Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Luận văn cao học Ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn lực đến việc giảm nghèo của hộ nông dân Huyện Đồng Hỷ Tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.7 KB, 110 trang )

i

MỤC LỤC


ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

FAO

:

Tổ chức nông lương thế giới

GDP

:

Thu nhập bình quân đầu người

LHQ

:

Liên hợp quốc

UBND

:


Ủy ban nhân dân

VAC

:

Vườn ao chuồng

VACR

:

Vườn ao chuồng rau

VN

:

Việt Nam

XĐGN

:

Xóa đói giảm nghèo


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG



iv

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất
đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo
đang tiếp tục gia tăng trên quy mô toàn cầu, và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy
giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo
đói, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên liệu và
thực phẩm tăng cao. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, có khoảng 100 triệu
trẻ em trên thế giới không có nhà cửa và đang sống trên các đường phố.
Trước thực trạng này, Liên Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi các nước cải thiện điều
kiện y tế và vệ sinh, giảm tỉ lệ tử vong của trẻ em, cải thiện tình trạng đói
nghèo và tạo điều kiện cho trẻ em phổ cập giáo dục tiểu học. Đói nghèo đã trở
thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn định và phát triển của thế giới và
nhân loại.
Mặt khác, đói nghèo còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nhân
loại. Thay vì con người có thể tập trung toàn bộ nguồn lực cho phát triển, thì
một phần lớn nguồn lực đó phải dành ra để giải quyết vấn đề đói nghèo và các
vấn đề toàn cầu khác do đói nghèo mang lại. Nghèo đói, bất công là nguyên
nhân của tội phạm quốc tế (khủng bố, nạn buôn bán ma túy và rửa tiền);
nghèo đói cộng với thiếu hiểu biết kéo theo đó là gia tăng dân số, cạn kiệt
nguồn nước, khan hiếm nguồn năng lượng (do sự gia tăng nhanh chóng

những hoạt động kinh tế của con người); lương thực, thực phẩm ngày càng
thiếu hụt; bệnh tật (nhất là đại dịch HIV/AIDS) ngày càng lan tràn, khó kiếm
soát; môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng và vấn đề di dân tự do đang
ngày càng trở nên phức tạp.
Nước ta là một quốc gia nông nghiệp, sản xuất lương thực là chủ
yếu và dựa nguồn lực sẵn có trong đó phải kể đến các nguồn lực tự nhiên như
đất đai và vốn rừng. phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta vẫn còn dựa nhiều vào


2
việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ
sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và
thải ra nhiều chất thải. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ
cơ bản về giáo dục và y tế hiện còn bất cập, các loại tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chăn triệt để...đang là những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên
thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi
trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái
đến mức báo động càng làm cho cuộc sống nghèo đói hơn. Chính vì vậy việc
sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả tránh lãng phí là một giải pháp căn
bản cho việc xóa đói giảm nghèo.
Đồng Hỷ là một huyện miền núi phía đông bắc tỉnh Thái Nguyên. Diện
tích 457,75 km2, Đồng Hỷ giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía bắc,
huyện Võ Nhai về phía đông bắc; giáp huyện Phú Lương về phía tây; giáp
thành phố Thái Nguyên và huyện Phú Bình về phía nam và giáp huyện Yên
Thế thuộc tỉnh Bắc Giang về phía đông. Mặc dù thuận tiện giao thông và có
nguồn tài nguyên phong phú nhưng trên thực tế Đồng Hỷ lại gặp rất nhiều khó
khăn trong vấn đề phát triển kinh tế xã hội bởi một lẽ do địa hình phức tạp,
thành phần chủ yếu là dân tộc ít người, trình độ học vấn, trình độ dân trí
thấp... Thời gian gần đây để ổn định đời sống nhân dân Đảng và Nhà nước
quan tâm đầu tư mỗi năm lên đến hàng tỷ đồng cho các dự án xóa đói giảm

nghèo, dự án 135, đầu tư vào cơ sở hạ tầng như điện - đường - trường - trạm,
xây dựng quy hoạch đất đai cho các xã, nhưng đời sống của nhân dân nơi đây
còn gặp khó khăn. Đây là những bức xúc, trăn trở của không ít các nhà hoạch
định chính sách. Qua nghiên cứu thực tế nhiều câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
Nguồn lực có vai trò như thế nào đối với các hộ nông dân trong huyện? Thực
trạng việc sử dụng các nguồn lực đó trong phát triển kinh tế nông dân hiện nay
ra sao? Giải pháp nào nhằm tháo gỡ những khó khăn mà các hộ nông dân
đang gặp phải? Đó là những câu hỏi không phải chỉ riêng ở một địa phương
nào mà là đối với các hộ nông dân ở Việt Nam.


3
Chính vì vậy, nghiên cứu về vấn đề sử dụng nguồn lực của hộ nông dân
và ảnh hưởng của chúng đến việc giảm nghèo của các hộ gia đình nông dân ở
huyện Đồng Hỷ được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, phải giải quyết vấn đề
này với nhiều phương pháp tiếp cận cả trên bình diện vĩ mô và vi mô từ đó đề
xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao việc sử dụng các nguồn
lực và qua đó thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng
chuyên môn hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Do vậy, tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn lực đến việc giảm
nghèo của hộ nông dân Huyện Đồng Hỷ Tỉnh Thái Nguyên".
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá việc sử dụng các nguồn lực của hộ trong sản xuất nông lâm
nghiệp,tìm ra các giải pháp tạo điều kiện giúp hộ nông dân sử dụng, phát huy
thế mạnh của nguồn lực để phát triển kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống
nhằm mục đích giảm nghèo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
1- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực cho sản xuất
nông, lâm nghiệp của hộ nông dân Huyện Đồng Hỷ.

2- Tìm hiểu tác động của các nguồn lực đến mức sống của các hộ
trong Huyện.
3- Đề xuất những giải pháp sử dụng các nguồn lực cho phù hợp, có
hiệu quả và bền vững nhằm tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống cho người
dân ở huyện Đồng Hỷ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình sử dụng nguồn lực (đất,
rừng, lao động, vốn) của các hộ nông dân Huyện Đồng Hỷ
3.2. Về không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi huyện Đồng Hỷ trong đó tập trung
nghiên cứu chủ yếu một số xã đại diện.


4
3.3. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các nguồn lực như: lao động, vốn, đất, rừng,
nước và mối quan hệ của các nguồn lực đó trong phát triển kinh tế hộ tại địa
bàn huyện Đồng Hỷ. Các chính sách của nhà nước cũng như của địa phương
liên quan đến việc sử dụng các nguồn lực và tác động của nó tới sự phát triển
kinh tế của các hộ nói chung và vấn đề xoá đói giảm nghèo nói riêng.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu để phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn
lực của hộ trong thời gian tới.
3.4. Về thời gian nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2012.
4. Kết quả mong đợi
Sản phẩm cuối cùng là một công trình nghiên cứu đánh giá có cơ sở
khách quan ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực đến việc giảm nghèo
trên địa bàn huyện Đồng Hỷ và một số gợi ý chính sách liên quan đế việc phát
huy nguồn lực cho việc xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Huyện Đồng Hỷ,

Tỉnh Thái Nguyên và các địa bàn vùng núi tương tự.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4
chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguồn lực và tác động của việc sử dụng
nguồn lực tới giảm nghèo.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng sử dụng nguồn lực và tác động tới việc giảm
nghèo trên địa bàn huyện Đồng Hỷ.
Chương 4: Một số giải pháp sử dụng nguồn lực nhằm giảm nghèo của
hộ nông dân huyện Đồng Hỷ


5
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN LỰC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TỚI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái niệm về nguồn lực và phân loại nguồn lực
- Nguồn lực: là nhân tố cơ sở là khả năng, động lực của nước được huy
động vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực là tiền đề vật chất
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quy mô và tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội của một nước, ở mức độ lớn phụ thuộc vào khai
thác hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta.
Để phát triển kinh tế - xã hội của một nước cần tận dụng và phát huy
nhiều nguồn lực. Người ta chia ra làm hai nhóm nguồn lực chính:
- Nhóm nguồn lực xuất phát từ bản thân nó - Nội lực
- Nhóm nguồn lực xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội của khu vực và
thế giới - Ngoại lực.

Trong nhóm nguồn lực thứ nhất bao gồm hai nhóm nhỏ: Nhóm nguồn
lực tự nhiên và nhóm nguồn lực kinh tế - xã hội nhân văn.
Nguồn lực tự nhiên bao gồm: khoáng sản, dầu mỏ, thủy sản, rừng, thú
rừng đất đai và nước.... Đối với một quốc gia nguồn lực tự nhiên được xem
như là tài sản của quốc gia đó. Lịch sử cũng đã chứng kiến nhiều cuộc chiến
tranh trên thế giới qua nhiều thời đại khác nhau để chiếm đoạt các tài sản
thiên nhiên hay vì mục đích đó của quốc gia này đối với quốc gia khác.
Các nguồn lực tự nhiên thường được chia ra làm 2 nhóm: Có thể tái tạo
và không thể tái tạo.
- Các nguồn lực tự nhiên có thể tái tạo bao gồm các nguồn lực cho
cuộc sống như nguồn thủy sản, rừng... có thể tái tạo được nếu như con người
không khai thác triệt để. Nếu nguồn lực có thể tái tạo mà sử dụng quá thì có
thể sẽ bị mất đi.


6
- Các nguồn lực tự nhiên không thể tái tạo như đất, nước, khoáng sản
như dầu mỏ, than đá... do sự hạn chế của nó trong tự nhiên và do quá trình để
hình thành phải mất hàng tỷ năm. Như vậy, việc khai thác các nguồn lực này
phải hết sức chú ý tránh làm tổn hại và khai thác bừa bãi dẫn đến việc thoái
hóa của các nguồn lực này. Ngoài ra các nguồn lực tự nhiên như gió, dòng
chảy của nước và năng lượng mặt trời cũng được coi là tài nguyên thiên nhiên
có thể tái tạo vì nó ít bị hạn chế so với các nguồn lực khác.
1.1.1. Nguồn lực đất đai
a. Cơ sở lý luận về sử dụng đất trong hộ nông dân
- Khái niệm về đất và đất dùng trong sản xuất nông, lâm nghiệp:
Học giả người Nga Docutraiep năm 1897 cho rằng: “Đất là vật thể
thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả quá trình hoạt động của năm
yếu tố hình thành đất đó là: đá mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian”.
Các Mác viết: đất là tư liệu sản xuất cơ bản và quý báu nhất của sản xuất

nông nghiệp, điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh hàng
loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau.
Theo luật đất đai sửa đổi và bổ sung một số điều năm 2001 thì khái
niệm về đất trong sản xuất nông, lâm nghiệp như sau: Đất nông nghiệp là toàn
bộ diện tích đất được xác định chủ yếu để sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp.
Đất lâm nghiệp là đất được xác định là đất chủ yếu để sản xuất lâm nghiệp
bao gồm: đất có rừng tự nhiên, rừng trồng, đất khoanh nuôi bảo vệ rừng, nuôi
dưỡng làm giàu rừng, đất phục vụ cho các mục đích lâm nghiệp, trồng rừng
và thí nghiệm về lâm nghiệp.
Tóm lại có rất nhiều khái niệm về đất, có khái niệm nói lên sự hình
thành của đất, có khái niệm nói lên mối quan hệ của đất với cuộc sống con
người, có khái niệm nói về đất gắn với mục đích sử dụng… Như vậy tuỳ thuộc
vào mục đích nghiên cứu cụ thể mà ta hiểu về đất theo những cách khác nhau.


7
b.Vai trò và ý nghĩa của đất trong sản xuất nông, lâm nghiệp:
Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng quay
của bánh xe thời gian thì con người xuất hiện và tác động vào đất đai, cải tạo
đất đai và biến đất đai từ sản phẩm của tự nhiên lại mang trong mình sức lao
động của con người, tức cũng là sản phẩm của của xã hội. Đất đai là một tài
nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố mang tính
quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái
đất. Các Mác viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện để
sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ
bản trong nông, lâm nghiệp”. Bởi vậy, nếu không có đất đai thì không có sản
xuất nông, lâm nghiệp hay có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người
không thể tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy
trì nòi giống đến ngày nay. Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là đối

tượng lao động bởi lẽ đó là nơi con người thực hiện mọi hoạt động của mình
tác động vào cây trồng và vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
Đất là yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất nông nghiệp, sử dụng nó
có ảnh hưởng tới kết quả đầu ra, nhất là đối với sản xuất theo hướng hàng
hoá. Chất lượng đất và lợi thế của đất cũng ảnh hưởng tới số lượng, chất
lượng sản phẩm tạo ra và khả năng sinh lời từ đất. Vì vậy ở mỗi vùng khác
nhau cũng có sự khác nhau từ kết quả sản xuất ra trên cùng đơn vị sử dụng
đất. Mặt khác kết quả sản xuất cũng phụ thuộc vào phương án sử dụng đất của
người chủ sở hữu quyền sử dụng đất đó.
Tóm lại, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, thực tế trong quá trình phát triển của xã hội loài người, sự hình
thành và phát triển của các nền văn minh vật chất cũng như tinh thần đều
dựa trên nền tảng cơ bản của việc sử dụng đất. Các quốc gia, vùng lãnh thổ
khác nhau có nền kinh tế phát triển ở mức độ khác nhau thì việc tổ chức
quản lý, sử dụng đất của họ cũng thể hiện ở những trình độ khác nhau rõ rệt.


8
Do đó trong quá trình sử dụng đất ngoài việc sử dụng sao cho tiết kiệm và
hiệu quả kinh tế cao thì đồng thời chúng ta cũng không ngừng cải tạo và làm
tăng độ phì nhiêu của đất.
c. Quan điểm về sử dụng đất bền vững
Trong các nguồn lực tự nhiên thì đất đai là nguồn lực bị sử dụng nhiều
nhất bởi con người cho mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp. Vì vậy nó
đang ảnh hưởng tới quá trình phát triển bền vững của các vùng khu vực khác
nhau. Chính những tác động tiêu cực của con người đến các nguồn lực tự
nhiên (đất đai) đòi hỏi chúng ta phải quan tâm tới việc sử dụng đất bền
vững. Chính bởi vậy việc tìm ra giải pháp sử dụng đất thích hợp bền vững đã
được các nhiều nhà khoa học và các tổ chức rất quan tâm, thuật ngữ “sử
dụng đất bền vững” đã trở nên thông dụng trên thế giới ngày nay. Nội dung

sử dụng đất bền vững bao hàm ở một vùng trên bề mặt trái đất với tất cả các
đặc trưng: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, động thực vật và
cả những hoạt động cải thiện việc sử dụng và quản lý đất đai như: hệ thống
tiếu tiêu, xây dựng đồng ruộng. Do đó thông qua hoạt động thực tiễn sử
dụng đất chúng ta phải xác định được những vấn đề liên quan đến những yếu
tố tác động đến khả năng bền vững đất đai trên phạm vi cụ thể của từng
vùng để tránh khỏi những sai lầm trong quá trình sử dụng đất, đồng thời hạn
chế được những tác động gây tác hại tới môi trường sinh thái. Theo Fetry sự
phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp chính là sự bảo tồn nguồn
đất, nước, động thực vật không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp,
sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội. FAO đã đề ra các chỉ tiêu
cho nông nghiệp bền vững là:
Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại, tương lai
về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác. Cung cấp lâu dài
việc làm đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm việc tốt cho mọi người trực
tiếp làm nông nghiệp. Duy trì và tăng cường khả năng sản xuất của tài nguyên


9
thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo được mà
không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự
nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hoá xã hội của các cộng đồng sống ở khu
vực nông thôn và không gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu khả năng gâytổn
thương lực lượng nông nghiệp, củng cố lòng tin trong nông dân. Hội thảo về
khung đánh giá việc quản lý đất đai diễn ra ở Naibori năm 1991 đã đề ra định
nghĩa quản lý bền vững đất đai bao gồm các công nghệ, chính sách và hoạt
động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường
để đồng thời duy trì 5 nguyên tắc:
+ Duy trì nâng cao sản lượng.
+ Giảm tối thiểu rủi ro trong sản xuất.

+ Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thái hoá của đất và nước.
+ Có hiệu quả lâu dài
+ Được xã hội chấp nhận.
Các nguyên tắc trên đây được coi là cơ sở của sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần phải đạt được. Nếu thực tế diễn ra đồng bộ so với
các mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt được. Nếu chỉ đạt được một
hay vài mục tiêu thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận Vận dụng
nguyên tắc trên, một loại hình sử dụng đất được xem là bền vững phải đạt ba
yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận. Về chất lượng sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ của
địa phương, trong nước hoặc xuất khẩu, tuỳ vào mục têu của từng vùng. Tổng
giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của
hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất, tổng giá trị trong thời đoạn
hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy
cơ người sử dụng sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn mức lãi
suất vay vốn ngân hàng.


10
- Bền vững về mặt xã hội: loại hình sử dụng đất đó phải thu hút được
lao động, đảm bảo đời sống xã hội phát triển. Đáp ứng nhu cầu nông hộ là
nhu cầu quan tâm đầu tiên, nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài thì sản
phẩm thu được cần thoả mãn cái ăn, cái mặc và nhu cầu hàng ngày của người
nông dân. Việc sử dụng đất để sản xuất phải phải được tổ chức trên đất mà
nông dân có quyền sử dụng lâu dài, đất và rừng giao khoán phải gắn liền với
lợi ích và trách nhiệm của các bên cụ thể. Sử dung đất sẽ bền vững nếu phù
hợp với nền văn hoá dân tộc và tập quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không
được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được

độmàu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất, bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ
đất biểu hiện bằng việc giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho
phép, tăng dần độ phì nhiêu, độ che phủ phải đật ngưỡng yêu cầu sinh thái.
Mặt khác đa canh cũng bền vững hơn độc canh, cây lâu năm bảo vệ đất tốt
hơn cây hàng năm.
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét, đánh giá các loại hình sử dụng
đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên để giúp
cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng sinh thái.
Tóm lại, khái niệm sử dụng đất bền vững do con người đưa ra được thể
hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo mục đích mà con
người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông nghiệp
việc sử dụng đất phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định
của cây trồng, chất lượng đất không suy giảm theo thời gian và việc sử dụng
đất không ảnh hưởng xấu tới môi trường của con người và sinh vật.
1.1.2. Nguồn lực rừng
a. Khái niệm rừng
Có nhiều cách định nghĩa rừng khác nhau nhưng hầu hết đều định nghĩa
dựa vào phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí:


11
Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một
phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển (Morozov 1930).
Rừng chiếm phần lớn bề mặt trái đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý.
Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng
thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát
triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau với
hoàn cảnh bên ngoài (M.E.Tcachenco 1952).
Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của
sinh quyển địa cầu (I.S.Mê lê Khôp 1974).

Rừng cũng có thể hiểu bằng một cách khác là đất đủ rộng có cây cối
mọc lâu năm.
Rừng có sự cân bằng đặc biệt về trao đổi năng lượng và vật chất, luôn
luôn tồn tại quá trình tuần hoàn sinh vật; đồng thời nó thải ra khỏi hệ sinh thái
các chất và bổ sung thêm vào đó một số chất từ các hệ sinh thái khác. Rừng là
một tổng hợp phức tạp có mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần thể,
giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất giữa chúng với hoàn cảnh
trong tổng hợp đó, rừng luôn có sự cân bằng động, có tính ổn định, tự điều hòa
và tự phục hồi để chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về
số lượng sinh vật. Những khả năng này được hình thành do kết quả của sự tiến
hóa lâu dài và của chọn lọc tự nhiên ở tất cả các thành phần rừng.
b. Vai trò của rừng
Rừng là nguồn lực chủ yếu phát triển kinh tế trong tương lai
(Primentel, 1989). Điều đó có nghĩa rằng nguồn lực Rừng rất quan trọng
trong phát triển kinh tế và đặc biệt là mức sống của dân tộc miền núi bởi vì
rừng là nguồn lực tự nhiên như nước, lương thực, thuốc, củi, gỗ và những nhu
cầu vật chất khác. Dân tộc miền núi có lịch sử lâu dài cùng với mối quan hệ
mật thiết từ rừng bởi đó là cuộc sống của họ.


12
Rừng có vai trò tạo ra thu nhập cho hộ hiện nay từ các sản phẩm của
rừng như gỗ, củi, chim, thu, cảnh quan du lịch... và đây là một tiềm năng lớn
cho tương lai mà các hộ cần phải quan tâm và nên đầu tư. Tuy nhiên ngoài
yếu tố thu nhập thì rừng còn có các vai trò khác như:
Rừng với môi trường: Rừng cung cấp nhiều hình thái dịch vụ trực tiếp
về môi trường cho những người sống gần rừng Các dịch vụ này bao gồm: việc
khôi phục độ màu mỡ của đất trong hệ thống nông nghiệp luân canh, duy trì
lượng nước và bảo vệ chất lượng nước cung cấp cỏ cho chăn nuôi gia súc, thu
phấn cho thực vật, kiềm chế sâu cỏ và duy trì đa dạng sinh học bao gồm cả

duy trì giống cây cho nông nghiệp. Rừng cũng mang lại các dịch vụ môi
trường gián tiếp cho người sống xa rừng. Ví dụ dự án bảo vệ nước, và du lịch
sinh thái rừng.
Rừng tạo ra việc làm: Các hộ gia đình có ít đất nông nghiệp thu hút một
lượng lớn nhân công lao động trong lĩnh vực lâm nghiệp tạo điều kiện công ăn
việc làm tăng thu nhập cho hộ gia đình góp phần giảm nghèo cho hộ gia đình.
c. Quan điểm sử dụng rừng bền vững
Hướng tới sự bền vững trong sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam các
hộ nông dân cần tuân thủ theo nguyên tắc sau:
- Sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng: Cuộc
sống con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó
chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.
Chìa khóa của vấn đề này là sử dụng rừng đảm bảo năng suất và các điều kiện
tái sinh của nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo này. Một trong những
nguyên tắc cần tuân thủ là tỷ lệ sử dụng lâm sản không được vượt quá khả
năng tái sinh của rừng.
- Tài nguyên rừng phải được sử dụng hợp lý và hiệu quả nhất về mặt
kinh tế và sinh thái.


13
1.1.3. Nguồn nước
Tài nguyên nước là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể
sử dụng vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt
động nông nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các
hoạt động trên đều cần nước ngọt. 97% nước trên Trái Đất là nước muối, chỉ
3% còn lại là nước ngọt nhưng gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở
dạng sông băng và các mũ băng ở các cực. Phần còn lại không đóng băng
được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm, và chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại trên
mặt đất và trong không khí.

Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước
ngọt và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đã vượt
cung ở một vài nơi trên thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục
tăng làm cho nhu cầu nước càng tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của
việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh thái chỉ mới được lên tiếng gần
đây. Trong suốt thế kỷ 20, hơn một nửa các vùng đất ngập nước trên thế giới
đã bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của chúng. Các hệ
sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy giảm
nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền. Chương trình khung trong việc
định vị các nguồn tài nguyên nước cho các đối tượng sử dụng nước được gọi
là quyền về nước.
Tóm lại, tài nguyên thiên nhiên là tài sản quý giá của mỗi quốc gia, là
một trong những nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tài nguyên thiên nhiên tuy không có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, song đó là điều kiện thường xuyên cần thiết
cho mọi hoạt động sản xuất, là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Tài
nguyên thiên nhiên còn là một yếu tố tạo vùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối
với việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, các ngành mũi nhọn.


14
1.1.4. Đặc điểm của hộ nông dân khi nghiên cứu
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn lực tới việc giảm
nghèo của hộ nông dân còn phải xét mối quan hệ xã hội, bởi hộ là đơn vị kinh
tế nhỏ của nền kinh tế. Kinh tế hộ đóng vai trò qua trọng trong nền kinh tế.
1.1.4.1. Khái niệm về hộ nông dân
Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp có quyền sản xuất trên
những mảnh đất của họ, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản
xuất và thường nằm trong một hệ thống kinh tế lớn hơn, đặc trưng chủ yếu
bởi sự tham gia thị trường cục bộ vào các thị trường nên có xu hướng hoạt

động kinh tế ở mức độ không hoàn hảo.
1.1.4.2. Một số đặc điểm của kinh tế hộ
Hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ gia đình ở nông thôn có
thể bao gồm nhiều loại ngành nghề và các công việc khác nhau. Tuy nhiên
cho tới nay, đối với hầu hết các hộ thì hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn
được coi là hoạt động chính. Hộ nông dân với tư cách là một đơn vị kinh tế,
hộ có mục đích tối đa hoá nguồn thu trên cơ sở sử dụng toàn bộ nguồn lực của
mình. Hộ là đơn vị tiêu dùng cơ bản. Hộ có mục đích tái sản xuất nguồn nhân
lực và nâng cao phúc lợi gia đình. Xét từ góc độ này hộ là đơn vị thống nhất
với các mục tiêu và lợi ích chung không mâu thuẫn. Kinh tế hộ nông dân
được phân biệt với các hình thức kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường bởi
các đặc trưng sau chủ yếu sau:
- Sử dụng đất đai: ruộng đất là nguồn tư liệu sản xuất cơ bản của hộ
nôngdân. Từ chỗ canh tác tập thể trong khuôn khổ của các hợp tác xã nông
nghiệp, vào cuối những năm 80 sau khi thực hiện nghị quyết 10 thì quyền hạn
và trách nhiệm của hộ nông dân được nâng cao. Nhà nước giao đất cho hộ sử
dụng ổn định lâu dài, thời gian giao đất để trồng cây hàng năm và nuôi trồng
thuỷ sản là 20 năm, để trồng cây lâu năm là 50 năm, khi hết thời hạn nếu
người sử dụng có nhu cầu thì nhà nước giao đất đó để tiếp tục sử dụng. Để


15
phát huy tác dụng của nguồn đất như một nguồn sản xuất cơ bản, có hai vấn
đề người chính nông dân cần quan tâm đó là cách tiếp cận ruộng đất và cách
thức sử dụng ruộng đất. Đối với phương thức sử dụng ruộng đất của hộ thể
hiện ở cơ cấu cây trồng, cơ cấu cây trồng của hộ cho ta thấy kết quả cuối cùng
của việc lựa chọn phương án sử dụng đất của hộ đó. Một đặc điểm cơ bản của
hộ khi lựa chọn cơ cấu cây trồng hàng năm thì cây lúa là cây trồng chính
củahộ. Việc hầu hết các hộ sử dụng một tỷ lệ lớn diện tích để trồng lúa cho
thấy nhu cầu cân đối lương thực, trước hết là lúa gạo được hộ đặt lên hàng

đầu trong các phương án sử dụng đất của mình. Bởi vì việc tự bảo đảm lương
thực được coi là phương án ít rủi ro hơn cả, đồng thời cho phép hộ sử dụng tối
đa nguồn đất đai đa dạng và nhỏ lẻ của mình. Tự cấp, tự túc về lương thực
vốn là phương án quen thuộc của hộ, nó không đòi hỏi có sự tính toán mới
cũng như thay đổi cơ cấu đầu tư. Vì những lý do này mà cây lúa vẫn đứng
đầu trong cơ cấu cây trồng của hộ. Thực tế này cũng cho thấy các yếu tố thị
trường như: thông tin thị trường, giá cả, bảo quản, vận chuyển, giao lưu hàng
hoá… nhìn chung chưa đủ sức kích thích hộ nông dân chuyển sang các
phương án sử dụng cơ cấu cây trồng đa dạng trên cơ sở phát huy tốt hơn tiềm
năng đất đai của mình.
- Sử dụng lao động: lao động ở nông thôn thường được huy động vào
các hoạt động khác nhau. Các hoạt động tự cấp, tự túc bao gồm các nhóm
việc như: làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi, làm nhà, chế biến thực phẩm gia
đình, công việc nội trợ… Các hoạt động gắn liền với thị trường; buôn bán, sản
xuất nông sản, dịch vị làm thuê… Một trong những đặc điểm phân bổ lao
động của hộ là xu hướng kết hợp nhiều khối lượng công việc, mặc dù khối
lượng kết hợp các công việc ở các gia đình có khác nhau, như ở vùng đòng
bằng, ven thị, vùng có mật đọ dân cư cao, các hoạt động gắn liền với thị
trường thì việc phân công lao động của hộ sẽ khác với các vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng có mật độ dân cư thưa thớt.


16
- Nguồn vốn sản xuất của hộ: việc tích tụ vốn của đại bộ phận các hộ
nông dân là rất thấp. Bởi tích luỹ vốn của nông dân không phải dựa trên một
nền tảng nông nghiệp tặng dư, nguồn tích tụ vốn của nông hộ chủ yếu từ
ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi, đây là các ngành mà sản phẩm sinh lợi
rất thấp, những nông sản được bán đi để mua vật tư đầu vào sản xuất đôi khi
còn là khẩu phần lương thực của hộ. Mặt khác chu kỳ sản xuất nông nghiệp
kéo dài, độ rủi ro lớn nên vốn chu chuyển chậm, bởi thế sự căng thẳng về vốn

càng trở nên gay gắt. Tình trạng thiếu vốn đã hạn chế lớn tới việc mở mang
ngành nghề, thay đổi cơ cấu sản xuất, hạn chế khả năng tạo thêm việc làm,
thu nhập cho hộ và hạn chế khả năng nâng cao trình độ thâm canh nông
nghiệp. Vì vậy khi nghiên cứu kinh tế hộ nông dân ta phải nắm được những
đặc điểm cơ bản của hộ và phải thấy được sự khác nhau giữa kinh tế hộ và
những khu vực kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Ở Việt Nam theo thống kê năm 2010 cả nước có 9.656.165 hộ nông
nghiệp ngoài hợp tác xã. Với một số lượng lớn trong một nước nông
nghiệp, hộ nông dân Việt Nam ngoài những đặc điểm chung còn có một số
nét đặc thù như:
- Trong kinh tế hộ sản xuất còn tự cung tự cấp là chủ yếu. Tuy nhiên
kinh tế hộ đang chuyển dần sang kinh tế hàng hoá, sản xuất ngày càng gắn
với thị trường.
- Quy mô sản xuất của hộ cả về đất đai và lao động còn nhỏ, kỹ thuật
canh tác còn lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Tuy nhiên những kỹ
thuật mới đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các hộ nông dân. Sản
xuất công nghiệp và các ngành nghề khác ở nông thôn chưa phát triển để hỗ
trợ cho kinh tế hộ gia đình, tăng thu nhập cho nông hộ.
Ở miền núi nước ta kinh tế hộ có các đặc trưng sau:
- Về điều kiện tự nhiên: địa hình bị chia cắt phức tạp, có rất ít đất bằng
phẳng để làm ruộng lúa nước, do vậy buộc hộ nông dân phải làm vườn, làm


17
nương rẫy trên những triền đồi, núi dốc. Do phần lớn lượng mưa tập trung
trong thời gian ngắn nên hay xảy ra nước chảy sói mòn, lũ quét gây thiệt hại
tới các công trình hạ tầng cơ sở.
- Về đất đai, đất dốc chiếm diện tích lớn, phần lớn là đất nghèo dinh
dưỡng do bị phong hoá và sói mòn rửa trôi. Cơ sở vật chất còn nghèo nàn,
giao thông đi lại khó khăn, tiếp cận thị trường kém đã dẫn tới kinh tế chậm

phát triển hơn so với vùng đồng bằng.
- Về đời sống của hộ nông dân vùng cao: họ sống nhờ vào sản phẩm
nông lâm nghiệp do tự sản xuất, nương rẫy và ruộng đất gắn bó chặt chẽ với
nông dân vùng cao, trồng trọt chiếm đa số trong cơ cấu nông nghiệp và người
dân vùng cao vẫn đặt vấn đề an ninh lương thực tại chỗ lên hàng đầu.
- Do đặc điểm tự nhiên xã hội và nơi cư trú, hộ gia đình miền núi
thường phát triển kinh tế tổng hợp, đa dạng nhiều ngành nghề, mức độ chuyên
môn hoá chưa cao.
- Lao động miền núi thường gắn liền với sản xuất nông, lâm nghiệp,
nương rẫy, theo hệ thống Vườn - ao - chuồng (VAC), Vườn - ao - chuồng rau ( VACR)....Việc canh tác ở các vùng cao, vùng rừng đầu nguồn các sông
suối gắn liền với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
- Địa bàn miền núi là nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số và
đồng bào Kinh ở các vùng mới được quy hoạch. Nguồn lao động được sử
dụng chủ yếu là trong gia đình hoặc người thân. Tuy vậy, trong điều kiện thời
vụ vẫn có thuê mướn nhân công nhưng không nhiều.
Với quy mô nhỏ, lao động và vốn ít nên năng suất lao động cũng
như khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật ở giai đoạn đầu còn hạn
chế. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng, từng nơi của sự
phát triển kinh tế mà hộ mà những đặc trưng trên được thể hiện ở những
mức độ khác nhau.


18
1.2. Khái niệm và nguyên nhân của nghèo đói
1.2.1. Khái niệm nghèo đói
Không có một khái niệm duy nhất về nghèo đói, và do đó cũng không
có một phương pháp hoàn hảo để đo được nó. Nghèo là tình trạng bị thiếu
thốn ở nhiều phương diện. Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập,
thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn
thương trong những lúc đột biến bất lợi, ít được tham gia vào quá trình ra

quyết định, cảm giác bị sỉ nhục, không được người khác tôn trọng... đó là
những khía cạnh của nghèo.
Trong hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993. Việt Nam có đưa ra
định nghĩa chung về đói nghèo là: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã
hội và phong tục tập quán của địa phương.
Để tìm hiểu rõ hơn về “Nghèo đói”, ta tìm hiểu thêm về các chỉ tiêu về
nghèo. Một loạt các chỉ tiêu về nghèo đói và phát triển xã hội hiện đang được
sử dụng ở Việt Nam. Bộ lao động thương binh xã hội dùng phương pháp dựa
trên thu nhập của hộ. Các hộ được xếp vào diện nghèo nếu thu nhập đầu
người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định, mức này khác nhau giữa
thành thị và nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ dân
số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo. Tổng cục thống kê thì dựa vào cả thu
nhập và chi tiêu theo đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục thống kê xác
định ngưỡng nghèo dựa trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng bao gồm lương
thực và phi lương thực, trong đó chi tiêu lương thực phải đảm bảo 2.100 calo
mỗi ngày cho một người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo nếu mức thu
nhập và chi tiêu không đủ để đảm bảo giỏ tiêu dùng này.


19
Bảng 1.1: Chuẩn nghèo đói

Nông thôn, miền núi, hải đảo

BQ người/tháng
2001-2005
2006-2010

80.000đ
180.000đ

Nông thôn, trung du, đồng bằng

100.000đ

200.000đ

Đô thị

150.000đ

260.000đ

Địa bàn

Nguồn: Bộ lao động thương binh xã hội
1.2.2. Nguyên nhân nghèo đói
1.2.2.1. Nguyên nhân cơ bản
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến
tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang,
bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát
trong chiến tranh, thương tật,hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh,
học tập cải tạo trong một thời gian dài.
Chính sách nhà nước thất bại : sau khi thống nhất đất nước việc áp
dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và
chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm
yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình
ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.

Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và
tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui
chột động lực sản xuất.Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn
sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp
đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả,thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương
nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút
trong khi dân số tăng cao.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị
lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính


20
sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông
dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các công trình thâm dụng vốn
của Nhà nước.
1.2.2.2. Các nguyên nhân theo vùng địa lý
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề
nông. Đa số người nghèo sống bằng nghề nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên
tai, điều kiện thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó,
khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người nghèo rất kém do nguồn
thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng
chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất
nguồn lao động, mất sức khỏe,...). Với năng lực kinh tế mong manh của các
hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra
những bất ổn trong cuộc sống của họ và tất nhiên người nghèo thì càng nghèo
hơn. Ngoài ra, người nghèo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, năng suất thấp
do không có trình độ để áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Khả
năng nâng cao năng suất là rất khó khăn trong khi do áp lực của đô thị hóa

ngày càng mạnh, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp. Những tác động
của chính sách vĩ mô đến người nghèo chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn còn thấp. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các
nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng
trưởng chưa hợp lý.Thông thường, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh
tế nhiều hơn những người nghèo và như vậy đã làm tăng thêm khoảng cách
giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều khó tránh khỏi.
1.2.2.3. Các nguyên nhân từ cộng đồng


21
Sự cách biệt với xã hội còn lớn. Công việc của phụ nữ thường là ở nhà.
Họ có ít thời gian để tiếp xúc với xã hội. Hộ nghèo có chủ hộ là nữ cảm thấy
rất xa lạ với nhữngquyết định có liên quan tới chính bản thân họ. Sự bất bình
đẳng giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại. Những nhóm dân tộc thiểu số nghèo
hơn rất nhiều so với đa số người Kinh.
1.2.2.4. Các nguyên nhân về mặt nhân khẩu học
Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh
con trong các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Mức
độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng
như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân
khẩu còn hạn chế. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực
ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyếtviệc làm và xóa đói giảm
nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng nghèo đói của họ, tỉ lệ phụ thuộc còn cao. (54%) Nguồn: Tổng cục
thống kê : Điều tra biến động DS-KHHGĐ2009-2011.
Thành kiến về vai trò của người phụ nữ còn tương đối khắt khe. Những
hộ có chủ hộ là nữ có nhiều khả năng rơi vào cảnh nghèo hơn so với chủ hộ là
nam giới. Trẻ em gái ít được đi học hơn, nếu có cũng ít được đi học cao. Phụ
nữ thường phải nhận mức lương thấp hơn nam giới ở cùng một công việc và ít

được tham gia vào các côngviệc điều hành quan trọng. Chẳng may trong
trường hợp mất đi người chồng, người phụ nữ thường thiếu khả năng chống
chọi nên dễ rơi vào đói nghèo.
1.2.2.5. Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình
Tính ổn định và liên tục của nguồn thu nhập còn hạn chế nhất là trong
khu vực nông thôn do phải chịu nhiều rủi ro không lường trước được như
thiên tai, dịch bệnh, sâu bọ hay giá nông sản thấp. Những người nghèo là
những người thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm
tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để đảm bảo chonhu cầu


×