhưng có ảnh hưởng đến tính độc lập, như các ví dụ sau đây:
- Giám đốc trước đây của công ty kiểm toán đang là Giám đốc hoặc là thành viên

Ban Giám đốc của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc là nhân viên giữ chức vụ
có ảnh hưởng đáng kể và trực tiếp đối với vấn đề trọng yếu của hợp đồng cung cấp
dịch vụ đảm bảo;
- Có trên 3 năm giữ chức vụ trưởng nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo của cùng
một khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo; và
- Nhận quà tặng, dự chiêu đãi hoặc nhận sự ưu ái từ khách hàng sử dụng dịch vụ
đảm bảo, hoặc từ Giám đốc, thành viên Ban Giám đốc hoặc nhân viên của họ (trừ
trường hợp giá trị quá nhỏ).
5. “Nguy cơ bị đe dọa” xảy ra khi một thành viên của nhóm kiểm toán bị đe dọa
(đe dọa thật hoặc cảm thấy bị đe doạ) nhằm ngăn cản hành động theo đúng nguyên tắc
khách quan và hoài nghi nghề nghiệp cần thiết từ phía Giám đốc, thành viên Ban Giám
đốc hoặc nhân viên giữ chức vụ có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng sử dụng dịch
vụ đảm bảo.
Ví dụ về các trường hợp có thể tạo ra "Nguy cơ bị đe dọa":
a)
Đe dọa sẽ thay thế khi có bất đồng về việc áp dụng một nguyên
tắc kế toán; và
b)
Áp lực làm giảm phạm vi của dịch vụ đã cam kết nhằm giảm phí.
3.4.3 Các biện pháp bảo vệ
Các biện pháp bảo vệ có thể loại bỏ hay làm giảm nhẹ các nguy cơ xuống mức
chấp nhận được bao gồm hai nhóm lớn như sau:
a) Các biện pháp bảo vệ do pháp luật và chuẩn mực quy định; và
b) Các biện pháp bảo vệ do môi trường làm việc tạo ra.
Các biện pháp bảo vệ do pháp luật và chuẩn mực quy định bao gồm nhưng không

7


giới hạn ở các biện pháp sau:

- Yêu cầu về học vấn, đào tạo và kinh nghiệm làm nghề kế toán và kiểm toán.
- Các yêu cầu về cập nhật chuyên môn liên tục.
- Các quy định về bộ máy quản lý điều hành doanh nghiệp.
- Các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định về thủ tục soát xét.
- Các quy trình kiểm soát của Hội nghề nghiệp hay của cơ quan quản lý nhà nước
và các biện pháp kỷ luật.
- Kiểm soát từ bên ngoài do một bên thứ ba được ủy quyền hợp pháp đối với các
báo cáo, tờ khai, thông báo hay thông tin do người làm kế toán và người làm kiểm
toán lập.
Một số biện pháp bảo vệ có thể nâng cao khả năng phát hiện hay ngăn cản hành vi
vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Những biện pháp bảo vệ đó có thể do Hội nghề nghiệp
hướng dẫn hoặc quy định của pháp luật, hoặc quy định của tổ chức sử dụng lao động,
bao gồm nhưng không giới hạn ở những biện pháp sau:
- Các hệ thống khiếu nại hữu hiệu, được quảng bá rộng rãi, được tổ chức sử dụng
lao động, Hội nghề nghiệp kế toán hay cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Những hệ
thống này tạo điều kiện cho các đồng nghiệp, chủ doanh nghiệp và công chúng chú ý
đến các hành vi thiếu tính chuyên nghiệp hay vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm báo cáo các vi phạm về đạo đức nghề nghiệp.
Bản chất của các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng sẽ thay đổi tùy thuộc vào
hoàn cảnh. Khi đưa ra các xét đoán chuyên môn, người làm kế toán và người làm kiểm
toán cần cân nhắc áp dụng các biện pháp bảo vệ để không bị một bên thứ ba với hiểu
biết đầy đủ về tất cả các thông tin liên quan kể cả mức độ quan trọng của nguy cơ và
các biện pháp được áp dụng cho là không phù hợp.
3.4.4 Nguyên tắc giải quyết các xung đột về đạo đức nghề nghiệp kế toán kiểm
toán
Trong nền kinh tế thị trường, càng ngày càng có nhiều tình huống có thể dẫn đến
các xung đột về lợi ích trong nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Những xung đột này có
thể nảy sinh từ nhiều con đường khác nhau, từ những tình huống khó xử, không quan
trọng cho đến những trường hợp gian lận và vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng.
Khó liệt kê hết danh sách các trường hợp có nguy cơ xảy ra xung đột lợi ích. Người

làm kế toán và người làm kiểm toán cần phải thường xuyên tỉnh táo, có sự hoài nghi
nghề nghiệp và cảnh báo về các nhân tố có thể nảy sinh xung đột về lợi ích. Sự khác
nhau về ý kiến trung thực giữa một người làm kế toán và người làm kiểm toán với một

8


bên khác không chỉ là vấn đề đạo đức. Tuy nhiên, thực tế và hoàn cảnh của từng
trường hợp cần được các bên liên quan xem xét cụ thể.
* Các nhân tố cụ thể có thể xảy ra khi trách nhiệm của người làm kế toán và người
làm kiểm toán bị xung đột về đạo đức:
a) Áp lực từ cơ quan quản lý, đơn vị cấp trên, giám đốc, người lãnh đạo công ty
kiểm toán; hoặc khi có các quan hệ gia đình hay cá nhân. Các mối quan hệ hay lợi ích
có thể có ảnh hưởng trái ngược, làm vi phạm hay đe dọa đến tính chính trực của người
làm kế toán và người làm kiểm toán thì cần được loại bỏ hoặc hạn chế.
b) Người làm kế toán và người làm kiểm toán có thể bị yêu cầu hành động trái với
các chuẩn mực nghề nghiệp và chuyên môn.
c) Có thể có vấn đề về lòng trung thành giữa một bên là cấp trên và một bên là yêu
cầu của chuẩn mực nghề nghiệp mà người làm kế toán và người làm kiểm toán cần
tuân thủ.
d) Xung đột có thể nảy sinh khi thông tin không trung thực được công bố có thể
ảnh hưởng đến lợi ích của chủ doanh nghiệp hoặc khách hàng, người làm kế toán và
người làm kiểm toán.
* Khi áp dụng chuẩn mực đạo đức, người làm kế toán và người làm kiểm toán có
thể gặp khó khăn trong việc xác định hành vi vi phạm đạo đức hoặc giải quyết các
xung đột về lợi ích. Khi đối mặt với các vấn đề về đạo đức, người làm kế toán và
người làm kiểm toán cần phải làm theo các chính sách của doanh nghiệp nơi họ làm
việc để tìm kiếm cách giải quyết xung đột. Nếu những chính sách này không giải
quyết được các xung đột về đạo đức thì cần phải xem xét các vấn đề sau:
a) Xem xét lại vấn đề xung đột với cấp trên trực tiếp. Nếu không thể giải quyết

được thì phải báo cáo với cấp quản lý cao hơn sau khi đã báo cáo với cấp trên trực tiếp
về quyết định này. Nếu cấp trên cũng có liên quan đến vấn đề xung đột thì phải báo
cáo lên cấp quản lý cao hơn nữa. Cấp trên trực tiếp có thể là trưởng phòng, cấp trên
cao hơn là giám đốc chi nhánh, cao hơn nữa là giám đốc công ty hoặc Đại hội cổ đông.
b) Trao đổi với chuyên gia (Hội nghề nghiệp, cơ quan nhà nước hoặc chuyên gia
tư vấn pháp luật).
c) Nếu xung đột về đạo đức vẫn còn và là trọng yếu sau khi đã báo cáo tất cả các
cấp soát xét nội bộ, người làm kế toán và người làm kiểm toán chỉ còn cách cuối cùng
để không vi phạm đạo đức nghề nghiệp là phải từ chối làm việc đó hoặc từ chức và nói
rõ lý do.
Nếu các xung đột về đạo đức là trọng yếu thì tuỳ theo yêu cầu của pháp luật và
các quy định, người làm kế toán và người làm kiểm toán phải thông báo trong thời
9


gian sớm nhất hành vi đó cho cơ quan chức năng có liên quan sau khi trao đổi với Hội
nghề nghiệp, chuyên gia hoặc chuyên gia tư vấn pháp luật.
Chuyên gia tư vấn phải là người có năng lực và phải đảm bảo tính bảo mật cho
người làm kế toán và người làm kiểm toán khi trao đổi về các xung đột về đạo đức.
Người làm kế toán và người làm kiểm toán khi ở vị trí lãnh đạo công ty kiểm toán
thì cần nỗ lực thực thi các chính sách của doanh nghiệp để giải quyết được các xung
đột về đạo đức.
Trường hợp có xung đột trong nội bộ một tổ chức hoặc với một tổ chức khác,
người làm kế toán và người làm kiểm toán cần tham khảo ý kiến của những người chịu
trách nhiệm về bộ máy quản lý điều hành của tổ chức đó như Ban giám đốc hay bộ
phận kiểm toán nội bộ.
Vì quyền lợi của mình, người làm kế toán và người làm kiểm toán nên ghi lại
bằng văn bản bản chất của xung đột và nội dung của bất cứ cuộc trao đổi nào đã được
thực hiện hay bất cứ quyết định nào đã ban hành liên quan đến vấn đề đó.
3.4.5. Nguyên tắc áp dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho các hoạt động

chuyên nghiệp xuyên quốc gia
Khi áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp trong các hoạt động chuyên
nghiệp xuyên quốc gia, có thể nảy sinh một số vấn đề. Đối với người làm kế toán và
người làm kiểm toán là thành viên của tổ chức nghề nghiệp quốc tế đồng thời cũng là
thành viên của tổ chức nghề nghiệp tại Việt Nam (hoặc có Chứng chỉ kiểm toán viên,
Chứng chỉ hành nghề kế toán của Việt Nam) thì khi cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp
tại Việt Nam phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Việt Nam.
Một kế toán viên chuyên nghiệp người nước ngoài được công nhận ở một nước
khác nhưng chưa có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ hành nghề kế toán của
Việt Nam có thể cư trú hoặc chỉ đến Việt Nam một thời gian tạm thời để thực hiện
dịch vụ. Trường hợp kết quả dịch vụ được sử dụng ở Việt Nam thì người kế toán viên
chuyên nghiệp này cần phải tuân thủ các chuẩn mực kỹ thuật phù hợp và các yêu cầu
về đạo đức nghề nghiệp của Việt Nam khi cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp. Tuy
nhiên, xét trên mọi khía cạnh, người kế toán viên chuyên nghiệp này cần phải thực
hiện các hướng dẫn về đạo đức.
Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán của Việt Nam cung cấp dịch vụ tại
nước ngoài hoặc kế toán viên chuyên nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ tại Việt
Nam và có những quy định khác biệt về tiêu chuẩn đạo đức giữa hai nước thì cần thực
hiện các hướng dẫn sau:

10


a) Khi tiêu chuẩn đạo đức của Việt Nam không chặt chẽ bằng chuẩn mực đạo
đức của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) thì phải áp dụng theo chuẩn mực đạo đức
của IFAC.
b) Khi tiêu chuẩn đạo đức của Việt Nam chặt chẽ hơn chuẩn mực đạo đức của
IFAC thì phải áp dụng theo chuẩn mực đạo đức của Việt Nam.
c) Khi tiêu chuẩn đạo đức của quốc gia mà người làm kế toán và người làm kiểm
toán của Việt Nam cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp chặt chẽ hơn cả tiêu chuẩn đạo

đức của Việt Nam và của chuẩn mực đạo đức của IFAC thì phải thực hiện theo chuẩn
mực đạo đức của quốc gia đó.
Đạo đức có thể định nghĩa theo các khía cạnh sau:
- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
- Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.
- Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ
con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản
thân mình.
Khi nghiên cứu đạo đức chúng ta cần quan tâm đến một số phạm trù cơ bản của
đạo đức như: lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, thiện và ác, lương tâm, nghĩa vụ.
1. Lẽ sống – đội cam
a) Khái niệm: Lẽ sống là những quan niệm sống của con người, là sự thống
nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của
con người.
b) Bản chất:
- Do lẽ sống là vấn đề mang bản chất tinh thần sâu xa nhất gắn liền với xã hội
và con người, nên nhiều nhà triết học, đạo đức học đã xem lẽ sống là vấn đề vừa có ý
nghĩa triết học, vừa có ý nghĩa đạo đức học và là trung tâm khi nghiên cứu con người
của mọi thời đại.Lẽ sống là sự sống tinh thần dưới hình thức như lý tưởng, đạo lý, triết
lý...Sức sống đo bằng năng lượng vật chất cấp cho sự sống trần thế để tồn tại và phát
triển.
- Lẽ sống có hai loại:
 Lẽ sống tầm thường: được nảy sinh và giới hạn bởi những ham muốn cụ thể
và ít liên quan đến trách nhiệm của mình đối với người khác và xã hội.

11



Ví dụ: bệnh thành tích trong giáo dục => muốn trở thành học sinh giỏi có
thể đi cửa sau để được cố giáo cho điểm cao hơn => không công bằng trong
giáo dục, đầu óc học sinh trống rỗng
 Lẽ sống đạo đức: là một quan niệm sống của con người mà nội dung chính
là mối quan hệ giữa hạnh phúc và nghĩa vụ. Nói cách khác, lẽ sống đạo đức
lẽ sống đạo đức chính là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức
được, tự giác hành động vì một lý tưởng đạo đức cao đẹp dựa trên một quan
niệm nhân sinh tiến bộ.
Ví dụ: học tập tốt để sau này có công việc ổn định, có thu nhập cho cá nhân,
ổn định cuộc sống của bản thân, đồng thời góp phần phát triển xã hội
=> Lẽ sống đạo đức khác lẽ sống tầm thường ở chỗ con người nhận ra ý
nghĩa cuộc sống của mình hướng tới những giá trị đích thực, tự nguyện, tự
giác làm điều lợi vì hạnh phúc của xã hội, tự giác sống vì người khác dù
trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều có ý thức giữ gìn nhân cách, phẩm giá của
mình. “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ
không khuất phục”.
c) Kinh nghiệm: Câu chuyện Chiến thắng bằng nghị lực
Ðã có rất nhiều vận động viên khuyết tật gây dấu ấn trong làng thể thao và
trong lòng người hâm mộ Việt Nam. Thành tích của họ không những mang lại vinh
quang cho quê hương, đất nước, mà cao hơn chính là chiến thắng của nghị lực, vượt
lên hoàn cảnh và số phận.Cây vợt Nguyễn Văn Thương, thành viên Câu lạc bộ cầu
lông khuyết tật Hà Nội là một người như vậy. Sinh sống tại miền quê quan họ Bắc
Ninh, hằng tuần đều đặn bốn buổi, không quản nắng mưa, anh vẫn vượt hơn 30 km để
sang Hà Nội tham gia các buổi tập luyện, thi đấu của câu lạcbộ tại các giải đấu. Mặc
dù đôi chân bị khuyết tật, không như những người bình thường khác, nhưng anh lại lựa
1chọn môn thể thao đòi hỏi sự vận động và di chuyển liên tục là cầu lông.Ðiều này chỉ
có thể được lý giải từniềm đam mê mãnh liệt. Anh Thương cho biết: - Không may bị
bại liệt từ hồi hai tuổi, việc đi lại với tôi vốn đã rất khó khăn bởi cái chân tập tễnh. Tôi
bắt đầu ham thích cầu lông từ năm 12 tuổi, khi thấy các bạn chơi ở sân trường.Thời

gian đầu mới tập thật vô cùng vất vả và đau nhức. Song tôi tự nhủ mình cần phải cố
gắng hơn nữa, lấy sự dẻo dai, khéo léo để bù lại đôi chân tật nguyền. Dần dần, sự kiên
trì đã được báo đáp bằng những giải thưởng cho lứa tuổi thiếu niên ở địa phương.
Ðược sự ủng hộ của gia đình, bè bạn, tôi có thêm động lực để theo đuổi môn thể thao
này.Sau nhiều năm bền bỉ, anh Thương đã sở hữu bảng thành tích mà nhiều vận động
viên phải ngưỡng mộ: 42 huy chương các loại với 14 Huy chương vàng (HCV), chín
Huy chương bạc (HCB), 18 Huy chương đồng (HCÐ), trong đó có một HCB và một
HCÐ tại Giải ASEAN Para Games 2. Khi được hỏi về mơ ước của mình, anh Thương
chỉ mong muốn quê hương Bắc Ninh thành lập được một câu lạc bộ cầu lông dành cho
người khuyết tật như ở Hà Nội, để biết bao người kém may mắn song có cùng sở thích
và đam mê cầu lông như anh cũng có cơ hội được tập luyện và phát triển

12


2. Hạnh phúc – đội xám
a) Khái niệm : Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được
thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc
cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu
tác động của lý trí
b) Bản chất: Hạnh phúc là cảm giác, thứ phải được cảm bằng tâm chứ không
phải một dữ liệu để ta có thể đánh giá. Hạnh phúc có tính tương đối, cũng có tính lịch
sử xã hội.
- Tính tương đối: Trong xã hội, nhu cầu của con người luôn phát triển cho nên
sự thỏa mãn nhu cầu không có tính tuyệt đối. ở mỗi người, sự cảm nhận về hạnh phúc
cũng mang tính riêng tư. Đối với cùng 1 giá trị, nhưng với người này thì hạnh phúc trở
nên tuyệt vời nhưng ở người khác có khi bình thường hoặc thậm chí đau khổ
Ví dụ: nhặt được tiền : người nhặt thấy sung sướng, nhưng người mất thì thấy
đau khổ
-Tính lịch sử - xã hội: ở mỗi thời đại lịch sử, nhu cầu xã hội khác nhau và sự

tạo điều kiện để thỏa mãn những nhu cầu ấy cũng khác nhau. Nên hạnh phúc của con
người cũng khác nhau ở những thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau
Ví dụ: Ngày xưa: cơm no - áo ấm. Ngày nay: ăn ngon - mặc đẹp
Hạnh phúc không phải là thứ có thể đạt được một mình.Luôn có sự kết nối,
bằng cách này hay cách khác, giữa hạnh phúc và các mối quan hệ người với người.
c) Kinh nghiệm:
- Hạnh phúc cá nhân như: hạnh phúc khi có 1 gia đình hòa thuận êm ấm, những
người bạn thân thiết để chia sẻ vui buồn cuộc sống, kinh tế ổn định vững chắc để có 1
cuộc sống đầy đủ, 1 tình yêu đích thực, hạnh phúc khi những người thân yêu bên cạnh
ta đang hạnh phúc.…
- Hạnh phúc xã hội là: chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn hơn mình về vật
chất và tinh thần, giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn ( như giúp người già yếu, trẻ
em), giúp mọi người trong xã hội có 1 cuộc sống ấm êm hơn…
3. Danh dự - đội tím
a) Khái niệm: Danh dự là sự coi trọng đánh giá của dư luận xã hội đối với một
người dựa trên các giá trị tinh thần đạo đức của người đó, khi con người tạo ra được
cho mình những giá trị tinh thần đạo đức được xã hội công nhân thì người đó có danh
dự.
b) Bản chất:
Danh dự chính sự cống hiến sự công nhận của người khác dựa trên những điều
tốt đẹp
Danh dự là do chính mình tạo ra, là kết quả của sự giữ gìn
13


Danh dự được tạo ra từ những gì mình làm tuy nhiên nó có thể bị vu khống do
người khác cố tình.
Danh dự không thể xây dựng được ngày một ngày hai mà đó là cả một quá trình
c) Ví dụ:
Nếu ta muốn kí hợp đồng làm ăn với một đối tác nào đó thì ta sẽ tìm hiểu về họ và

nếu nhận được những lời khen hay những ý kiến tích cực thì ta sẽ kí hợp đồng với họ.
nói cách khác những ý kiến là danh dự của đối tác với mọi người và danh dụ có được
coi trọng hay không là do chính bản thân mình.
Nếu có người bảo bạn ăn cắp 1 tài sản nào đó mà bạn không làm thì đó là họ đang làm
mất danh dự của bạn.
Trong lớp có bạn mất đồ cả lớp nghi ngờ lẫn nhau nhưng nếu một người nào đó mà
khiến không ai nghi ngờ thì là họ đã tạo được danh dự cho chính bản thân mình.
Nếu một người luôn giúp đỡ người khác nhưng chỉ vì lòng tham nhất thời mà lấy 1 đồ
gì đó không phải của mình thì cũng làm cho danh dự bị mất đi
d) Kinh nghiệm sống:
Hãy đối xử tốt với người khác theo cách mình muốn được người khác đối xử, cho dù
họ có không tốt lại với chính bản thân mình.
Ghen tị là rất tốt nó giúp mình có động lực hơn để cố gắng những không nên quá suy
nghĩ về những gì người khác có như vậy rất dễ dẫn đến những hành động xấu ảnh
hưởng đến danh dự bản thân, danh dự đã mất đi khó có lấy lại được vì lấy được lòng
tin của một người với mình không phải chuyện dễ dàng.
Không ham muốn những thứ không phải của mình, muốn có hãy tự mình cố gắng đạt
lấy.
Đối với những người muốn bôi nhọ danh dự của mình không nên đôi co với họ bởi chỉ
mình hiểu mình đã làm những gì và điều tất nhiên giấy không bọc được lửa mọi người
sẽ đánh giá chính con người của mình qua cách mình sống và hành đông.

4. Thiện và ác – đội nâu

14


a) Khái niệm: Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là
thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm
thước đo đời sống đạo đức của con người.

Thiện: Thiện là cái tích cực, cái tiến bộ, cái có ích, phù hợp với lịch sử, cái
thiện là cái đạo đức. Thiện là lợi ích của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người làm cho con người ngày
càng sung sướng hơn, tự do, hạnh phúc hơn. xã hội càng văn minh càng yêu cầu con
người sống thiện.
Ác: Là cái tiêu cực, cái lạc hậu, cái có hại, không phù hợp với lịch sử, cái ác là
cái phi đạo đức.
b) Bản chất: Cái thiện cái ác là sự thống nhất giữa mục đích và kết
quả, giữa động cơ và phương tiện. Giữa mục đích và kết quả không bao giờ
cùng đồng nhất. Vì vậy trong đánh giá, cần coi trọng động cơ. Một hành động có mục
đích tốt, nhưng kết quả không tốt, chúng ta không coi là ác, nhưng nếu xuất phát từ
mục đích xấu xa, thì dù kết quả có tốt cũng vẫn coi là ác, bởi lẽ cái tốt đó không phụ
thuộc vào chủ thể hành động mà do những ngẫu nhiên bên ngoài khác chi phối. Giữa
động cơ và phương tiện cũng vậy. Nếu phương tiện đã bao hàm động cơ thì mục đích
thiện không thể dùng các phương tiện tàn ác. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn loại
bỏ việc thực hiện những mục tiêu thiện, những đòi hỏi phải vượt qua khó khăn vất vả
kể cả nỗi đau khổ để đến với cái thiện.
c) Ví dụ:
Thiện là chân lý ví dụ như con cháu phải kinh trọng ông bà cha mẹ nếu đi
ngược với đạo lý đó là cái ác
Thiện và ác chỉ có thể được định nghĩa một cách tương đối. Ví dụ hành vi giết
người để tế thần linh nơi các bộ lạc bán khai, đối với họ việc làm này là thiện, nhưng
đối với chúng ta việc làm này là ác.
Một hành vi được gọi là thiện vẫn mang theo một vài khía cạnh ác của nó. Ví
dụ, đắp đường là một việc thiện rất lớn. Nhưng trong khi đắp đường, người này cũng
phải đào xới, đổ đất đá, chất dụng cụ làm cản trở giao thông một thời gian ngắn.. Như
vậy cũng là ác, nhưng cái ác nhỏ so với giá trị thiện lớn lao lâu dài về sau.
Việc xịt thuốc trừ sâu rầy bảo vệ cây trồng. Việc này có khía cạnh thiện là làm
ra lương thực cho con người sử dụng, và ác là sát sinh một số sâu rầy.
Gây chiến tranh là một tội ác lớn, nhưng đối với kinh tế gia Malthus (17661834) thì chiến tranh, chết đói, bệnh tật là những điều cần thiết để làm giảm bớt sự gia

tăng dân số của loài người. Theo ông, lương thực tăng rất chậm trong khi dân số tăng
rất nhanh. Con người càng đông thì càng phải phá rừng nhiều hơn để lấy chất đốt.
Rừng bị tàn phá thì sinh thái xáo trộn, mùa mưa có nhiều bão lụt và mùa nắng thì
mạch nước tắt khô. Thủy điện bị ảnh hưởng nghiêm trọng, không khí không được lọc
sạch... Tất cả chuyên gia về kinh tế đều lo ngại về dân số đến nỗi một số quốc gia
15


khuyến khích việc phá thai bất chấp sự chống đối của tôn giáo, có thể một mặt nào đó
chiến tranh cũng có mặt thiện.
d) Kinh nghiệm:
Hằng ngày đi học bằng xe bus,trên xe bus nhiều hành khách bị mói túi. Có
những người nhìn thấy kẻ trộm móc túi người khác trên xe bus nhưng vì sợ bị trả thù
nên im lặng không nói gì. Có một hôm trên chuyến xe bus tôi đi, có một bạn nam thay
vì im lặng đã hô hoán lên cho mọi người biết khi thấy kẻ gian móc túi một cô gái.
Hành động của chàng trai ấy rất dũng cảm, mọi người ai cũng ủng hộ, hết lời khen
ngợi, còn cô gái thì rối rít cảm ơn. Còn kẻ móc túi thì bị dẫn đến đồn công an để xử lý
theo pháp luật
 Hành động hô hoán mọi người biết là thiện, hành động móc túi là ác
5. Lương tâm – đội xanh
a) Khái niệm: Lương tâm là năng lực tự đánh giá và điều chỉnh hành vi đạo
đức của bản thân trong mối quan hệ với người khác và với xãhội
b) Bản chất:
- Lương tâm được xem như một loại cảm xúc đặc biệt thể hiện ra như thước đo
mức độ trưởng thành đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội.
- Lương tâm vừa là ý thức vừa là tình cảm con người, càng có thiện tâm, thiện ý
và càng hành động tốt bao nhiêu thì lương tâm càng yên ổn bấy nhiêu và ngược lại. do
đó, lương tâm là ngọn nguồn của hạnh phúc.
- Lương tâm được biểu hiện ở hai trạng thái khẳng định và phủ định.
 Trạng thái khẳng định là sự thư thái của lương tâm là cảm giác trong sạch của

lương tâm. Trạng thái khẳng định của lương tâm có vai trò nâng cao tính tích
cực của con người, giúp con người tin tưởng vào bản thân trong quá trình hoạt
động. Đó là niềm tin bên trong có ý nghĩa thôi thúc con người vươn tới cái
thiện, cái tốt đẹp, đóng gó`p tích cực vào sự phát triển xã hội.
 Trạng thái phủ định, con người cảm thấy sự cắn rứt, sự không trong sạch của
lương tâm. Trạng thái phủ định của lương tâm gây cho con người cảm giác đau
khổ, làm suy giảm hoạt động tích cực của con người, nhưng trạng thái này cũng
có vị trí quan trọng trong hoạt động của con người. Bằng sự cắn rứt, đau khổ,
trạng thái phủ định của lương tâm nhắc nhở, giúp các chủ thể hành động suy
nghĩ lại và uốn nắn những hành vi sai trái của mình trở lại con đường đúng đắn.
-Lương tâm là đặc trưng của cá nhân nên nó có tính chủ quan nghĩa là lương
tâm phụ thuộc bởi năng lực, khả năng, tình cảm và trí tuệ của mỗi con người. Nhưng
lương tâm còn có tính chất giai cấp tức là do lập trường quan điểm giai cấp chi phối ý
thức đạo đức và tình cảm đạo đức đồng thời lương tâm còn có tính nhân loại phổ biến
đó là sự công bằng và các giá trị phổ quát... Do đó, có những kẻ thuộc giai cấp thống
trị vẫn tỏ ra có lương tâm.
c) Ví dụ: Khi thấy có người bị hại mà giúp đỡ họ sẽ thấy lương tâm thanh thản.
Nhưng khi đi trộm cắp, sẽ thấy bứt rứt, lo sợ sẽ có ngày bị công an bắt được.
16


d) Kinh nghiệm:
Khi đang trên đường tham gia giao thông, một chàng trai vô tình quẹt xe vào
một bà cụ đang đi bộ ven đường, bà cụ bị ngã ngay sau đó, chàng trai hoảng sợ, mặc
kệ bà cụ mà phóng xe đi luôn. Ngay lúc đó, một cậu học sinh cấp 3 đang đi xe đạp qua
thấy bà cụ ngã quỵ xuống đường, liền dừng lại và đỡ bà cụ lên, khi biết bà cụ không
sao, cậu học trò còn hỏi nhà bà ở đâu mà muốn đưa bà về.
=>Trong ví dụ này cho thấy, lương tâm xuất hiện rất rõ rệt trong cùng 1 hoàn
cảnh, với hai con người khác nhau một người thuộc trạng thái phủ định, đó là hành
động vô ý đâm vào bà cụ và thờ ơ trước cảnh bà cụ bị ngã của chàng thanh niên, còn

một người thuộc trạng thái khẳng định, đó là hành động giúp đỡ bà cụ của e học sinh.
Qua đây chúng ta có thể rút ra một điều rất cơ bản, lương tâm phụ thuộc rất nhiều vào
khả năng, trí tuệ, đạo đức và nhất là tình cảm của mỗi con người. Chúng ta hoàn toàn
làm chủ được lương tâm của bản thân mình, nhưng trong nhiều hoàn cảnh có thể là bị
chi phối bởi quá nhiều áp lực, sự hận thù, bản năng,..làm cho con người ta luôn biểu
hiện lương tâm của mình theo trạng thái phủ định.

CH: ????
Lương tâm có ý nghĩa ntn đối với đời sống đạo đức? – những cái tốt đẹp trong
cuộc sống được duy trì và phát triển
Phải làm ntn để trở thành 1 ng có lương tâm? – thường xuyên rèn luyện tư
tưởng đạo đức theo quan điểm cách mạng và tự nguyện thực hiện hành vi đạo đức –
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bản thân 1 cách tự nguyện để trở thành ng công dân có
ích cho xh – bồi dưỡng tình cảm trong sáng trong quan hệ giữa ng với ng : bao dung,
nhân ái
6. Nghĩa vụ - đội vàng
a) Khái niệm
Nghĩa vụ là việc, hành vi bắt buộc phải làm để phục vụ xã hội,người khác kể cả
bản thân mà đạo đức hay pháp luật quy định.
Nghĩa vụ là sự phản ánh những mối quan hẹ đạo đức đặc biệt giữa cá nhân với
cá nhân và giữa cá nhân với xã hội. nghĩa vụ là một trong những nét đặc trưng của đời
sống con người khác với con vật chỉ quan hệ với nhau trên bản năng
Nghĩa vụ là trách nhiệm của cá nhân đối với yêu cầu , lợi ích chung của
cộng đồng
,
của

hội
.
Nghĩa vụ là ý thức và tình cảm của mỗi cá nhân biết đem nhu cầu và lợi ích của mình

kết hợp hài hoà với NC và lợi ích của người khác , của toàn xã hội
b) Bản chất:

17


- Nghĩa vụ đạo đức không thể là sự ép buộc từ bên ngoài, mà gắn bó chặt chẽ
với ý thức của con người về lẽ sống, lý tưởng về hạnh phúc và về những quan niệm
mang tính triết lý của cuộc sống. Những quan niệm đúng đắn giúp con người trước hết
là nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống nhất hạnh
phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội và người khác.
- Ý thức nghĩa vụ đạo đức thường được nuôi dưỡng, củng cố phát triển trong
môi trường của một nền giáo dục tốt, môi trường gia đình đầm ấm, xã hội lành mạnh.
- nguồn gốc của ý thức nghĩa vụ là long biết ơn đối với xã hội, là ý thức trách
nhiệm trong việc bảo vệ những lợi ích xã hội ,là tình cảm yêu thương đoàn kết giữa
con ng và con người
c) Ví dụ:Con người muốn phát triển và đáp ứng được những yêu cầu cần
phải thực hiện các nghĩa vụ của mình .
Thực hiện nghĩa vụ bằng hai cách : Tình cảm và ý thức .
- ý thức nghĩa vụ : Là ý thức của mỗi cá nhân hiểu biết được sự tất
yếu phải kết hợp hài hoà những nhu cầu và lợi ích của mình với nhu cầu và lợi ích của
người khác , của toàn xã hội .
VD : - Con không cãi lời cha mẹ .
- Học sinh thực hiện nội quy nhà trường ...
- Tình cảm nghĩa vụ : Khi ý thức nghĩa vụ trở thành nhu cầu tình cảm bên
trong của tâm hồn con người , thôi thúc con người thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với xã hội thì ý thức nghĩa vụ trở thành tình cảm nghĩa vụ.
VD : - Giúp đỡ bạn trong học tập .
- ủng hộ đồng bào vùng lũ lụt
d) Trải nghiệm :

Nghĩa vụ của người thanh nien Việt Nam hiện nay .
- Chăm lo rèn luyện đạo đức của bản thân .
- Không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hoá , tiếp thu
KHKT và công nghệ hiện đại .
- Tích cực tham gia lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và của
cải tinh thần cho bản thân , gia đình và cho xã hội .
- Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt
Nam XHCN
Khái niệm: Nghĩa vụ được hiểu như là mặt tất yếu của nhiệm vụ mà cá nhân ấy
được thực hiện trước xã hội, là sự phục tùng lợi ích xã hội, là mệnh lệnh từ bên ngoài.
Nghĩa vụ là sự phản ánh những mối quan hệ đạo đức đặc biệt giữa con người
với con người và con người và xã hội. Nghĩa vụ là 1 nét đặc trưng trong đời sống con
người, khác với con vật chỉ mang tính bản năng
Bản chất:
 Thực hiện hoàn toàn tự giác.

18


 Hành động phải phù hợp với tiêu chuẩn tiến bộ xã hội, có sáng tạo ra giá
trị cao đẹp.
 Hành động hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi lợi ích vật chất và
lợi ích cá nhân nào
 Nguồn gốc của ý thức nghĩa vụ là lòng biết ơn đối với xã hội, là ý thức
trách nhiệm trong việc bảo vệ những lợi ích xã hội, là tình cảm yêu
thương đoàn kết giữa con người và con người.
Ví dụ:
 Sói mẹ nuôi sói con đến khi trưởng thành, sau đó chúng sẽ có mối quan
hệ bình thường với nhau. Đó là bản năng của động vật
 Nghĩa vụ của bố mẹ là nuôi dưỡng con cái tới khi bố mẹ mất đi mới thôi.

Đó mới là nghĩa vụ cao cả của bố mẹ. Ngược lại, nghĩa vụ của con cái là
chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ khi ốm đau, khi về già.
- Kinh nghiệm: nghĩa vụ của học sinh : ngoan ngoãn, đi học chuyên cần,
nghe lời thầy cô bố mẹ,rèn luyện phẩm chất cá nhân và đạo đức,....
1 số dạng câu hỏi phản biện:
Tại sao bạn lại cho là như thế?
Bạn lấy thông tin này ở đâu?
Bạn có chắc là như thế này/ như thế kia k?
*Khái niệm:
“Lẽ sống” là gì?Một câu hỏi mà có lẽ ai cũng có thể trả lời nhưng cũng có thể
sẽ rất nhiều người trầm ngâm và im lặng. Đơn giản bởi vì “lẽ sống” là một mảnh đất
rất rộng, là mọi thứ mà ta chiêm nghiệm, định hướng nhưng lại rất ít người nhận thức
rõ ràng về điều này. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lẽ sống ở trong từng thời kì,
giai đoaanj khác nhau trong cuộc đời. Những có thể hiểu theo 1 cách dơn giản :Lẽ
sống chính là hoài bão và sứ mệnh của cuộc đời, là giá trị nền tảng, chuẩn hành
xửcủa chính mình. Xác định lẽ sống chính là trả lời câu hỏi: “Mình là ai, mình
sống để làm gì, mình sẽ dùng cuộc đời của mình vào việc gì và việc đó có đáng để
dùng hay không?”Ý nghĩa cuộc sống hay lẽ sống của con người là sự thống nhất
nghĩa vụ và hạnh phúc thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của con
người, cho nên lẽ sống đạo đức đó là sống đúng đắn biết kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân và xã hội..Xác định lẽ sống cũng chính là việc chọn cho mình lý do để sống (rốt
cuộc ý nghĩa của cuộc đời mình nằm ở đâu) – được coi là “đích đến”, “bánh lái trong
cuộc đời chúng ta. Đây là lựa chọn quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng tới tất cả những
lựa chọn còn lại. Con người sinh ra vốn dĩ là lương thiện, nhưng chọn lẽ sống khác
nhau thì sẽ có những con người khác nhau, cuộc đời khác nhau và số phận khác nhau.
*Bản chất:
-Do lẽ sống là vấn đề mang bản chất tinh thần sâu xa nhất gắn liền với xã hội và con
người, nên nhiều nhà triết học, đạo đức học đã xem lẽ sống là vấn đề vừa có ý nghĩa
19



triết học, vừa có ý nghĩa đạo đức học và là trung tâm khi nghiên cứu con người của
mọi thời đại.Lẽ sống là sự sống tinh thần dưới hình thức như lý tưởng, đạo lý, triết lý...
Sức sống đo bằng năng lượng vật chất cấp cho sự sống trần thế để tồn tại và phát triển.
-Lẽ sống có hai loại:
+ Lẽ sống tầm thường: được nảy sinh và giới hạn bởi những ham muốn cụ thể và ít
liên quan đến trách nhiệm của mình đối với người khác và xã hội.
+ Lẽ sống đạo đức: là một quan niệm sống của con người mà nội dung chính là mối
quan hệ giữa hạnh phúc và nghĩa vụ. Nói cách khác, lẽ sống đạo đức lẽ sống đạo đức
chính là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức được, tự giác hành động vì một
lý tưởng đạo đức cao đẹp dựa trên một quan niệm nhân sinh tiến bộ.
=> Lẽ sống đạo đức khác lẽ sống tầm thường ở chỗ con người nhận ra ý nghĩa cuộc
sống của mình hướng tới những giá trị đích thực, tự nguyện, tự giác làm điều lợi vì
hạnh phúc của xã hội, tự giác sống vì người khác dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều
có ý thức giữ gìn nhân cách, phẩm giá của mình. “giàu sang không quyến rũ, nghèo
khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”.
*Vai trò:
- Là cơ sở nền tảng để xây dưngh lý tưởng sống và hướng con người xác định đúng
mục đích cuộc sống để tạo ra hạnh phúc
- Giúp con người giữ gìn phẩm giá, danh dự, sống cao cả, gắn bó với tập thể, biết hi
sinh lợi ích cá nhân vì mục đích tập thể đem lại cho con người niềm lạc quan yêu đời.
- Xác định lẽ sống đúng đắn: tạo thành một lối sống, một quan niệm đúng đắn. Sống
để cống hiến cho xã hội, sống vì hạnh phúc người khác “đời yêu ta ta phải hiến cho
đời”, nó sẽ thúc đẩy con người hành động tiến lên.Nhân phẩm được đánh giá cao, giữ
gìn phẩm chất, danh dự.“Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”, “làm trai sống trong trời
đất phải xứng danh gì với núi sông”.
- Lẽ sống đạo đức sẽ mang lại hạnh phúc chân chính cho xã hội, cá nhân. lẽ sống đúng
đắn tạo nên tinh thần lạc quan, yêu đời “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương
đất Bắc” (Trần Bình Trọng). Các vị lãnh tụ đã chọn lẽ sống để cống hiến, mang lại
hạnh phúc nhiều nhất cho nhân dân nên trong khó khăn vẫn luôn lạc quan yêu đời.

* Hiểu biết thực tế:
Câu chuyện Chiến thắng bằng nghị lực
Ðã có rất nhiều vận động viên khuyết tật gây dấu ấn trong làng thể thao và trong lòng
người hâm mộ Việt Nam. Thành tích của họ không những mang lại vinh quang cho
quê hương, đất nước, mà cao hơn chính là chiến thắng của nghị lực, vượt lên hoàn
cảnh và số phận.Cây vợt Nguyễn Văn Thương, thành viên Câu lạc bộ cầu lông khuyết
tật Hà Nội là một người như vậy. Sinh sống tại miền quê quan họ Bắc Ninh, hằng tuần
đều đặn bốn buổi, không quản nắng mưa, anh vẫn vượt hơn 30 km để sang Hà Nội
tham gia các buổi tập luyện, thi đấu của câu lạcbộ tại các giải đấu. Mặc dù đôi chân bị
khuyết tật, không như những người bình thường khác, nhưng anh lại lựa 1chọn môn
thể thao đòi hỏi sự vận động và di chuyển liên tục là cầu lông.Ðiều này chỉ có thể
được lý giải từniềm đam mê mãnh liệt. Anh Thương cho biết: - Không may bị bại liệt
từ hồi hai tuổi, việc đi lại với tôi vốn đã rất khó khăn bởi cái chân tập tễnh. Tôi bắt đầu
20


ham thích cầu lông từ năm 12 tuổi, khi thấy các bạn chơi ở sân trường.Thời gian đầu
mới tập thật vô cùng vất vả và đau nhức. Song tôi tự nhủ mình cần phải cố gắng hơn
nữa, lấy sự dẻo dai, khéo léo để bù lại đôi chân tật nguyền. Dần dần, sự kiên trì đã
được báo đáp bằng những giải thưởng cho lứa tuổi thiếu niên ở địa phương. Ðược sự
ủng hộ của gia đình, bè bạn, tôi có thêm động lực để theo đuổi môn thể thao này.Sau
nhiều năm bền bỉ, anh Thương đã sở hữu bảng thành tích mà nhiều vận động viên phải
ngưỡng mộ: 42 huy chương các loại với 14 Huy chương vàng (HCV), chín Huy
chương bạc (HCB), 18 Huy chương đồng (HCÐ), trong đó có một HCB và một HCÐ
tại Giải ASEAN Para Games 2. Khi được hỏi về mơ ước của mình, anh Thương chỉ
mong muốn quê hương Bắc Ninh thành lập được một câu lạc bộ cầu lông dành cho
người khuyết tật như ở Hà Nội, để biết bao người kém may mắn song có cùng sở thích
và đam mê cầu lông như anh cũng có cơ hội được tập luyện và phát triển
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu
cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng

chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí.
Bản chất của hạnh phúc:
Hạnh phúc không chỉ là nụ cười, niềm vui… mà hạnh phúc có trong cả nước
mắt, giọt nước mắt của niềm vui sướng… Hạnh phúc là khi bạn khóc có người đặt bàn
tay lên vai bạn, hạnh phúc là khi bạn có người lắng nghe… Hạnh phúc đến bất ngờ và
đi cũng rất nhanh, nhưng đó là cảm giác gì đó khó quên.
Con người cũng hay nhìn vào những hình mẫu mà mọi người cho rằng là hạnh
phúc. Sự thật là không phải bất cứ điều gì cũng có thể đem lại hạnh phúc giống nhau
cho những cá thể khác nhau. Tiền bạc có thể đem lại hạnh phúc cho người này nhưng
đối với người kia nó lại là gánh nặng và đau khổ. Những gì từng được xem như hạnh
phúc lại trờ nên vô giá trị khi chúng ta đạt được. Và trong quá trình mù quáng theo
đuổi nó, chúng ta lại đánh mất hạnh phúc đích thực dành riêng cho mình.
Hạnh phúc thật sự không cần phải lớn lao. Những hạnh phúc nhỏ bé bình
thường nếu được duy trì vẫn sẽ tốt hơn một hạnh phúc to lớn được tạo dựng nhất thời.
Không có gì gọi là đại viên mãn. Đôi khi, trong lúc trượt dài vì mải mê theo đuổi một
hạnh phúc to lớn mờ ảo và xa vời, chúng ta cho phép mình “tạm” trượt dài trong con
dốc bất hạnh sâu hun hút. Và cái “tạm” đó đã nghiến hết cả cuộc đời vốn dĩ đã có thể
hạnh phúc với những điều giản đơn của mình.
Hạnh phúc là cảm giác, thứ phải được cảm bằng tâm chứ không phải một dữ
liệu để ta có thể đánh giá. Ta không thể tự hỏi việc này liệu có thể làm ta hạnh phúc
hơn việc khác dựa trên những thông tin cơ bản của chúng hay hỏi một ai đó nhờ tư vấn
rằng mình cưới người này sẽ hạnh phúc hơn người kia. Và đôi khi, thật tức cười là,
chúng ta lại không thể từ bỏ một mục tiêu vì đã đầu tư quá nhiều cho nó rồi.Những suy
nghĩ không chủ ý này có thể khiến ta mờ mắt mà đâm đầu vào một kết quả biết trước
là không phải thứ “hạnh phúc” mà mình mong muốn.
Hạnh phúc không phải là thứ có thể đạt được một mình.Luôn có sự kết nối,
bằng cách này hay cách khác, giữa hạnh phúc và các mối quan hệ người với người.Bạn
21



không thể có hạnh phúc từ tình yêu khi không có đối tượng.Bạn cũng không thể hạnh
phúc với công việc yêu thích nếu đang ở một thế giới không có bất kỳ ai để bạn
ngưỡng mộ, học hỏi hay một ai đó có thể thưởng thức kết quả từ công việc của
bạn.Nói đúng hơn, bạn làm những điều đó chẳng để làm gì. Càng quan trọng hóa hạnh
phúc, chúng ta càng cô đơn. Và một người luôn luôn cô đơn chẳng bao giờ có thể tìm
thấy hạnh phúc thật sự.
Ví dụ:
Hạnh phúc cá nhân như: hạnh phúc khi có 1 gia đình hòa thuận êm ấm, những
người bạn thân thiết để chia sẻ vui buồn cuộc sống, kinh tế ổn định vững chắc để có 1
cuộc sống đầy đủ, 1 tình yêu đích thực, hạnh phúc khi những người thân yêu bên cạnh
ta đang hạnh phúc.…
Hạnh phúc xã hội là: chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn hơn mình về vật
chất và tinh thần, giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn ( như giúp người già yếu, trẻ
em), giúp mọi người trong xã hội có 1 cuộc sống ấm êm hơn…
Kinh nghiệm sống:
Gia đình, bạn bè, người yêu là những người luôn yêu thương, quan tâm và
chăm sóc, ở bên chúng ta mỗi lúc buồn vui. Do vậy hãy dành thời gian nuôi dưỡng các
mối quan hệ đó bởi mỗi khi ở bên cạnh họ bạn luôn được là chính mình. Họ sẽ là chỗ
dựa tinh thần vững chắc, là chìa khóa để có được hạnh phúc trong cuộc sống.Theo
chuyên gia Daniel Gilbert thuộc ĐH Harvard (Mỹ), “Con người hạnh phúc vì có gia
đình, bạn bè và cách tốt nhất để hạnh phúc là có thật nhiều bạn bè”.
Trong cuộc sống vợ chồng,sự quan tâm đến gia đình không chỉ là nhiều hay ít
mà quan trọng hơn là cách thức thể hiện sự quan tâm đó như thế nào. Biết quan tâm tới
nhau tức là biết cảm thông và chia sẻ khó khăn, vui buồn. Có như vậy hạnh phúc mới
được xây dựng bền lâu…..
.Khái niệm:
Danh dự là sự coi trọng đánh giá của dư luận xã hội đối với một người dựa trên
các giá trị tinh thần đạo đức của người đó, khi con người tạo ra được cho mình những
giá trị tinh thần đạo đức được xã hội công nhân thì người đó có danh dự.
Bản chất:

Danh dự chính sự cống hiến sự công nhận của người khác dựa trên những điều
tốt đẹp
Danh dự là do chính mình tạo ra, là kết quả của sự giữ gìn
Danh dự được tạo ra từ những gì mình làm tuy nhiên nó có thể bị vu khống do
người khác cố tình.
Danh dự không thể xây dựng được ngày một ngày hai mà đó là cả một quá trình
Ví dụ:

22


- Nếu ta muốn kí hợp đồng làm ăn với một đối tác nào đó thì ta sẽ tìm hiểu về
họ và nếu nhận được những lời khen hay những ý kiến tích cực thì ta sẽ kí hợp đồng
với họ. nói cách khác những ý kiến là danh dự của đối tác với mọi người và danh dụ
có được coi trọng hay không là do chính bản thân mình.
- Nếu có người bảo bạn ăn cắp 1 tài sản nào đó mà bạn không làm thì đó là họ
đang làm mất danh dự của bạn.
- Trong lớp có bạn mất đồ cả lớp nghi ngờ lẫn nhau nhưng nếu một người nào
đó mà khiến không ai nghi ngờ thì là họ đã tạo được danh dự cho chính bản thân mình.
- Nếu một người luôn giúp đỡ người khác nhưng chỉ vì lòng tham nhất thời mà
lấy 1 đồ gì đó không phải của mình thì cũng làm cho danh dự bị mất đi
Kinh nghiệm sống:
- Hãy đối xử tốt với người khác theo cách mình muốn được người khác đối xử,
cho dù họ có không tốt lại với chính bản thân mình.
- Ghen tị là rất tốt nó giúp mình có động lực hơn để cố gắng những không nên
quá suy nghĩ về những gì người khác có như vậy rất dễ dẫn đến những hành động xấu
ảnh hưởng đến danh dự bản thân, danh dự đã mất đi khó có lấy lại được vì lấy được
lòng tin của một người với mình không phải chuyện dễ dàng.
- Không ham muốn những thứ không phải của mình, muốn có hãy tự mình cố
gắng đạt lấy.

- Đối với những người muốn bôi nhọ danh dự của mình không nên đôi co với
họ bởi chỉ mình hiểu mình đã làm những gì và điều tất nhiên giấy không bọc được lửa
mọi người sẽ đánh giá chính con người của mình qua cách mình sống và hành đông.
THIỆN VÀ ÁC


Khái niệm thiện và ác :

- Thiện: Thiện là cái tích cực, cái tiến bộ, cái có ích, phù hợp với lịch sử, cái
thiện là cái đạo đức. Thiện là lợi ích của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người làm cho con người ngày
càng sung sướng hơn, tự do, hạnh phúc hơn. xã hội càng văn minh càng yêu cầu con
người sống thiện.
- Ác: Là cái tiêu cực, cái lạc hậu, cái có hại, không phù hợp với lịch sử, cái ác là
cái phi đạo đức.


Nội dung thiện và ác

*Một số quan niệm thiện ác trong lịch sử
Quan niệm trước Mác: Những quan niệm trước Mác có khuynh hướng
quy cái

23


thiện và cái ác vào bản chất vốn có của con người mà không hiểu bản chất xã
hội
và tính lịch sử của cái thiện và ác.
+ Bản chất con người là thiện (Mạnh Tử)

+ Bản chất con người là ác
+ Con người hướng tới cái thiện

(Tuân Tử)
(Platon)

Quan niệm của đạo đức học Mác-Lênin: Mác quan niệm thiện và ác có tính
lịch sử xã hội và quan hệ chặt chẽ với tính giai cấp.
Ý thức của con người về cái thiện và cái ác là kết quả phản ánh những điều
kiện
kinh tế xã hội của thời đại và phụ thuộc vào vị trí của giai cấp
*Quan niệm về thiện:
+Cái thiện bao giờ cũng phải là sự sáng tạo tích cực của con người theo
những lý tưởng cao đẹp, đúng đắn.
+ Cái thiện trước hết phải là cái chân lý, cái đúng đắn
+ Thiện là cái tốt đẹp, là lợi ích của con người phù hợp với tiến bộ xã hội.
Theo đó, thiện trước hết là sự giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi mọi nỗi
khổ đau do sự bóc lột đem lại.
+ Là cái thiện hiện thực chứ không phải chỉ là ước muốn như những quan
niệm trước đó, cái thiện gắn với sự đấu tranh cho hạnh phúc con người
+ Cái thiện bản thân có sự sáng tạo vì chứa đựng chân lý, cái thiện
không chỉ trong ý thức tư tưởng mà phải được thể hiện trong hành động.
* Quan niệm về cái ác:
+ Cái ác là cái gây nên nỗi đau khổ bất hạnh cho con người. Cùng với những
biến
đổi lịch sử, theo chiều hướng tiến bộ, thì cái bình thường của thời đại này có
thể
trở thành cái ác của thời đại sau (còn cái thiện có thể trở thành bình thường).
+ Con người phấn đấu để gạt bỏ nỗi đau khổ cũng xem đó là sự chiến đấu
chống

cái ác.
Cái thiện cái ác là sự thống nhất giữa mục đích và kết quả, giữa
động cơ và phương tiện. Giữa mục đích và kết quả không bao giờ cùng đồng
nhất. Vì vậy trong đánh giá, cần coi trọng động cơ. Một hành động có mục đích tốt,
nhưng kết quả không tốt, chúng ta không coi là ác, nhưng nếu xuất phát từ mục đích
24


xấu xa, thì dù kết quả có tốt cũng vẫn coi là ác, bởi lẽ cái tốt đó không phụ thuộc vào
chủ thể hành động mà do những ngẫu nhiên bên ngoài khác chi phối. Giữa động cơ và
phương tiện cũng vậy. Nếu phương tiện đã bao hàm động cơ thì mục đích thiện không
thể dùng các phương tiện tàn ác. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn loại bỏ việc thực
hiện những mục tiêu thiện, những đòi hỏi phải vượt qua khó khăn vất vả kể cả nỗi đau
khổ để đến với cái thiện.
“Chỗ hoàn thiện của con người không phải là quyền lực, chỗ hoàn thiện của
con
người chính là lòng phục thiện của mình” (Tago)
Ví dụ :
+ thiện là chân lý ví dụ như con cháu phải kinh trọng ông bà cha mẹ nếu đi
ngược với đạo lý đó là cái ác
+ Thiện và ác chỉ có thể được định nghĩa một cách tương đối. Ví dụ hành vi
giết người để tế thần linh nơi các bộ lạc bán khai, đối với họ việc làm này là thiện,
nhưng đối với chúng ta việc làm này là ác.
+ Một hành vi được gọi là thiện vẫn mang theo một vài khía cạnh ác của nó. Ví
dụ, đắp đường là một việc thiện rất lớn. Nhưng trong khi đắp đường, người này cũng
phải đào xới, đổ đất đá, chất dụng cụ làm cản trở giao thông một thời gian ngắn.. Như
vậy cũng là ác, nhưng cái ác nhỏ so với giá trị thiện lớn lao lâu dài về sau.
+ Việc xịt thuốc trừ sâu rầy bảo vệ cây trồng. Việc này có khía cạnh thiện là
làm ra lương thực cho con người sử dụng, và ác là sát sinh một số sâu rầy.
+ Gây chiến tranh là một tội ác lớn, nhưng đối với kinh tế gia Malthus (17661834) thì chiến tranh, chết đói, bệnh tật là những điều cần thiết để làm giảm bớt sự gia

tăng dân số của loài người. Theo ông, lương thực tăng rất chậm trong khi dân số tăng
rất nhanh. Con người càng đông thì càng phải phá rừng nhiều hơn để lấy chất đốt.
Rừng bị tàn phá thì sinh thái xáo trộn, mùa mưa có nhiều bão lụt và mùa nắng thì
mạch nước tắt khô. Thủy điện bị ảnh hưởng nghiêm trọng, không khí không được lọc
sạch... Tất cả chuyên gia về kinh tế đều lo ngại về dân số đến nỗi một số quốc gia
khuyến khích việc phá thai bất chấp sự chống đối của tôn giáo, có thể một mặt nào đó
chiến tranh cũng có mặt thiện.
* Kinh nghiệm sống :
Hằng ngày đi học bằng xe bus,trên xe bus nhiều hàng khách bị mói túi. Có
những người nhìn thấy kẻ trộm móc túi người khác trên xe bus nhưng vì sợ bị trả thù
nên im lặng không nói gì. Có một hôm trên chuyến xe bus tôi đi, có một bạn nam thay
vì im lặng đã hô hoán lên cho mọi người biết khi thấy kẻ gian móc túi một cô gái.
Hành động của chàng trai ấy rất dũng cảm, mọi người ai cũng ủng hộ, hết lời khen
ngợi, còn cô gái thì rối rít cảm ơn. Còn kẻ móc túi thì bị dẫn đến đồn công an để xử lý
theo pháp luật

25


×