Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đề xuất giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh phúc yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.97 KB, 85 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Như là một điều tất yếu, muốn phát triển kinh tế cần phải có đầu tư, muốn có
đầu tư thì cần phải có vốn. Vốn có thể được huy động thông qua nhiều kênh khác
nhau trong đó có ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một trong những
trung gian thực hiện huy động vốn để cho vay vốn đối với nền kinh tế. Thực tế hiện
nay ở nước ta có hơn 70% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng
cung cấp. Như vậy, nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại sẽ quyết định
đến lượng vốn đầu tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó việc ổn định tiền tệ và kiềm chế
lạm phát trong thời gian này là một trong những vấn đề được Chính phủ đặt lên hàng
đầu. Để làm được điều đó Nhà nước cần phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh
tế, tài chính, tiền tệ trong đó không ngừng tăng cường huy động vốn, nhất là huy
động vốn qua hệ thống ngân hàng thương mại là giải pháp khá hữu hiệu. Điều này
cho thấy việc tăng cường công tác huy động vốn, đảm bảo chất lượng và số lượng
vốn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong quá trình hoạt động của bất kỳ một
ngân hàng thương mại nào.
Là một thành viên của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên phải chung sức thực hiện nhiệm vụ
chung của toàn ngành, làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế địa phương là một vấn đề
đang được ngân hàng rất quan tâm.
Trong thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội và
công tác tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên
tôi nhận thấy công tác huy động vốn luôn giữ vị trí rất quan trọng đối với hệ thống
ngân hàng thương mại trong việc đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa trong thời gian gần



đây việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, đây đang là bài toán
khó đặt ra cho các ngân hàng.


Vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài “Đề xuất giải pháp đẩy mạnh công tác
huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc
Yên” làm luận văn Thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm lý luận, góp phần rút ngắn khoảng cách
giữa lý luận và thực tiễn về công tác huy động vốn.
- Khẳng định vai trò của nghiệp vụ huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên.
- Đánh giá thực trạng nghiệp vụ huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
- Nghiên cứu giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: “Đề xuất giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn
của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên”.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên (BIDV Phúc Yên).
+Về thời gian: Số liệu nghiên cứu được giới hạn trong giai đoạn từ năm (2008 2012).
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phương pháp
thống kê kinh tế, tổng hợp và so sánh.



3. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư

và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên.
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên.
Do hạn chế về kiến thức, cũng như giới hạn phạm vi của đề tài, luận văn chắc
chắn sẽ có những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô
giáo để nội dụng luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.




CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
 
1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển là kết quả của quá trình
phát triển nền kinh tế hàng hóa. Được coi là con đẻ của nền kinh tế hàng hóa, NHTM
đã tồn tại như là một tất yếu lịch sử trong đời sống kinh tế xã hội.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về NHTM. Theo Peter S.Rose trong cuốn
quản trị ngân hàng thương mại, ông viết: "Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm
và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế". [Trang 7]
Ở Việt Nam khái niệm NHTM được chỉ rõ trong Luật các TCTD năm 2010
như sau: "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận"[Điều 4; khoản 3]
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về NHTM giữa các nước trên thế giới.
Nhưng có thể hiểu một cách chung nhất: NHTM là một tổ chức tài chính, hoạt động

kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, cung cấp một danh mục sản
phẩm, dịch vụ vô cùng đa dạng với tính chất chung là nhận tiền gửi để sử dụng vào
mục đích cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức trung gian tài chính ngày
càng mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ khiến cho quan điểm về ngân hàng
thương mại không còn thống nhất giữa các quốc gia như trước đây. Song có thể hình
dung ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện đồng thời 3



nghiệp vụ chính: hoạt động huy động vốn; hoạt động sử dụng vốn và hoạt động khác.
a. Công tác huy động vốn
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn
vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất, các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và của
cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển sẽ
càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải
căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như của cả nước để đưa ra
các chính sách huy động vốn thích hợp nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng
vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một phần
dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu
nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng vốn rất phong phú

với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3 nhóm chính sau:
• Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng
(là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh
doanh.
• Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các



cá nhân và hộ gia đình, bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Hiện nay, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh trạnh
trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng
tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một
trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế
phát triển.
• Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng
trở nên năng động trong việc tài trợ trung dài hạn: tài trợ xây dựng nhà máy, phát
triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động
sản.
c. Hoạt động khác
Ngân hàng thương mại là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền kinh
tế, chủ yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán. Ngân hàng đóng
vai trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ giúp cho quá trình
thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền kinh tế ngày càng phát
triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế
giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh chóng, thuận tiện thì việc thực

hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Do vậy, việc ngân
hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản
không chỉ tạo cho ngân hàng những nguồn vốn mới mà còn mang lại cho ngân hàng
một nguồn thu nhập thông qua thu phí đối với các dịch vụ thanh toán.
• Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện lưu giữ vàng và các giấy tờ có giá và các tài sản khác
cho khách hàng trong két (vì vây, còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường
giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác
của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển



cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán
lãi hoặc cổ tức hộ…
• Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh
doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi
thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã
khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng đề nhờ ngân hàng thanh toán hộ.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như
séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng
điện, thẻ…
• Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do
có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân

hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng
ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh, tiến hành đầu tư phần thặng dư
tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn, cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt đề thanh toán.
• Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách
trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho
vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp giấy phép hoạt động và
kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện
là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài



trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thương mại mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ
lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
• Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn, và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng
và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu
hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng
khác…
• Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng
sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do
vậy gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền
lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó
ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới
hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vây, cho thuê của ngân hàng

cùng có nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
• Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính. Vì vây, nhiều cá nhân và doanh nhiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay
hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng
đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi
ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư,
về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp...
• Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép



khách hàng thỏa mãn nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các
ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để
cung cấp dịch vụ môi giới.
• Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo
hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn
với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
• Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho
các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân

hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng
thương mại, đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân
hàng. Nghiên cứu hoạt động huy động vốn là một việc làm hết sức cần thiết để qua
đó có những phương pháp quản lý cũng như sử dụng một cách hợp lý nhằm nâng cao
hiệu quả huy động vốn đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ, là một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Nguồn
vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập và



huy động được, đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của ngân hàng, là cơ sở
để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, quyết định quy mô tín dụng và các
hoạt động khác của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.2.2.1 Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại
vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân
hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo
tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của
thị trường.
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp. Nếu
là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu.
Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở

hữu tư nhân.
b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn chủ theo nhiều phương thức
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể:
-Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân
hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu
dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận
sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng
vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy động
này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn
vào lúc cần thiết.
10 


c. Các quỹ
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự
phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp
những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác
động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh
lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định
cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,
quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các
quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Một số khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại được ngân hàng
quy định có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần. Đây là khoản nợ lưỡng tính. Do tính

chất này mà Ngân hàng trung ương nhiều nước xếp chúng vào vốn chủ sở hữu loại 2
với tỷ lệ 50% để tính tỷ lệ an toàn vốn chủ sở hữu.
1.2.2.2 Vốn nợ
a. Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng
huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của
11 


doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của
doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của
doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể
được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi
trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động
thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền,
ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi tiền không được sử
dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán đế áp dụng đối với loại tiền
gửi này, nếu cần chi tiêu người gửi tiền phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không

thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn
được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong
điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực
hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu
bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng
khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở
rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương
mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường
không lớn.
b. Tiền vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thương mại
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
12 


khi cần, các ngân hàng thường vay mượn thêm
- Vay Ngân hàng Nhà nước.
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân
hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương mại thường
vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức vay chủ yếu của ngân hàng Nhà nước là tái
chiết khấu. Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu trở thành
tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết
khấu tại ngân hàng Nhà nước. Thông thường ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu cho
những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước
trong từng thời kỳ.
- Vay các tổ chức tín dụng khác

Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu
do có kết cấu dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ
có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại,
các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh
toán. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ
và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn
vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.
- Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách
phát hành các giấy tờ nợ trên thị trường vốn.
1.2.2.3 Vốn nợ khác
Loại này bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác
- Tiền ủy thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy
thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo
nên nguồn ủy thác tại ngân hàng.
13 


- Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể trở thành nguồn trong
thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C,…). Những ngân hàng
là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền của các ngân hàng thành
viên chuyển về để thực hiện cho vay.
- Tiền khác
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
1.2.3 Các hình thức huy động vốn
Tùy theo từng mục đích nghiên cứu khác nhau, ta có thể chia huy động vốn
theo các hình thức khác nhau, như theo phương thức huy động, theo loại thị trường,

theo kỳ hạn, theo loại tiền…
1.2.3.1 Theo thời gian
Phân loại vốn huy động theo thời gian luôn có ý nghĩa quan trọng với ngân
hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn
cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Phân theo thời gian thì có thể được chia
ra thành ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
• Huy động vốn ngắn hạn:
Đây là hình thức huy động chủ yếu của ngân hàng thông qua việc phát hành
các công cụ nợ ngắn hạn và các nghiệp vụ nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết
kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế, xã hội. Thời gian huy động tối đa là một
năm. Khoản huy động này thường được ngân hàng sử dụng để cho vay ngắn hạn, hạn
chế cho vay trung dài hạn. Đặc điểm của nguồn huy động ngắn hạn là chi phí huy
động thấp do thời hạn huy động ngắn nhưng tính ổn định kém.
• Huy động vốn trung hạn
Ngân hàng huy động nguồn vốn trung hạn thông qua việc phát hành các công
cụ nợ trung hạn trên thị trường tài chính, nhận tiền gửi trung hạn (chủ yếu của tổ
chức). Nguồn vốn này có thời gian huy động từ một đến ba năm. Nguồn vốn này
được sử dụng khá ổn định, các NHTM thường sử dụng nguồn vốn này để cho các
14 


doanh nghiệp vay trung hạn đối với các dự án đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất,
mua sắm tài sản cố định, đầu tư thay đổi công nghệ, máy móc … Tuy chi phí huy
động cho nguồn này cao hơn nguồn ngắn hạn, nhưng nguồn vốn trung hạn rất quan
trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay trung với lãi
suất cao.
• Huy động vốn dài hạn
Nguồn vốn này có thời gian huy động từ ba năm trở lên và được NHTM sử
dụng vào nhiệm vụ đầu tư phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng và
Nhà nước: đầu tư vào các dự án phục vụ xã hội, các dự án đổi mới thiết bị công nghệ,

xây mới các nhà máy…Đây là nguồn vốn mà ngân hàng phải trả chi phí huy động
cao nhất. Với nguồn huy động này, ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn
định cao.
1.2.3.2 Theo đối tượng
Khách hàng là nhân tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên
lại bao gồm nhiều đối tượng khách nhau, rất đa dạng. Chính vì vậy trong hoạt động
của ngân hàng sẽ được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo đối thượng
sử dụng. Đối với hoạt động huy động vốn, dựa theo đối tượng khách hàng thì hoạt
động huy động vốn của ngân hàng được chia thành các hình thức sau: Tiền gửi của cá
nhân; Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
• Tiền gửi của cá nhân
Khách hàng cá nhân là thị phần quan trọng và ổn định trong đối tượng hoạt
động của ngân hàng. Chính vì vậy, các hoạt động dịch vụ của ngân hàng với đối
tượng khách hàng này cũng rất đa dạng, đặc biệt đối với hoạt động huy động vốn.
Với mục đích gửi tiền chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản, đem lại khả năng sinh lời cho
mình thì khách hàng cá nhân đã đem lại một lượng vốn huy động đáng kể cho ngân
hàng với số tiền nhãn rỗi của mình. Đồng thời lượng vốn huy động được thì rất ổn

15 


định góp phần làm cho ngân hàng có thể dễ dàng sử dụng lượng vốn này để thực hiện
các hoạt động đầu tư của rmình một cách hiệu quả nhất.
• Tiền gửi của doanh nghiệp
Không chỉ khách hàng cá nhân mới đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
của ngân hàng mà các doanh nghiệp cũng như các tố chức kinh tế khác cũng góp
phần tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng, lượng vốn huy động từ khách
hàng là doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác cũng chiếm phần lớn.
Tuy nhiên mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là khác so với

khách hàng cá nhân nên ngân hàng chỉ sử dụng được một phần nhỏ trong lượng vốn
huy động được đó là số dư trên tài khoản của các doanh nghiệp cũng như của các tổ
chức kinh tế. Bởi vì mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là dùng để thanh
toán cũng như tiến hành các giao dịch khác nên lượng vốn huy động sẽ không có thời
gian cố định gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đem vốn đi đầu tư sinh lời. Tuy
nhiên không phải lúc nào các doanh nghiệp gửi tiền với mục đích thanh toán, bởi với
số tiền nhàn rỗi sẽ được hưởng lãi nếu doanh nghiệp gửi tiền gửi có kỳ hạn.
• Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Trên thực tế tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác là vốn vay của ngân hàng
thương mại đối với các tổ chức đó nhằm tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng. Tuy
nhiên trong một số trường hợp, với những ngân hàng có một lượng vốn huy động lớn
có thể đem gửi tại các ngân hàng khác nhằm mục đích hưởng một phần lãi hoặc được
hưởng lãi điều hoà từ hội sở chính của các ngân hàng đó. Điều này giúp ngân hàng
thương mại giảm bớt được một phần chi phí, đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân
hàng.
1.2.3.3 Theo mục đích huy động
Nếu phân loại theo mục đích huy động thì bao gồm các hình thức sau:
• Tiền gửi thanh toán

16 


Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, ngân hàng sẽ đáp ứng nhu
cầu thanh toán cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của loại tiền
gửi này rất thấp nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng những dịch vụ
ngân hàng với mức chi phí thấp.
• Tiền gửi có kỳ hạn
Nguồn vốn này thường có kỳ hạn xác định trước với một lãi suất cao hơn so
với lãi suất của tiền gửi thanh toán. Có thể nói đây là nguồn vốn có chi phí cao nhất

của ngân hàng. Đồng thời do tính ổn định cao trong kỳ hạn bởi mục đích gửi tiền của
doanh nghiệp hay các cá nhân là để hưởng lãi nên các khoản cho vay của ngân hàng
chủ yếu được tài trợ bằng nguồn vốn này.
• Tiền gửi tiết kiệm
Các tầng lớp dân cư đều có khoản tiền nhàn rỗi, khoản thu nhập chưa sử dụng
đến. Trong điều kiện có thể tiếp cận ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm
thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Do lượng tiền nhàn rỗi này của dân cư
được gửi với thời gian cố định nên đây là lượng vốn chủ yếu cho ngân hàng sử dụng
trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, nhằm thu hút ngày càng nhiều
tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ
tiền tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động
vốn đa dang với lãi suất hấp dẫn. Đây cũng là một dạng của tiền gửi có kỳ hạn nhưng
tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt theo quy định của văn bản pháp luật mà
ngân hàng Nhà nước quy định.
• Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên
thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào đó.
Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường
cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành bao gồm kỳ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
17 


1.2.3.4 Theo loại tiền
Có thể chia huy động vốn theo loại tiền tệ: nội tệ và ngoại tệ (đồng tiền của các
quốc gia khác như USD, GBP, ..) Ở từng các quốc gia khác nhau thì có quy định
riêng về việc huy động ngoại tệ và việc huy động còn phụ thuộc vào tỷ giá giữa các
đồng tiền, tình hình kinh tế của các thời kỳ. Mức phí huy động sẽ được xem xét giữa
trên sự biến động của tỷ giá.

• Vốn huy động bằng nội tệ
Ngân hàng huy động vốn bằng nội tệ thông qua các hình thức huy động vốn
khác nhau. Trong tổng nguồn vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy động
bằng nội tệ thường chiếm tỷ trọng cao.
• Vốn huy động bằng ngoại tệ
Ngoài việc huy động vốn bằng VND thì các ngân hàng còn huy động vốn
bằng ngoại tệ như USD, EUR…Mục đích huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng
cho các nhu cầu sử dụng vốn bằng ngoại tệ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại
1.3.1. Những nhân tố thuộc về ngân hàng
1.3.1.1 Lãi suất huy động
Lãi suất được coi là yếu tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động huy động
vốn của NHTM, nó được xem như là giá cả của dịch vụ. Khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng ngoài việc đảm bảo an toàn thì điều họ quan tâm nhất là lãi suất hay là lợi
nhuận họ sẽ thu về trên khoản tiền gửi của mình. Cạnh tranh giữa các ngân hàng
trong hoạt động huy động vốn thì cạnh tranh bằng lãi suất cũng là hình thức cạnh
tranh hay được các ngân hàng sử dụng, tuy nó là hình thức cạnh tranh có nhiều rủi ro
và hạn chế. Ngân hàng nào có lãi suất huy động cao thì ngân hàng đó sẽ huy động
được nhiều vốn hơn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, ngân hàng cần ấn định
mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn,
18 


gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô
và cơ cấu của nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền vay để có
thể có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất cho
ngân hàng đủ để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng.

1.3.1.2 Hiệu quả đầu tư, cho vay của ngân hàng
Hiệu quả hoạt động cho vay và đầu tư có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt
động huy động vốn của ngân hàng. Chính từ hiệu quả cao trong cho vay và đầu tư,
ngân hàng sẽ gia tăng được vốn nhờ vòng quay vốn nhanh. Hơn nữa, với việc đạt
hiệu quả cao trong hoạt động cho vay và đầu tư, ngân hàng hoàn toàn có thể trả gốc
và lãi đúng hạn cho người gửi tiền, tạo niềm tin thu hút khách hàng gửi tiền, do đó
hiệu quả huy động vốn sẽ được nâng cao.
Ngược lại, nếu hoạt động cho vay, đầu tư của ngân hàng đạt hiệu quả thấp, chi
phí huy động không được bù đắp, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm, từ đó làm giảm
hiệu quả hoạt động huy động vốn.
1.3.1.3 Mạng lưới của ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng đa
dạng, phong phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện
được trọn gói các dịch vụ. Các khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là các khoản
tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo cho khách hàng
tâm lý ngại đến giao dịch với ngân hàng. Vì vậy, với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra
sự dễ dàng trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng cũng sẽ dễ
dàng thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả hơn.
1.3.1.4 Hoạt động Marketting
Không giống như hoạt động sản xuất kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng
dựa trên yếu tố uy tín là quan trọng nhất vì ngân hàng kinh doanh mặt hàng rất nhạy
cảm là tiền tệ. Chính vì vậy, các hình thức quảng cáo hình ảnh của ngân hàng, đẩy
19 


mạnh xây dựng phát triển thương hiệu sẽ mang lại uy tín cho ngân hàng. Một ngân
hàng có uy tín lớn sẽ rất có lợi thế trong việc huy động vốn. Uy tín của ngân hàng sẽ
tạo cho khách hàng sự tin tưởng và yên tâm khi thực hiện các dịch vụ ở đây. Khách
hàng sẽ lựa chọn gửi tiền ở ngân hàng có lãi suất thấp hơn nhưng có uy tín lớn vì họ
tin rằng họ sẽ được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Chính vì vậy, những hoạt động

marketing quảng bá thương hiệu là rất cần thiết để tăng cường khả năng huy động
vốn của ngân hàng.
1.3.1.5 Yếu tố về con người
Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp
xúc, đặt quan hệ giao dịch với khách hàng,... Như vậy, để nâng cao hiệu quả huy
động vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có
năng lực, có chuyên môn, được đào tạo một cách bài bản, đồng thời phải nắm có
được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về nghiệp
vụ thì một cán bộ phải có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực và
tuân thủ pháp luật, các quy định của ngân hàng.
1.3.1.6 Cơ sở vật chất, công nghệ
Ngoài việc quan tâm đến lãi suất, mạng lưới hoạt động, điều khách hàng mong
muốn nhất là sự tiện ích khi sử dụng các dịch vụ ở ngân hàng. Đó chính là yếu tố về
cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ. Khách hàng không muốn đi một quãng đường xa
để gửi một khoản tiền tiết kiệm nhỏ hay là khách hàng sẽ không muốn mất thời gian
chờ đợi chỉ để thực hiện một giao dịch đơn giản như gửi tiền hay rút tiền. Trong điều
kiện có rất ít sự khác biệt giữa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng như hiện nay thì chất
lượng phục vụ khách hàng là nhân tố hàng đầu giúp giữ chân khách hàng. Chính vì
vậy, các yếu tố về cơ sở vật chất, thủ tục, công nghệ ngân hàng có tác động rất lớn
đến công tác huy động vốn.
1.3.2 Những nhân tố bên ngoài ngân hàng.
1.3.2.1 Môi trường kinh tế xã - hội.
20 


Bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu tác động của môi trường
kinh doanh và các chính sách của chính phủ trong từng thời kỳ và hoạt động kinh
doanh ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đặc biệt hơn nữa, hoạt động
huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng
trưởng, lạm phát, thất nghiệp…tác động trực tiếp. Do tính chất đặc biệt của nó, hoạt

động ngân hàng bị hàng loạt các quy định, chính sách của Chính phủ điều chỉnh. Một
yếu tố rất quan trọng tác động đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng là lạm
phát. Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của
các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ
ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát
với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài
toán khó đối với mỗi ngân hàng. Trong khi đó, người gửi tiền vào ngân hàng đều
mong muốn nhận được lãi suất thực dương nghĩa là ít nhất bù đắp được lạm phát.
Nếu tỷ lệ lạm phát cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, người dân sẽ không gửi tiền tiết
kiệm nữa mà sẽ chuyển sang các kênh đầu tư khác như mua ngoại tệ, cất trữ vàng,
đầu tư bất động sản. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại luôn phải đưa ra các
chính sách huy động phù hợp với môi trường kinh tế xã hội và các chính sách của
Chính phủ.
1.3.2.2 Tâm lý thói quen của khách hàng.
Thói quen cất trữ, chi tiêu thanh toán, sử dụng tiền mặt của khách hàng có ảnh
hưởng khá lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Khi mà người dân vẫn còn
giữ thói quen chi tiêu bằng tiền mặt, cất giữ tiền tại nhà thì sẽ gây ảnh hưởng tới hoạt
động huy động vốn của ngân hàng. Ngược lại khi người dân đã quen với việc cất trữ
tiền tại ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt thì sẽ tạo điều kiện tốt cho hoạt
động huy động vốn.
Tâm lý khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng. Khách hàng khá nhạy cảm
với các thông tin trên thị trường. Khi có một tin đồn không tốt về một ngân hàng thì
có thể tạo ra cho khách hàng tâm lý lo lắng và họ sẽ rút tiền khỏi ngân hàng, kéo theo
21 


những khách hàng khác cũng rút tiền. Kết quả là khả năng thanh toán của ngân hàng
sẽ kém, và có thể ngân hàng bị phá sản.
1.3.2.3 Môi trường pháp lý.
Cũng như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh

của ngân hàng thương mại phải chịu sự điều chỉnh pháp luật .Ở Việt Nam đó là: Luật
các tổ chức tín dụng, các quyết định, chỉ thị, thông tư trong từng thời kỳ về lãi suất,
dự trữ bắt buộc...Sự thay đổi chính sách của Nhà nước, của Ngân hàng Nhà Nước về
tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như
chất lượng nguồn vốn của NHTM.
1.3.2.4 Đối thủ cạnh tranh
Trước hết ngân hàng thương mại trong nước cạnh tranh với nhau và cạnh tranh
với các ngân hàng thương mại nước ngoài. Ngày càng có nhiều NHTM nước ngoài
vào Việt Nam hoạt động kinh doanh. Ngân hàng nước ngoài với công nghệ hiện đại,
trình độ cao, nếu các NHTM trong nước không cải thiện tình hình hoạt động sẽ bị
xâm chiếm thị phần, giảm sức cạnh tranh. Ngoài sự canh tranh giữa các NHTM với
nhau, đối thủ cạnh tranh của ngân hàng còn là các TCTD phi ngân hàng như: các
công ty chứng khoán, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm. Bên cạnh đó thị trường
chứng khoán và thị trường bất động sản phát triển cũng là các kênh hút vốn khác
ngoài ngân hàng. Ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, sự tăng trưởng
quá nóng của thị trường chứng khoán cũng là lý do khiến khách hàng đồng loạt rút
tiền gửi ở ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Việt Nam cũng chứng kiến tình
trạng này vào những năm trước đây khi thị trường chứng khoán phát triển quá nóng
đã xảy ra hiện tượng khách hàng rút tiền gửi tại ngân hàng để đầu tư vào thị trường
chứng khoán. Ngân hàng không thể cạnh tranh bằng lãi suất với thị trường chứng
khoán hay thị trường bất động sản, thị trường vàng vì lợi nhuận thu được khi đầu tư
vào thị trường này là rất lớn. Ngân hàng chỉ có thể cạnh tranh được bằng sự an toàn,
chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa hình thức huy động và kết hợp tiện ích… Còn các
công ty bảo hiểm cạnh tranh với ngân hàng qua hình thức cung cấp các gói dịch vụ
22 


bảo hiểm đối với khách hàng về tính mạng, tài sản, sức khỏe…Hiện nay, do sự phát
triển của thị trường tài chính thường có sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân
hàng nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên.

 

Như vậy qua những nội dung đã đề cập ở trên chúng ta thấy công tác huy động

vốn có vai trò rất quan trọng, đặc biệt đối với các nhà quản lý kinh doanh ngân hàng
thì việc mở rộng, tăng cường nguồn vốn huy động là vấn đề được quan tâm hàng đầu
vì nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để cân đối được vốn kinh
doanh và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng đòi hỏi các nhà quản trị kinh doanh ngân
hàng luôn phải nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nhạy bén với sự biến động của nền
kinh tế, tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ huy động vốn … từ đó đưa
ra các biện pháp, các hình thức huy động vốn phù hợp để vừa phát triển và đảm bảo
được mục tiêu kinh doanh có lãi, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế
đồng thời nâng cao đời sống cho các cán bộ công nhân viên của ngân hàng.
Trên đây là những vấn đề lý luận về vốn và huy động vốn của Ngân hàng
thương mại nói chung. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này ta tìm hiểu thực trạng huy động
vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên.

23 


CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH PHÚC YÊN
2.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Phúc Yên (BIDV Phúc Yên).
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên là đơn
vị trực thuộc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).
Trụ sở giao dịch được đặt tại: Đường Hai Bà Trưng - Phường Hùng Vương Thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
ĐT: 02113869876.


Fax: 02113869450.

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phúc Yên
(BIDV Phúc Yên) được thành lập theo Quyết định thành lập số 30/QĐ-HĐQT ngày
01/05/2012 Hội đồng Quản trị Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(chuyển đổi mô hình tổ chức sau cổ phần). Từ ngày 01/09/2006, chi nhánh được nâng
cấp lên thành chi nhánh cấp 1, gồm 59 cán bộ, 01 phòng giao dịch, 02 quỹ tiết kiệm
và 01 quầy thu đổi ngoại tệ.
Theo công văn số: 7413/CV- QLCN1 ngày 28/12/2009 của Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam), Chi nhánh Phúc Yên thực hiện bàn giao Phòng Giao dịch Quang Minh, Quỹ
tiết kiệm Đại Thịnh, Quầy thu đổi ngoại tệ Nội Bài về Chi nhánh Tây Hà Nội kể từ
ngày 01/01/2010.
Tháng 5/2010 chi nhánh đã khai trương Quỹ tiết kiệm Phúc Yên đồng thời
nâng cấp Quỹ tiết kiệm Xuân Hoà lên thành Phòng giao dịch Xuân Hoà kể từ tháng
06/2010 đến tháng 05/2011 đã nâng cấp Quỹ tiết kiệm Phúc Yên thành Phòng Giao
dịch Trưng Trắc và đến tháng 10/2012 Chi nhánh đã thành lập Phòng Giao dịch Tiền
Châu.
24 


Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Phúc Yên đã có lợi thế về
các bạn hàng tin cậy từ những năm còn thực hiện cấp phát vốn trong đầu tư xây dựng
cơ bản. Theo chủ trương của Nhà nước cho đến nay họ vẫn quan hệ với ngân hàng,
nhưng không vì thế mà cán bộ công nhân viên trong ngân hàng chủ quan mà ngược
lại còn có những định hướng đổi mới, năng động, nhạy bén trong kinh doanh để tìm
kiếm thêm khách hàng mới. Hiện nay, trên địa bàn thị xã Phúc Yên còn có 08 chi
nhánh, Phòng Giao dịch của các ngân hàng khác hoạt động, trong đó có 3 chi nhánh
cấp 1, đó là Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Phúc Yên, Chi nhánh

Ngân hàng TMCP Công thương Phúc Yên và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Phúc Yên.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Phúc Yên luôn có những
thay đổi phù hợp, linh hoạt trong các chính sách theo biến động của thị trường như:
Chính sách lãi suất, các phương thức thanh toán nhanh, thuận tiện, đảm bảo chính
xác, luôn nhiệt tình với khách hàng đến với ngân hàng, đội ngũ cán bộ có nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động tín dụng, huy động vốn, thanh toán trong nước và quốc tế, do
đó khách hàng luôn có thiện cảm khi đến với BIDV Phúc Yên. Với thương hiệu uy
tín trên thị trường, BIDV Phúc Yên ngày càng có sức hút đối với những khách hàng
mới đến giao dịch. Trong những năm qua chi nhánh luôn duy trì được sự phát triển
ổn định, hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh hàng năm, đảm bảo thu nhập cho cán bộ
công nhân viên.
Trải qua hơn 6 năm xây dựng và trưởng thành, tuy là một khoảng thời gian
không dài nhưng BIDV Phúc Yên đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp
phần đắc lực cùng toàn ngành ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát
triển kinh tế xã hội của thị xã Phúc Yên nói riêng và của đất nước nói chung. Với
hành trang là bề dày truyền thống, BIDV Phúc Yên tự tin hướng tới những mục tiêu
đã đề ra trong năm mới và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
2.1.2. Mô hình tổ chức và mạng lưới hoạt động.
a. Đặc điểm cơ cấu tổ chức.
25 


×