Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thuyết minh về văn miếu quốc tử giám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.66 KB, 25 trang )

Xin kính chào Quý khách!
Vậy là chúng ta đang đứng trước Văn Miếu – Quốc Tử Giám, một trong
những di tích nổi tiếng nhất Hà Nội, nơi chứa đựng biết bao giá trị văn hoá, lịch
sử, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngày hôm nay, thật vinh dự và tự hào
cho hướng dẫn viên khi được hướng dẫn quý khách tham quan di tích này, bởi
đây không chỉ là nhiệm vụ của một hướng dẫn viên thực hiện trách nhiệm của
Công ty Du lịch giao phó cho hướng dẫn viên mà còn là một niềm tự hào, một
quyền lợi khi hướng dẫn viên được cùng với các bạn tìm hiểu đôi nét về nền văn
hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống văn hoá phát
triển đã hàng nghìn năm nay.
Hướng dẫn viên thật sự mong muốn rằng, qua chuyến tham quan hôm
nay, tất cả quý khách sẽ có thêm những hiểu biết về truyền thống hiếu học, văn
hiến, về một công trình kiến trúc đẹp và tiêu biểu của Việt Nam, và qua đó hy
vọng sẽ để lại ấn tượng tốt đẹp trong các bạn về dân tộc của chúng ta.
Và bây giờ chúng ta hãy bắt đầu cuộc thăm quan của mình.
Kính thưa quý khách, chúng ta đang đứng trước Văn Miếu Quốc Tử
Giám và bên cạnh chúng ta đây là tấm bia Hạ Mã, đối diện qua tứ trụ kia quý
khách có thể thấy một tấm bia tương tự. Trên mặt bia, chúng ta có thể thấy chỉ
khắc rất sâu hai chữ lớn là Hạ Mã. Đây là hai chữ nói tắt của cụm từ “Khuynh
cái Hạ Mã” nghĩa là nghiêng lọng xuống ngựa. Hai tấm bia này là lằn mốc ranh
giới chiều ngang phía trước mặt Văn Miếu xưa kia dù có là bậc công hầu, khanh
tướng, vua quan hay dân thường, dù võng lọng, ngựa xe thì khi qua Văn Miếu
đều phải xuống ngựa, rời võng nghiêng lọng mà đi bộ chí ít là từ tấm bia “Hạ
Mã” này đến tấm bia “Hạ Mã” kia, cúi đầu kính cẩn, trang nghiêm khi đi qua tứ
trụ nghi môn, rồi mới được lên xe, ngựa, võng, lọng mà tiếp tục cuộc hành trình.
Thế đủ biết Văn Miếu xưa có vị trí tôn nghiêm đến chừng nào.
Và xa xưa trước mặt quý khách kia, một hồ nước nhỏ, trên có chiếc gò
xinh xắn rợp bóng cây xanh, hồ mới được cải tạo gần đây, nhỏ hẹp nhưng chắc
chắn một ngày không xa nữa, khi những rặng cây kia lớn lên cùng với lòng hồ
được tư sửa, chắc chắn đó sẽ là một khuôn viên xanh xinh xắn giữa lòng thủ đô,
tôn thêm vẻ uy nghi của Văn Miếu. Tuy bây giờ chỉ còn là một hồ nước nhỏ,


nhưng xưa kia đó là một hồ rất lớn, gọi là Văn Hồ. Thủa ban đầu dựng Văn
Miếu, nhà vua đã chọn dải đất phía Bắc một chiếc hồ lớn, được tạo nên bới
nhiều hồ nối thông nhau, gọi là Thái hồ. Về phía Nam hồ nổi lên một gò đất cao
và to, theo sau có 5 gò nhỏ, vì vậy người ta gọi tên dãy gò ấy là Bắc Đẩu Sơn.


Chúng ta biết rằng, người xưa khi xây dựng các công trình kiến trúc đều căn cứ
vào thuật phong thuỷ. Văn Miếu Quốc Tử Giám cũng vậy, khi xây dựng người
ta đã chọn văn hồ làm minh đường, dãy gò Bắc Đẩu Sơn làm tiền án, còn hậu
chẩm là đoạn tường thành Thăng Long mà nay là đường phố Nguyễn Thái Học
với các kiến trúc kiểu biệt thự do Pháp phá huỷ tường thành và xây dựng từ năm
1884. Như vậy, Văn Miếu của chúng ta đã được các nhà phong thuỷ am tường
địa lý khi xưa lựa chọn rất kỹ càng khi xây dựng. Tổng thể kiến trúc công trình
được quay về hướng Nam theo quan niệm phương Đông xưa: “Thánh Nhân
nam diện nhi thích thiện hạ” (Bậc Thánh Nhân ngoảnh mặt về phương Nam
nghe thiên hạ tâu bày). Đó là hướng của bậc thánh nhân, một danh hiệu cao quý
dùng để chỉ những bậc tiền bối của đạo Nho như Không Tử, Mạnh Tử… Hướng
Nam con là hướng của hành hoả, mà hành hoả là hành của văn chương, trong
văn chương luôn có lửa để thiêu đốt những điều ngu tối trong mỗi con người và
toàn xã hội. Và bởi vậy, Văn Miếu Quốc Tử Giám, ngôi đền của văn chương,
ngôi đền của Nho học, ngôi đền Của văn hiến Việt Nam ngàn đời được đặt vào
một vị trí đắc địa, có tiến án, cơ minh đường, có hậu chẩm, như là đặt vào nơi
phát triển bền vững, nói lên khát vọng bền vững và phát triển đến muôn đời của
nền văn hiến dân tộc Việt Nam.
Hồ Văn hôm nay có diện tích 12.297 m2, giữa hồ là Gò Kim Châu, trên
gò xưa dựng Phán Thuỷ Đình, là nơi diễn ra các buổi bình văn, thơ của nho sĩ
kinh thành Thăng Long xưa… “Phán thuỷ đường” này do Yêm Quận Công
Phạm Công Trứ dựng năm 1662 để làm nơi ngâm vịnh thơ văn, ông cho khắc
10 bài thơ vịnh cảnh đẹp của hồ văn lên bia đá, đặt trong đình nhà “Phán thuỷ
đường” cùng với các kiến trúc khác trên gò này không còn, chỉ còn tấm bia

dựng năm Tự Đức thứ 18 (1865) trong dịp sửa sang Văn Miếu do Hoàng Giáp,
Bố Chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh soạn, ghi lại công cuộc tu sửa tấm bia “Hoàn
văn hồ bi” do các chí sĩ Hà Nội dựng năm 1942 ghi lại việc hồ văn được trao trả
lại cho Văn Miếu quản lý. Mặt sau bia có bài dịch bằng chữ quốc ngữ của Nhà
sử học Trần Trọng Kim, Đốc học Hà Nội đương thời.
Hồ văn xưa kia rộng lớn, soi bóng tứ trụ, không chỉ mang giá trị cảnh đẹp
du ngoạn mà con mang ý nghĩa triết học tâm linh, bởi kiến trúc phương Đông
xưa luôn theo lối “Thượng gia hạ trì” (trên nhà, dưới ao), mà theo quan niệm cổ
Phương Đông xưa, ao dưới nước, mà nước là nguồn mạch của sự sống. Như văn
chương là nguồn mạch giáo hoá. Mang trong mình bao giá trị như vậy, nhưng
Hồ văn hôm nay đã bị thu nhỏ trong một hình gần tròng và chia cắt với bố cục


toàn cảnh của Văn Miếu bới một con đường đặt từ thời Pháp thuộc, vạch ra do
thiếu hiểu biết và coi thường những công trình văn hoá dân tộc.
Với sự quan tâm và nỗi lực của các cơ quan chức năng, chắc chắn chỉ
trong thời gian ngắn nữa, hồ Văn sẽ được trả lại vẻ đẹp và giá trị vốn có của nó,
góp phần tôn lên vẻ đẹp của toàn thể quần Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Xin kính mời quý khách chúng ta tiếp tục cuộc thăm quan, và trước mặt
quý khách là bốn trụ được xây bằng gạch, vôi vữa được gọi là tứ trụ nghi môn,
hay còn gọi là trụ biểu. Trong các kiến trúc, di tích của người Việt, tứ trụ nghi
môn hay trụ biểu luôn được xây phái trước công trình để tạo ra một dấu ấn
nhằm định vị cho di tích tồn tại phía sau nó. Kiếu kiến trúc trụ biểu như chúng
ta thấy ở đây là kiểu kiến trúc thuần việt, thường thấy ở cổng chùa hay Miếu,
đình làng của người Việt Bắc Bộ. Nó có tên là Trụ biểu lồng đèn, hình lập
phương, gồm có 4 phần: phần đế thường không trang trí, có các đường chỉ gờ
giật khúc, phần thân thường được viết các câu đối nói lên sự tích của di tích, ca
ngợi cảnh đẹp hay công trạng của vị thánh thần được thờ. Phần lồng đèn xưa kia
để trống, thắp đèn vào ban đêm cho sáng, về sau bít kín và đắp nổi hình cây, cổ,
tứ linh, phần đầu trụ bao giờ cũng là các con vật tứ linh, nhất là phượng chụm

đuôi hoặc nghê, sấu.
Ở tứ trụ Văn Miếu này, chúng ta có thể thấy trên đỉnh hai trụ giữa, xây
cao hơn cả hình hai con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là hai
con vật linh thiêng, có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Bởi vậy, nó
được tạc hình trên đỉnh tứ trụ nghi môn với mục đích trông giữ, coi sóc, giám
sát tư cách của những người ra vào Văn Miếu, bảo vệ cho sự tôn nghiêm với
đền đài của văn chương. Hai đỉnh hai trụ ngoài thấp hơn đắp nổi 4 con chim
phượng xoè cách chắp đuôi vào nhau vô cùng đẹp mắt. Cũng theo quan niệm
xưa thì Phượng là linh vật thuộc tầng trên, với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là
mặt trời, mặt trăng, lưng cõng cả bầu trời, lông là cây cỏ, cánh chở gió, đuôi là
tinh tú, chân là đất. Bởi vậy, Phượng hoàng là loài chim linh vật tượng trưng
cho vũ trụ, cho trời đất với tư cách vận chuyển cả bầu trời, mỗi khi chim
phượng hoàng bay là cả vũ trụ đang chuyển động. Và vì thế, hình ảnh bốn con
chim phượng chắp đuôi vào nhau trên đỉnh nghi môn Văn Miếu tượng trưng
cho bốn phương đất trời, tức là cả vũ trụ, trời đất đều hội tụ nơi đây, làm nên
linh khí muôn đời còn mãi.
Một điều nữa, kính thưa quý khách, xung quanh tứ trụ đắp nổi nhiều câu
đối chữ Hán, tiêu biểu như câu này:


“ĐôngTâyNam, Bắc do tư đạo
Công, Khanh, Phu, Sĩ xuất thử đồ”
Dịch là: Bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc đều cùng đạo này (đạo Nho).
Các bậc công, khanh, phu, sĩ cùng đều xuất thân từ đường này mà ra cả.
Câu đối nói lên tầm ảnh hưởng rộng khắp và vai trò của đạo Nho, cũng
như thể hiện rằng nơi đây từng là nơi đào tạo nho học lớn nhất đất nước.
Với những ý nghĩa như vậy, hai tấm bia Hạ Mã cùng với bốn cây cột tứ
trụ nghi môn đã trải qua hàng trăm năm binh lửa chiến tranh và thiên tai, mặc
cho thời gian và thiên nhiên phủ lên mình lớp màu cũ kỹ của thời gian, vẫn
đứng sừng sững, trang nghiêm trước Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi đền đài

hương khói của văn hiến nước nhà, như là sự biểu tượng của sự bền vững,
trường tồn của nền văn hiến dân tộc dù trải qua biết bao biến cố lớn lao của lịch
sử thăng trầm, để lại cho con cháu hôm nay một dấu ấn để ghi nhớ và tiếp nối.
Kính thưa quý khách, chúng ta vừa tham quan xong khu bên ngoài của
Văn Miếu Quốc Tử Giám, hy vọng rằng mỗi quý khách đã cảm nhận được một
chút gì đó về nền văn hoá của đất nước Việt Nam. Và bây giờ, trước khi bước
vào tham quan khu nội tự mà bắt đầu là Văn Miếu Môn phía trước mặt quý
khách, hướng dẫn viên xin có đôi lời khái quát về lịch sử ra đời cũng như quá
trình phát triển của Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
Kính thưa quý khách, khu Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội mà chúng ta
tham quan hôm nay, bắt đầu được xây dựng năm 1070 đời Vua Lý Thánh Tông.
Chúng ta biết rằng: Ngay sau khi lên làm vua, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định
rời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thành Đại La và đổi tên là Thành Thăng
Long, có vị trí trung tâm đất nước, giao thông thuỷ bộ thuận lợi. Tại kinh thành
Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, đền chùa và thành
luỹ bảo vệ. Từ đó Thăng Lòng với hình ảnh “Rồng bay lên” đẹp đẽ và kiêu hãnh
tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, trở thành trung tâm của đất nước
ngàn năm vạn vật, trái tim của tổ quốc Việt Nam.
Sau khi xây dựng được vương triều thi hành các chính sách đối nội và đối
ngoại hợp lý và tích cực, nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để
đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính.
Trước đây tầng lớp có học trong xã hội hầu như chỉ có các nhà sư. Nhà lý trong
khi xây dựng bộ máy cầm quyền đã nhận ra vai trò của nho giáo, một vũ khí
phục vụ đắc lực cho chính thể trung ương tập quyền, củng cố chế độ đẳng cấp


và giáo dục lòng trung thành với nhà vua. Đó là động lực dẫn đến sự kiện lịch
sử quan trọng được sử thần Ngô Sĩ Liên ghi chép lại trong sách “Đại Việt sử ký
toàn thư” (thế kỷ 15).
“Năm CanhTuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông.

Mùa thu Tháng Tám dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ
phối Mã Tượng thất thập nhị Hiền, bốn mùa cúng tế Hoàng Thái Tử đến học ở
đây”.
Như vậy, Văn Miếu ngay từ ngày xây dựng đã mang hai chức năng: Là
nơi thờ cúng các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của
một trường học một chức năng mà các Văn Miếu ở các nước phương Đông
khác không có. Người học trò đầu tiên là Thái Tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý
Thánh Tông và Nguyễn Phi ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 lên ngôi trở
thành Vua Lý Nhân Tông, vị vua thứ ba của triều Lý. Năm 1075 triều đình mở
khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài, gọi là khoa thi Minh kinh Bác học, người đỗ
đầu là Lê Văn Thịnh, được bổ làm thầy dạy học cho vua. Qua năm sau, tháng 4
mùa hạ năm Bính Thìn niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ nhất (1076) vua Lý
Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám, làm nơi học tập của con cái tầng lớp quan
lại quý tộc của triều đình.
Sang triều Trần, việc học hành thi cử ngày càng thịnh đạt, văn Nguyễn
Phong thứ 3 (1253) vua Trần Thái Tông xuống chiếu lập Quốc học Viện.
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng, trang hoàng, đạt đến thời đại
phát triển rực rỡ nhất dưới thời Hậu Lê, đặc biệt dưới thời vua Lê Thánh Tông,
một ông học rộng, đọc nhiều, văn trị, võ công đều có. Năm Quý Mão niên hiệu
Hồng Đức thứ 14 (1483), vua ra sắc chỉ đại trùng tu Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Qua năm sau, năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) vừa gặp kỳ thi
hội, nhà vua xuống chỉ dựng bia đá tại Văn Miếu, khắc tên những tiến sĩ đỗ đạt
từ khoa thi đầu tiên của triều Lê năm 1442 đến khoa thi năm 1484, tất cả gần
mười tấm, mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này của các triều đại tiếp theo ông.
Sau đó, Văn Miếu Quốc Tử Giám còn được tu sửa rất nhiều lần vào các
năm 1511 đời Vua Lê Tương Dực, năm 1537 (Vua Mạc Đăng Doanh, năm 1662
đời Lê Thần Tông…
Trải qua bao biến cố của chiến tranh, biến loạn đời Lê – Trịnh, Văn Miếu
bị hư hại nặng nề. Sau khi nhà Nguyễn lên nắm chính quyền vào đầu thế kỷ 19,
Văn Miếu Thăng Long lại một lần nữa được sửa sang, nhưng chỉ còn đóng vai



trò là Văn Miếu của Trấn Bắc Thành, sau đổi là Văn Miếu Hà Nội, còn Quốc
Tử Giám thì đổi làm học đường của phủ Hoài Đức do nhà Nguyễn khi chuyển
kinh đô vào Phú Xuân – Huế đã xây dựng Văn Thánh và Quốc Tử Giám tại Huế
như là cơ sở đào tạo của cả nước. Di tích Văn Miếu mà chúng ta thấy hôm nay
phần lớn là kiến trúc thời Nguyễn Như Văn Miếu Môn trước mặt quý khách kia,
hay khúc Văn Các được Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành dựng năm
1805, hay phần lớn các tấm hoành phi, câu đối trong Văn Miếu này…
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Hà Nội, Văn Miếu bị tàn phá nặng nề.
Thái Hồ và vùng đất xung quanh Văn Miếu bị lấn chiếm biến thành khu dân cư,
Văn Miếu thì bị biến thành tường bắn của quân đội Pháp, rồi thành nơi chứa các
bệnh nhân dịch hạch khi dịch bùng phát vào năm 1093 tại Hà Nội, khiến cho
khu đền đài của văn chương bị uế tạp đến nỗi chính quyền thực dân Pháp có
quyết định di dời Văn Miếu đi chỗ khác để xây một bệnh viện tại đây. May sao,
nhờ lòng nhiệt thành vận động của các bậc văn thân sĩ phu yêu nước đương thời
mà Văn Miếu mới được giữ lại như là chứng tích của một thời vàng son.
Ngày nhân dân ta thực sự làm chủ thành phố của mình, năm 1954 đến
nay Văn Miếu Quốc Tử Giám mới lại được quan tâm đúng mức và liên tục
được tu sửa, đặc biệt là đợt đại trùng tu năm 1995 – 2000 nhân dịp kỷ niệm 990
năm Thăng Lòng – Hà Nội đã trả lại cho Văn Miếu Quốc Tử Giám vẻ uy nghi,
trang nghiêm và lộng lẫy khi xưa, tôn vinh hình ảnh Văn Miếu như là một biểu
tượng của văn học, tạo ra một bầu không khí cảm hứng và suy tư trí tuệ không
bao giờ vơi cạn.
Kính thưa quý khách!
Và bây giờ, chúng ta hãy cùng tham quan công trình đầu tiên của Văn
Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, công trình đang hiện diện trước mặt quý khách
Văn Miếu Môn. Văn Miếu Môn là chiếc cổng ngoài cùng của Văn Miếu, xưa
kia nó được làm bằng gỗ, là một toà lầu, trên có 3 chữ đại tự là “Thái Học Môn”
được xây dựng từ năm 1511. Sang thời Nguyễn Tam quan chính của Văn Miếu

Quốc Tử Giám Hà Nội được xây dựng lại bằng chất liệu gạch, vôi vữa và đặt
biển tên là Văn Miếu Môn. Quý khách có thể thấy, khiến trúc Văn Miếu Môn là
một kiến trúc thuần việt, một tam quan lớn xây hai, ba cửa. Cửa giữa to cao.
Tầng trên đề ba chữ “Văn Miếu Môn” đắp sành sứ, một đặc điểm của nghệ
thuật trang trí, kiến trúc thời Nguyễn, nhìn bề mặt hình vuông, tầng dưới to,
tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới, do đó xung quanh thừa ra một hàng hiên
rộng bốn mặt có lan can, phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở một cửa cuốn, hai


canh bằng gỗ lim mở vào trong và cửa hình bán nguyệt chạm nổi hình đôi rồng
chầu mặt nguyệt và hai cửa nhỏ bên trái, bên phải phía trong là lối bậc lên tầng
hai tam quan. Bản thân tầng hai đã là một tam quan mở ba cửa cuốn không có
cánh cửa. Tầng trên làm tám mái. Bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên ở bốn
góc, bờ nóc đắp nổi lưỡng long triều nguyệt, một hình ảnh xuất hiện khá nhiều
trong Văn Miếu Quốc Tử Giám thể hiện sự cân bằng âm dương.
Kiến trúc này của Văn Miếu Môn có nhiều nét độc đáo đáng lưu ý khi
nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam cuối thế kỷ 19, một kiến trúc hai cổng hai
tầng lầu phổ biến với các cổng thành, cổng làng, chùa miếu… với tầng hai như
một vọng lâu canh gác và quan sát.
Ngày trước cổng Văn Miếu Môn, quý khách có quan sát đôi rồng đá thời
Lê cách điệu thành hình mây, gọi là long vân, ví như người có học, như rồng ẩn
trong mây vậy. Phía bên trái theo chiều quý khách, chúng ta thấy đắp nổi cảnh
“Long ngự tụ hội”: cá vàng rồng ẩn hiện trong mây ví như cảnh thanh vân đắc
lộ của các nho sinh thành đạt. Bên phải là cảnh “Mãnh hổ hạ sơn”: giữa cảnh
núi rừng mây nước nổi bật lên dáng dấp một con hổ hùng dũng xuống núi, ví
như các bậc thức giả, học hành thành đạt khí thế bước vào đời để thi thố tài
năng kinh bang tế thế của mình.
Hai mặt cổng tam quan như quý khách thấy đều đắp nổi đôi câu đối chữ
Hán.
Câu thứ nhất: Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc

tín tư văn nguyễn hữu dụng.
- Ngô Nho yếu thông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thượng tư thánh
huấn vĩnh tương đồn
Dịch là: Nước lớn không thay đổi nền giáo hoá, không biến đổi phong
tục, mà tôn sùng đạo nho và tin tưởng tư văn vốn có ích.
Nhà nho phải thông hiểu kinh sách, phải thức thời, không nên câu nệ, cố
chấp người nghĩ rằng lời giáo huấn của thành hiền mãi mãi được đề cao.
Câu đối từ thế kỷ 19 này đã nói lên những tư tưởng vượt tầm thời đại.
Với cái nhìn của những người sống giữa thế kỷ 21 hôm nay thì việc giữ gìn bản
sắc dân tộc, nền văn hiến ngàn đời, rồi những người có học phải biết thời cuộc
và phải hành động theo yêu cầu của hoàn cảnh và thời cuộc, là những suy nghĩ
bình thường và mặc nhiên được công nhận. Nhưng với những nhà Nho sống


dưới triều Nguyễn, một triều đại đề cao nho học đến mức khắt khe để củng cố
vương quyền rập khuôn Đại Thanh một cách vô cùng máy móc, nhà nho thì hẹp
hòi và bảo thủ giữ nếp cũ giữa cuồn cuộn biến chuyển của thế giới thì những tư
tưởng nêu ra trong câu đối này mới đáng suy nghĩ làm sao, thật “thức thời” thay
vậy!
Hay như câu thứ hai: - Sĩ phu báo đáp vị hà tai, triều đình tuyển tựu
chiên, quốc gia sùng thượng chi ý.
- Thế đạo duy trì thị thử nhĩ, lễ nhạc y quan sở tuy, thanh danh văn vật sở
đô.
Dịch là: Bậc sĩ phu phải báo đáp như thế nào ân tuyển chọn của triều
đình, ý tôn sùng của quốc gia.
- Thế đạo phải được duy trì như thế đấy, phải thấy nơi này là lễ, nhạc, y,
quan, là nơi tập trung thanh danh văn vật.
Vâng thưa quý khách, hai bên cổng Văn Miếu Môn, chúng ta còn thấy hai
cổng nhỏ hơn là “Tả môn” và “hữu môn”. Hai cổng tuy nhỏ nhưng cũng xây
làm hai phần, tắm mái nóc nom tựa kiến trúc 2 tầng. Hai cửa này khi xưa là nơi

đóng mở ra vào hàng ngày của các nho sĩ trường Giám. Còn cửa Văn Miếu Môn
thì đóng quanh năm, chỉ mở cho vua qua mỗi khi ghé thăm Văn Miếu hoặc mở
cho người chủ tế dịp tế lễ quan trọng trong năm.
Chạy qua cổng chính Văn Miếu Môn là con đường “Nhất chính đạo”, là
con đường lát gạch Bát Tràng chạy thẳng từ Tứ Trụ nghi môn, qua các cổng
chính tạo thành một trục xuyên suốt khu kiến trúc tạo nên kiểu dáng đối xứng
tuyệt đối, một kiểu mặt bằng quen thuộc quán xuyến hầu hết các đồ án kiến trúc
thời cổ đại. Con đường này khi xưa cũng chỉ dành cho bậc vua chúa và người
chủ tế qua lại trong các dịp tế lễ trọng đại. Còn lại nho sinh thì đi lại trên hai
con đường đối xứng bên cạnh xuyên qua các cổng phụ.
Kính thưa quý khách, như vậy là chúng ta vừa bước chân qua Văn Miếu
Môn để vào khu vực thứ nhất của khu nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
Tại sao lại nói như vậy, xin thưa bởi Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội ngày nay
có tổng diện tích là 54.331m2 bao gồm: hồ văn, vườn Giám và khu nội tự Văn
Miếu Quốc Tử Giám, Văn Miếu Quốc Tử Giám ở phía Nam Thành Thăng Long
xưa, mà phía Nam thì thuộc hành hoả, mà hành hoả là hành của văn chương
theo quan niệm âm dương ngũ hành xưa. Văn Miếu Quốc Tử Giám xưa thuộc
thôn Minh Giám, Tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương, thời Pháp thuộc là


làng Thịnh Hào, Tổng Yên Hạ tỉnh Hà Đông, này thuộc Quận Đống Đa, Hà
Nội.
Khu nội tự của Văn Miếu Quốc Tử Giám như các quý khách đang thấy
được bao quanh bởi một khung tường gạch vồ có chiều dài hơn 300m, rộng
70m chạy theo hướng Bắc – Nam. Khu nội tự tôn nghiêm này được chia thành 5
lớp không gian khác nhau: mỗi lớp được giới hạn bởi các tường gạch và có các
cửa thông nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên. Các nhà nho xưa
khi hoạch định kiến trúc chia Văn Miếu Quốc Tử Giám thành 5 khu là ứng với
ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tương sinh tương khắc mà sinh ra vạn vật
trong vũ trụ. Hơn nữa thấy Văn Miếu Quốc Tử Giám hướng mặt về phía Nam là

hướng dương nóng ấm và mát mẻ. Quay lưng lại hướng Bắc là hướng âm. Bên
trái âm hợp với bên tây dương. Như vậy là đủ cả âm dương, ngũ hành tạo nên
sự ổn định, vững chắc, trường tồn của Văn Miếu Quốc Tử Giám, đền đài của
văn chương, của nền văn hiến nước nhà.
Vâng và bây giờ xin mới quý khách chúng ta cùng chiêm ngưỡng mặt sau
của Văn Miếu Môn. Nếu như mặt trước mà quý khách đã xem qua vừa rồi mang
nhiều ý nghĩa tư tưởng thì mặt sau này lại có nhiều chi tiết mang ý nghĩa biểu
tượng. Quý khách có thể thấy trên cao kia là hình con dơi đắp nổi, biểu tượng
cho hành phúc bởi trong tiếng Trung Quốc, con dơi đọc đồng âm với chữ Phúc,
do đó đắp nổi hình dơi thể hiện ước mong tạo phúc cho xã hội của các bậc danh
sĩ. Bên cạnh đó là 5 bức tượng nhỏ, cũng đắp bằng vôi vữa, người ta cho rằng
đó là tượng Khổng Tử và Tứ phối, bốn người học trò xuất sắc nhất của ông.
Tượng của các ngài được đắp ở đây để các nho sinh mỗi khi bước qua Văn
Miếu Môn ra ngoài cuộc đời, đều được chiêm bái các vị Tiên Thánh, tiên sư của
đạo Nho, để luôn khắc nghi lời dạy của các ngài, thì hành đạo học giúp ích cho
đời. Cũng có người cho rằng 5 bức tượng nhỏ đó là 5 vị tướng nhà trời bảo vệ
Văn Miếu.
Còn bên dưới này, hai bên lối đi là đôi rồng đá thời Nguyễn, mang đặc
trưng của nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn là: Toàn bố cục nhỏ, rồng thì mảnh
mai, đao nhọn sắc, cuốn xoắn cuộn tròn.
Từ đó có thể thấy, Văn Miếu Môn không chỉ mang nhiều ý nghĩa biểu
trưng mà còn mang giá trị kiến trúc và điêu khắc cao khi nghiên cứu kiến trúc
cổ Việt Nam thời Nguyễn.
Vâng tiếp theo chúng ta sẽ tiếp tục hành trình với bạn Ngô Thị Nga.


Xin chào cô và tất cả các bạn! Và cũng xin cảm ơn HDV Trương Mỹ
Khánh Linh đã nhường lời cho mình. Lời đầu tiên mình xin gửi tới cô và các
bạn lời chào và lời chúc tốt đẹp nhất, chúc cô và các bạn có một buổi tham quan
học tập đầy ý nghĩa. Mình xin tự giới thiệu mình tên là Ngô Thị Nga, đến từ lớp

VNH1 - K16 Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội. Và sau đây mình xin giới
thiệu cho cô và các bạn hiểu rõ hơn về Đại Trung Môn và Khuê Văn Các.
Mời cô và các bạn di chuyển theo mình.
Và sau đây mình xin mời cô và các bạn đoàn mình đứng thành hai hang
dọc để cùng mình tìm hiểu về Đại Trung Môn.
1.Đại Trung Môn:
Kính thưa cô và các bạn, Chúng ta đang ở phần thứ nhất của Văn Miếu
Quốc Tử Giám Hà Nội. Trước mặt chúng ta là cổng Đại Trung Môn. Khu vực
thứ nhất này được gọi là khu nhập đạo, nơi đi dạo hàng ngày của các nho sinh
trường Giám. Hai bên “Đại Trung môn” có hai cửa nhỏ, bên trái là “Thành Đức
Môn”. Bên phải là “Đạt Tài Môn” - mang ý nghĩa nho giáo đào tạo con người
vừa có đức vừa có tài. Bức tường ngang nối 3 cửa vươn dài ra hai bên đến
tường vây tạo thành một khung gần vuông có tường vây khép kín. Theo văn bản
của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và
bằng Đại Trung môn, Thành Đức môn và Đại tài môn ở phía sau. Hiện nay hai
bên là không gian cây xanh và thảm cỏ. Bức tường ngang nối ba cửa vươn dài
ra hai bên tới tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn
Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần
vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này
trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nhỏ nằm dài sát
theo chiều dọc bên ngoài có tường vây ngát hoa súng, cùng cây xanh, bóng mát,
nước trong. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh tịch của nơi "văn vật
sở đô".
Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có mái lợp
ngói mũi hài hay còn gọi là ngói di, cổng có hai vì kèo, có hai hàng cột hiên
trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc, cột đều sơn son rực rỡ, kiến trúc
thuần Việt khá đơn giản. Hàng cột này chính là nơi để lắp cánh cửa, song ở cửa
này không làm cánh. Ở gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then
“Đại Trung môn”.



Xin mời cô và các bạn chúng ta hãy cùng nhìn lên mái của Đại Trung
Môn, quý khách có thể thấy đôi cá chép đang chầu quanh một bầu rượu. Bầu
rượu là bình cảm hứng của văn chương, của các bậc túc nho, thi nhân xưa nay.
Bình đó còn là bình hồ lô chứa đựng các khí thiêng trời đất, tinh hoa của tri thức
nhân loại. Còn đôi cá chép, biểu trưng cho những nho sinh đi thi khi xưa, liên
quan đến một truyền thuyết nổi tiếng: Cá hoá rồng hay cá chép vượt vũ môn.
Người ta kể lại rằng, trên dòng sông Hoàng Hà, con sông mẹ của người Trung
Hoa, có một thác nước chảy siết vô cùng, nơi đó là vũ Môn – Cửa Vũ, cửa bay
lên. Hàng năm, những con cá chép sống lâu trăm tuổi từ khắp nơi trên trần gian
đều tìm đến đây, cố sức tung minh vượt qua vũ môn. Con nào nhảy qua được
một lúc 3 đợt khác nhau thì lập tức có tiếng sấm rền vang và con cá đó được hoá
kiếp biến thành rồng tức thì và bay lên trời. Ngày nay các bạn nhìn cá trê đầu nó
bẹp vì người ta cho rằng trong cuộc thi nó đã không vượt qua được và đầu nó va
vào đá, con cá chày mắt đỏ vì nó không vượt qua nên khóc nhiều quá… Do vậy,
vũ môn để chỉ trốn trường thi, còn thí sinh được ví như những con cá chép
muốn hoá mình thành con rồng linh thiêng quyền uy, muốn đỗ đạt hiển hách thì
phải chăm chỉ luyện rèn, dùi mài kinh sử ròng rã, nắm vững trí tuệ của mình thì
mới có thể vượt qua những kỳ thi khắc nghiệt, đạt được danh vọng, như những
con cá chép vượt được vũ môn hoá rồng bay lên vậy.
Con đường lát gạch thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn
tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa
Đại Trung, hai con đường lát gạch khác nhỏ hơn song song chạy thẳng với con
đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ
nước hình chữ nhật được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ
nhất. Cảnh trí khu vực thứ hai này không khác gì mấy ở khu vực thứ nhất, vốn
cũng chỉ là những bãi cỏ, trồng ít cây cổ thụ rất cao tuổi đã cằn cỗi (hiện nay đã
được trồng thêm nhiều cây mới theo hàng lối quy củ hơn).
2. Khuê Văn Các:
Thưa cô và các bạn, đi qua Đại Trung Môn, vẫn theo con đường nhất

chính đạo này chúng ta đã vào khu thứ hai của Văn Miếu Quốc Tử Giám. Trước
mắt cô và các bạn chính là Khuê Văn Các, biểu tượng văn hoá cao đẹp của
Thăng Long – Hà Nội, nghìn năm văn hiến. Hai bên của quý khách giống như
trong khu thứ nhất, là hai hồ nước nhỏ hình chữ nhật chạy dài theo tường bao
phía ngoài. Như vậy, cô và các bạn có thể thấy khu nội tự của Văn Miếu Quốc
Tử Giám có bốn chiếc hồ nhỏ này, cộng với giếng Thiên Quang trong kia là 5


hồ, hay “ngũ hồ”, tên một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Quốc, nguồn cảm hứng
của các bậc văn nhân xưa nay.
Cô và các bạn có thể nhận thấy Khuê Văn Các là một toà lầu có hai tầng:
Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có
chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang
đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4
trụ gạch to lớn, bề thế và để trống không, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét
và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo, biểu trưng
cho âm, cho mặt đất. Tầng trên là một kiến trúc gỗ hai tầng mái lợp ngói ống,
vươn lên cao thanh thoát và và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là
bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao, sơn màu đỏ, vàng rực rỡ (trừ
mái lợp), tượng trưng cho trời, cho yếu tố dương. Sàn gỗ có chừa 2 khoảng
trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc
sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Như vậy cả toà Gác đã mang đầy đủ yếu
tố âm dương, hội tụ cả đất trời, hài hoà trong vũ trụ như ước vọng một nền văn
hiến phát triển mãi mãi.
Còn các cửa sổ tròn trong khung gỗ vuông nói lên quan niệm trời tròn đất
vuông, cửa sổ tròn với các thanh đỡ như một ngôi sao Khuê đang toả sáng rực
rỡ, chiếu rọi những tia sáng khoẻ khoắn xuống nhân gian.
Vâng, cô và các bạn hãy nhìn lên mé trên sát mái phía cửa ngoài vào có
treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ “Khuê Văn Các”. “Khuê Văn” – Vẻ đẹp
của Sao Khuê, theo cách lý giải truyền thống về thiên văn thì Khuê là tên một

ngôi sao trong chòm 28 sao .Trong sách “Hiếu kinh có ghi “Khuê chủ văn
chương”. Về sau người ta coi sao Khuê biến hoá thành vị thần đứng chủ văn
chương. Gác lấy tên của Sao Khuê thể hiện ý chí vươn lên đỉnh cao trí tuệ của
con người Việt Nam.
Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng. Cả bốn
đôi câu đối này đều rất có ý nghĩa.
1.
Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển - Bích thuỷ xuân thâm đạo
mạch trường.

tâm.

2.

Hy triều phấn sức long văn trị - Kiệt các trân tàng tập đại quan

3.

Thành lâm Bắc đẩu hồi nguyên khí - Nguyệt tế thu đàm chiếu cổ


4.

Thánh hiền nhất thống đồ thư phủ - Văn hiến thiên thu lễ nghĩa

bang.
Bốn đôi câu đối chạm vào tường gỗ gác Khuê Văn được dịch nghĩa như
sau:
1.
đạo dài


Sao Khuê trời sáng, văn minh rộng - Sông Bích xuân sâu, mạch

2.

Triều ta tô điểm nhiều văn trị - Gác đẹp văn hay đón khách xem

3.

Bắc Đẩu soi thành nhiều khí tốt - Đầm thu bóng nguyệt sáng lòng

4.

Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến - Phủ đồ thư một mối thánh

xưa
hiền
Hai bên của Khuê Văn Các là hai cổng nhỏ có tên là Bí Văn (ở bên trái)
và Súc Văn (bên phải). Bí Văn tức là văn chương trau chuốt, sáng sủa, có sức
truyền cảm thuyết phục con người. Súc Văn tức là văn chương hàm súc phong
phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn.
Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay
của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Gác Khuê Văn không những chỉ xinh
xắn, tao nhã mà còn được đặt giữa những cây cổ thụ xanh tốt, cạnh giếng Thiên
Quang đầy nước trong xanh in bóng gác rung tinh, càng làm tăng thêm vẻ đẹp
của nó. Khuê Văn Các xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di
tích Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, ban ngày thì cao sang tuyệt đẹp, ban
đêm dưới ánh đèn chiếu sáng, gác Khuê Văn trở nên lung linh huyền diệu, soi
bóng xuống mặt hồ Thiên Quang Tỉnh (giếng trời trong sáng).
Vâng, thưa cô và các bạn, mình vừa giới thiệu với cô và các bạn về Đại

Trung Môn và Khuê Văn Các. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe. Sau
đây mình xin mời bạn Nguyễn Thúy Hằng sẽ lên giới thiệu tiếp theo cho chúng
ta về những khu tiếp theo của khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Xin mời quý khách tiếp tục cuộc tham quan. Cảm ơn hướng dẫn viên Ngô
Thị Nga đã chuyển lời cho tôi. Tôi là Nguyễn Thúy Hằng, hướng dẫn viên lớp
VNH1-k16, sau đây tôi rất vinh dự được giới thiệu cho các bạn nghe về giếng
Thiên Quang và hệ thống bia Tiến sĩ của Văn Miếu Quốc Tử Giám. Hướng dẫn
viên xin chúc đoàn ta có một buổi tham quan thú vị, học tập được nhiều điều


điều bổ ích. Để chuyến tham quan diễn ra tốt đẹp, hướng dẫn viên mong quý
khách trật tự và đi theo đoàn, không chạm vào hiện vật, đặc biệt là đầu rùa và
bia đá. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Dạ vâng thưa quý khách, chính giữa khu này, chúng ta có thể thấy một hồ
nước hình vuông có tên là Thiên Quang tỉnh (hay còn gọi là giếng Thiên
Quang). Thiên Quang có nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, phải
chăng người xưa có ý muốn hồ nước này có thể thu được mọi tinh hoa của đất
trời rồi như một tấm gương phản chiếu những tinh hoa ấy lên con người giúp
chúng ta thu nhận được những tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao
phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn.
Kính thưa quý khách, không phải ngẫu nhiên mà Khuê Văn Các được đặt
cạnh Thiên Quang tỉnh. Giếng Thiên Quang quanh năm đầy nước, mặt nước
bằng phẳng trở thành một tấm gương soi bóng gác Khuê Văn và những cây cổ
thụ trăm tuổi làm cho cảnh sắc càng trở nên thâm trầm, trang nghiêm. Đôi khi
gió thổi nhẹ mặt nước hơi gợn sóng lăn tăn, thì bóng gác Khuê Văn do đó cũng
lung linh lay động nhẹ nhàng, cảnh sắc cũng vì thế mà càng trở nên đẹp mắt.
Các bạn có thể nhìn thấy, nét mềm mại của cửa tròn Khuê Văn Các tượng trưng
cho trời, nét cứng rắn của giếng Thiên Quang tượng trưng cho đất. Tinh hoa trời
đất đều tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này.
Vô tình hữu ý, người xưa đã tạo nên một nét kiến trúc hài hòa giữa trời với đất,

hòa hợp với phong thủy tạo nên một nét đẹp cho Quốc Tử Giám.
Như hướng dẫn viên Ngô Thị Nga đã từng nhắc qua, Khuê văn còn có
nghĩa là chòm sao văn học. Giếng Thiên Quang phản chiếu và phát tán chòm
sao Văn học là tượng đài ca ngợi vẻ đẹp của văn chương, một nét đẹp tỏa sáng
rực rỡ soi bóng dưới giếng và duyên dáng thêm với sự điểm tô của vườn bia.
Đoàn ta có thể thấy, hai bên tả hữu lan can giếng được mở cửa xây bậc
xuống giếng. Tương truyền nếu lấy nước ở giếng này mài mực thì viết chữ sẽ
đẹp, thi cử sẽ đỗ đạt. Bởi vậy, chắc hẳn xưa kia, giếng Thiên Quang đã in bóng
bao nhiêu sĩ tử soi bóng xuống giếng để mong phần nào thu nhận được tinh túy
đất trời hay lưu giấu những chàng sĩ tử đến xin nước để mài mực.
Thưa quý khách, nói đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chúng ta không thể
không nhắc đến những tấm Bia tiến sĩ đã từ lâu được coi là những di sản văn
hóa vô giá - những trang sử bằng đá của cha ông ta để lại. Hơn nữa những tấm
bia này còn là một biểu trưng, là lời khuyến học hùng hồn nhất cho những kẻ sĩ,


sĩ tử thời xưa cho những học sinh, sinh viên hôm nay. Đây cũng là nơi phản ánh
rõ nét nhất nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt nam.
Vâng thưa quý khách, 82 bia đá đã ghi rõ họ tên, quê quán của 1.304 nhà
hiền triết khoa bảng (85 trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa; 283 hoàng giáp và
939 tiến sĩ) từ thời Lê sơ, Mạc và Lê Trung hưng, bia tiến sĩ có niên đại sớm
nhất năm 1484, thời Lê Thánh Tông ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442, bia đá có
niên đại muộn nhất ghi lại khoa thi năm 1779, dựng năm 1780. 82 bia đá này
chính là nguồn sử liệu quý giá, phản ánh về lịch sử giáo dục Việt Nam trong
suốt 300 năm.
Năm 1484, với chủ trương đề cao Nho học và tôn vinh bậc tri thức Nho
học đỗ đại khoa, vua Lê Thánh Tông (1406-1497) đã cho dựng 10 tấm bia tiến
sĩ đầu tiên tại Văn Miếu cho 10 khoa thi, tuy nhiên giờ chỉ còn 7 tấm bia. Trong
những năm tiếp theo các vua Lê, nhà Mạc và nhà Lê Trung hưng đã dựng tiếp
những tấm bia còn lại. Sang đến triều đại nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, kinh đô

được chuyển về Phú Xuân (Huế) nên bia tiến sĩ không được dựng ở Văn Miếu
nữa.
82 tấm bia Tiến sĩ còn tương đối nguyên vẹn được đặt hai bên phải trái
của Giếng Thiên Quang, mỗi bên dựng 41 tấm thành hai hàng ngang, mặt bia
đều quay về phía giếng. Các nhà sử học có thể tìm thấy ở đây những tư liệu quý
giá về lịch sử giáo dục, về những tên tuổi gắn bó với lịch sử dân tộc, quê quán,
danh tính những bậc nhân tài được ghi cụ thể, chính xác thông qua đó có thể xác
định được tuổi cho nhiều di tích ở nhưng nơi không có niên đại. Cũng vì thế,
năm 2010, UNNESCO đã chính thức công nhận 82 tấm bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, là Di sản tư liệu Thế giới. Những tấm bia này đều được đặt trên
lưng rùa bằng đá vững chãi, bền chắc mang ý nghĩa trường tồn, vĩnh cửu. Mai
Rùa phía trên tượng trưng cho bầu trời, giống như biểu tượng của mái vòm, phía
dưới bụng lại bằng phẳng như mặt đất. Rùa giống như một biểu tượng đầy đủ
của vũ trụ, biểu thị cho sự trường thọ.
Xưa kia Nữ Oa đã cắt 4 chân rùa để thiết lập bốn cực của thế giới. Còn
trong mộ phần của Hoàng đế, mỗi cây cột đều được dựng trên một mai rùa,...
Rùa trở thành một biểu tượng của sự trở lại trạng thái bắt đầu của vũ trụ.
Đến với Việt Nam, đến với kiến trúc của Văn Miếu - Rùa lại mang theo
tinh thần “trường thọ”, Rùa chính là một trong bốn linh vật: Long, Ly, Quy,
Phượng. Rùa sống lâu, có sức khỏe nên việc đặt bia trên lưng Rùa đá thể hiện sự
tôn trọng hiền tài và trường tồn mãi mãi.


Tất cả 82 bia tiến sĩ đều được chế tác theo một phong cách: bia dẹt, trán
cong, hình vòm. Cách thức dựng bia rất độc đáo: vật liệu bia là đá xanh được
tuyển chọn rất kỹ, việc tạo dáng và khắc bia cũng rất công phu, đòi hỏi nhiều
thời gian, công sức và kỹ năng chế tác. Vì vậy, mỗi bia Tiến sĩ là một tác phẩm
nghệ thuật độc đáo, trán bia, diềm bia, chân bia đều có những hình ảnh điêu
khắc tinh xảo, phản ánh sinh động cảnh sinh hoạt của người dân, hình ảnh bá
quan văn võ. Cho đến nay, phần lớn các hoa văn và văn tự còn rõ. Các bài văn
biết rõ ngày tháng dựng bia, tên người soạn bia, người dựng bia. Chữ viết trên

bia và đặc biệt ba phong cách trang trí trên trán bia phản ánh từng thời kì chế tác
chúng. Mô típ rồng chầu mặt nguyệt, theo Khổng giáo và Đạo giáo truyền
thống, thể hiện cho sự cân bằng giữa âm và dương trong vũ trụ, hoặc sự cân
bằng giữa trời và đất. Hoa văn hình mây thường biểu trưng cho kiến thức còn
hình chim phượng thể hiện các bậc trí thức.
Những tấm bia cổ nhất có niên đại từ thế kỷ XV đều có một hình mặt
nguyệt tròn nhỏ ở chính giữa, xung quanh là hình mây đơn giản và những dải
hoa văn. Còn những tấm bia ở thế kỉ XVI có hoa văn trang trí cách điệu hơn,
một mặt nguyệt to ở chính giữa, xung quanh là mây lửa. Trán bia cũng được
trang trí một dải hoa văn mỏng rất đẹp.
Bia ở cuối thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII có mô típ rồng chầu nguyệt được
chế tác tinh xảo hơn. Ở những tấm bia này, mặt nguyệt luôn có hai con rồng
được thể hiện rất dữ tợn chầu hai bên. Ở một vài bia đá, đuôi rồng hòa quyện
vào những đám mây. Có khi toàn thân rồng lại được lộ rõ. Một số bia còn có
hình cách điệu chim phượng và hoa lá lẫn trong mây, hoặc phía trên là những
dải hoa văn nhỏ hơn.
Nội dung của mỗi tấm bia như là một câu chuyện mở đầu có kết thúc với
ba phần: tiêu đề, bài ký, họ tên các Tiến sỹ và quê quán. Mỗi tấm bia tượng
trưng cho một khoa thi, là tư liệu lịch sử xác thực, ghi lại kết quả các kỳ thi từ
năm 1442 đến năm 1779, thuộc thời Lê sơ, Mạc và thời Lê Trung hưng (từ thế
kỷ XV đến thế kỷ thứ XVIII). Trong 1.304 tiến sĩ được khắc tên trên 82 bia đá,
có 225 vị từng được cử đi sứ sang Trung Quốc và các triều nhà Minh và triều
nhà Thanh. Lê Quý Đôn, đỗ tiến sĩ năm 1752, đã để lại nhiều ấn tượng khi thay
mặt triều đình đi sứ ở Trung Quốc. Ông đã tiếp xúc, giao lưu, trao đổi về văn
chương, học thuật với các học giả, nhà thơ Trung quốc và Triều Tiên. Tri thức
và tài năng của Lê Quý Đôn được các sứ thần Trung quốc và Triều Tiên ca
ngợi.


Tham quan khu bia đá, chúng ta cũng có thể tìm thấy tên tuổi của nhiều

danh nhân từng được nhắc đến trong sử sách Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ
Liên, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh,... là nguồn sử liệu quý giá giúp cho các
nhà sử học nghiên cứu về tiểu sử của các danh nhân Việt Nam.
Thưa quý khách, không phải dễ để có thể được khắc tên trên bia đá Tiến
sĩ ở Văn miếu quốc tử giám. Các thí sinh sau khi trải qua 4 kì thi Hội mới được
vào thi Đình. Thi Đình được tổ chức ở Hoàng Cung, do đích thân vua ra đề và
chấm duyệt lần cuối. Khoa đỗ ít nhất chỉ lấy 3 người, khoa đỗ nhiều nhất lấy 62
người. Người đỗ trẻ tuổi nhất là Trạng nguyên Nguyễn Hiền (khoa thi 1247) khi
mới 13 tuổi, người đỗ cao tuổi nhất là là Tiến sĩ Quách Đồng Dần (khoa thi
1634) khi đã 68 tuổi.
Không chỉ là nguồn sử liệu quý giá phản ánh giai đoạn lịch sử hơn 300
năm dưới triều Lê - Mạc, Bia tiến sĩ còn là bức tranh sinh động về việc tuyển
dụng và đào tạo nhân tài độc đáo dựa trên những bài ký thể hiện tư tưởng trị
quốc dựa vào nhân tài của cha ông ta. Chế độ quân chủ tập quyền Việt Nam thời
Lê rất trọng dụng nhân tài, coi “nhân tài là nguyên khí quốc gia”, là nguồn gốc
sự hưng thịnh của đất nước. Điều này được thể hiện rõ ở ngay tấm bia đầu tiên
(khoa thi năm 1442): “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế
nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng
thánh minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài.” Tấm bia năm
1448 lại nhắc nhở “Nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn.” và “Phải có đào
tạo sau mới có nhân tài”. Nhiều tấm bia sau này cũng nhắc lại ý “Nhân tài là
nguyên khí quốc gia”. Các vị vua nhà Lê, nhà Mạc đã dựa vào Nho giáo, sử
dụng tri thức của Nho giáo để đào tạo và tuyển chọn nhân tài. Tiêu chuẩn
“Hiền”, “Tài” để tuyển chọn cũng theo quan điểm của nho giáo. Nhà nước lấy
thi cử làm cách thức chủ yếu để tuyển chọn nhân tài. Năm 1484, vua Lê Thánh
Tông nhà Lê xuống chiếu: “Muốn có nhân tài trước hết phải chọn người có học,
phép chọn người có học thì thi cử làm đầu.” Bia các năm sau cũng nhấn mạnh
“phải vun trồng, bồi dưỡng nhân tài”. Những điều trên đây cho thấy rằng, chủ
trương phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực cho đất
nước là một chủ trương được coi trọng hàng đầu, cực kì quan trọng đối với bất

kì thời đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia cường thịng.
Bia Tiến sĩ có tác độn to lớn đối với người đương thời và hậu thế. Được
ghi tên trên bia đá đó là niềm khích lệ lớn đối với việc học tập, rèn luyện để trở
thành người có ích với đất nước và xã hội. Bia Tiến sĩ cũng là biểu tượng và
niềm tự hào của dân tộc. Đó là một tài sản văn hóa vô giá của dân tộc Việt Nam,


một biểu tượng tôn vinh đạo hiếu học, truyền thống đào tạo nhân tài bổ sung
nguyên khí cho đất nước.
Trên đây là phần trình bày của hướng dẫn viên về Thiên Quang tỉnh và
Bia Tiến sĩ Quốc Tử Giám. Tiếp theo xin mời hướng dẫn viên Phan Thị Thảo
tiếp tục giới thiệu cho đoàn ta về những điểm còn lại của Văn miếu - Quốc Tử
Giám.
Xin chào các bạn!
Vậy là chúng ta đã được nghe các bạn trong nhóm giới thiệu khá chi tiết
và đầy đủ về khu 1 khu 2 khu 3 của Văn Miếu và hiện tại chúng ta đang đứng
trước cổng Đại Thành Môn- thuộc khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, một
trong những di tích nổi tiếng nhất Hà Nội, như các bạn đã nói thi khu di tích
Văn Miếu – Quốc Tử Giám chứa đựng biết bao giá trị văn hoá, lịch sử, truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Ngày hôm nay, thật vinh dự và tự hào cho tôi khi
được hướng dẫn các bạn tham quan di tích này, Hướng dẫn viên thật sự mong
muốn rằng, qua chuyến tham quan hôm nay, tất các bạn sẽ có thêm những hiểu
biết về truyền thống hiếu học, văn hiến, về một công trình kiến trúc đẹp và tiêu
biểu của Việt Nam, và qua đó hy vọng sẽ để lại ấn tượng tốt đẹp trong các bạn
về dân tộc của chúng ta.
Và xin mời các các bạn theo tôi để cùng khám phá tiếp về Văn MiếuQuốc Tử Giám.
Như vậy chúng ta có thể thấy, 82 tấm bia tiến sĩ tại Văn Miếu, không
những chỉ có giá trị to lớn về lịch sử, mà chúng còn là những hiện vật vô cùng
quý giá về nền nghệ thuật điêu khắc nước nhà.
Thưa quý khách, chúng ta đang đứng trước cửa Đại Thành môn, hai cửa

nhà phía bên trái phải là Ngọc Chấn Môn và Kim Thành Môn. Bước qua cửa
này là đoàn chúng ta sẽ đến với khu thứ bốn của Văn Miếu Quốc Tử Giám. Ba
chữ Nho trên cổng có nghĩa là Đại Thành Môn đọc từ phải sang trái, hai hàng
chữ nhỏ khắc đọc là: “Lý Thánh Tông Thần Vũ Nhị Niên Canh Tuất Thu Bát
Nguyệt Phụng Kiến” nghĩa là tháng tám mùa thu năm Canh Tuất niên hiệu Thần
Vũ năm thứ hai đời Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu (1070). Bên trái là
“Đồng Khánh Tam Niên Mậu Tý Trọng Đông Đại Tu” có nghĩa là Tháng 11
năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3 đại tu. Bức Hoành Sơn là sản
phẩm của năm 1888 dương lịch chứng minh lần tu sửa lớn của Vua Đồng
Khánh nhà Nguyễn.


Cửa Đại Thành mang ý nghĩa là cửa của sự thành đạt lớn lao. “Đại
Thành” được lấy từ câu nói của Mạnh Tử khi đánh giá về Khổng Tử: “Khổng
Tử là tập Đại Thành” Khổng Tử người thành đạt, tập hợp học vấn, đức tốt của
các bậc thánh hiền. Các bạn đang đi trên khu vực thứ tư của Văn Miếu, dãy nhà
ngói múi hầu lớn ở trước đoàn ta là nhà Đại Bái Đường, nơi mà xưa kia các bậc
tế tửu, tư nghiệp cũng như người đứng đầu triều đình tới hành tế, dâng rượu để
khai thi, tạ ơn hoặc vào các ngày sóc, vọng. Hai dãy nhà phía bên trái và bên
phải cac bạn gọi là tả vu và hữu vu, như các bạn đang thấy, nơi đây đang dùng
làm nơi trưng bày và bán các đồ lưu niệm, nhưng trong quá khứ hai hãy nhà này
được dùng để thờ bái vị của Thất Thập Nhị Hiền.
Xin mời các bạn bước vào nhà Đại Bái Đường. Toàn bộ kiến trúc của toà
Đại Bái Đường mà chúng ta đang đứng mang phong cách thời Hậu Lê, tức là
đơn giản trong điêu khắc không quá cầu kỳ trong trang trí, ngói lợp theo kiểu
vẩy rồng cong nhẹ. Tay có đôi rồng chầu mặt nguyệt, gắn mảnh đồ sứ men màu
trên đỉnh bờ nóc là được làm vào thời Nguyễn. Toà nhà Đại Bái Đường này
gồm có 9 gian với 4 cột chống mái, hai gian đầu hồi mặt trước, mặt sau là cửa
gỗ chắn song con tiện, phía dưới là những bức phù điêu gỗ thời Lê khắc nổi
hình bay cao rất đẹp. Toàn bộ cột gỗ tàu trên mái được sơn son thiếp vàng hai

cột phía sau lưng quý khách được trang trí mới là vào năm 1994, 1995.
Như hướng dẫn viên đã nói đây là nơi tổ chức các nghi thức tế, lễ, nên
chính giữa Toà nhà Đại Bái Đường này có đặt một hương án lớn như các bạn
đang thấy để thờ vọng Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Mời quý khách nhìn lên
4 chữ nho lớn phía trên đọc từ phải qua trái là: “Vạn Thể Sư Biểu” bức hoành
phi này được làm vào năm 1888 trong lần tu sửa Văn Miếu, với ý ca ngợi Đức
Khổng Tử – ngài là một người thầy của môn đời. Xin mời đoàn ta hướng mắt về
bức Đại Tự phía Đông có khắc 4 chữ “Cổ Kim Nhật Nguyệt” với ý nghĩa tài
đức của người thầy cùng đạo học tại Văn Miếu này như ánh sáng muôn thuở
của vũ trụ soi chiếu, dẫn đường chỉ lối để người học trò đến với công thành
danh toại. Để tu thân, tề gia trị quốc bình thiên hạ. Trong nhà Bái Đường này
còn rất nhiều bức đại tự khác, với ý nghĩa ca ngợi công đức của Khổng Tử và
tên các tập sách lớn của ngài.
Đôi hạc mà quý khách vẫn gặp trong các đình chùa của nước ta, nay lại
được thấy ở đây, với đôi hạc dáng cao, chân trúc, miệng ngậm ngọc đứng trên
lưng hai con rùa, biểu thị sự hài hoà của trời đất khi úng khi cạn. Chắc chắn các
bạn đã được nghe truyền thuyết về đôi bạn: rùa và hạc rất thân nhau, rùa sống
dưới nước, mang tính âm, hạc sống trên cạn bay lên cao tượng trưng cho dương.


Tương truyền khi trời làm mưa lũ ngập lụt. Hạc không thể đứng mãi dưới nước,
nên Rùa đã giúp bạn mình vượt biển cả đến nơi khô ráo, ngược lại, khi trời hạn
hán, hạc lại đưa Rùa đến nơi có nước. Chính vì thế trang trí rùa, hạc… cổ nhân
muốn tôn vinh tình bạn với sự thiêng liêng trong tháng ngày dùi mài kinh sử
Chắc hẳn từ khi đặt chân vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám quý khách đã
nghe nhiều đến cụm từ: Tế Tửu và Tư Nghiệp, đó là chức vụ gì? Vâng Tế Tửu
và Tư Nghiệp là hai người đứng đầu của Văn Miếu, lo việc quản lý, tổ chức
hành lễ và giáo dục tại Văn Miếu. Hai tước hiệu này giống như hiệu trưởng và
hiệu phó tại các trường học ngày nay. Tuy nhiên qua thời gian, có khi Tế Tửu
và Tư Nghiệp đều được hiểu là một. Người đảm nhiệm hai tước hiệu này là

những người có đức, tài được kính trọng, có uy tín trong trường Giám, được vua
căn cứ vào học vị mà bổ nhiệm. Và khi đảm nhiệm tước vị này, vào ngày sóc,
vọng phải làm lễ dâng rượu lên Đức Khổng Tử, nên gọi là Tế Tửu.
Xin mời đoàn ta tiếp tục thăm quan toà thượng điện. Chúng ta đang đứng
trong toà thượng điện, một trong những vị trí thiêng của di tích này và nó gắn
với cụm từ Văn Miếu: nơi thờ Khổng Tử cùng các vị tiên hiền. Thượng điện
hay còn gọi là Đại Thành Điện gồm 9 gian, xây tường kín 3 mặt, kiến trúc cổ
chồng rường kẻ suốt, cửa bức bàn thượng song hạ bản đóng kín 7 gian giữa.
Toàn bộ toà Đại Thành này chạy song song với toà đại bái mà đoàn ta vừa tham
quan tạo thành kiến trúc chữ nhị, nó mang phong cách nghệ thuật thời Lê với 7
gian đơn giản, không trạm trổ cầu kỳ, đầu dao mũi cong lợp ngói mũi hài. Kiến
trúc kín, ít ánh sáng tạo nên vẻ thâm nghiêm, cổ kính của thượng điện.
Thưa các bạn pho tượng lớn ngồi với hai tay đan vào nhau ở trước ngực
là Khổng Tử. Phía sau của tượng có một ngai nhỏ, trong đó có đặt bài vị với
dòng chữ Hán: Đại thành chí thánh tiên sư thần vị – Khổng Tử. Tượng tạc ngài
ngồi trong, thế tay khoan thai của người thầy đang lắng nghe người dưới mình
trình bày, tâu bẩm một vấn đề gì đó.
Bốn tượng ngồi xung quanh là tứ thánh, 4 vị học trò xuất sắc nhất của
Khổng Tử. Phía bên trái của các bạn từ ngoài vào là Á thánh Mạnh Tử, Tông
thánh Tăng Tử, hai vị phái bên phải là: Thuật thánh – Tử Tư và Phục thánh
Nhan Tử. Phía xa về hai bên là bài vị của 10 vị hiền triết, những người học trò
xuất sắc của nho giáo, có công phát triển nho giáo.
Ta có cảm giá như đang dự một buổi giảng đạo của Đại Thành chí thánh
Khổng Tử với các học trò của mình: tượng của ngài tĩnh mà động, mà sâu lắng.
Khổng Tử ngài sinh vào năm 551 và mất vào năm 497 TCN. Tên là Khâu, tự là


Trọng Ni, sinh tại ấp Trâu, Khúc phụ – nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông
Trung Quốc.
Ngài là người thông minh, ôn hoà, ham học từ nhỏ, chưa đến năm 30 tuổi

đã nổi danh học vấn, học trò xa gần tới theo học ngày một đông.
Từ năm 54 tuổi, ông cùng học trò chu du nhiều nước, vừa học, vừa truyền
bá những hiểu biết của mình về Lễ – Nhạc – Xạ - Ngự – Thư – Số và thuyết
phục các nhà cầm quyền thi hành đường lối Đức Trị. Năm 68 tuổi ông trở về
nước Lỗ: viết sách, dạy học, học trò theo học có trên 3000 người. Ông mất năm
73 tuổi.
Khổng Tử đã biên soạn và san định ngũ kinh. Các sách do môn đồ biên
soạn ghi lại học thuyết của ông là Tứ Thư. Tứ Thư và Ngũ Kinh là những sách
kinh điển của Nho giáo.
Học thuyết của Nho giáo do Khổng Tử sáng tạo ra còn gọi là Khổng giáo
về cơ bản là một học thuyết về đạo xử thế của người quân từ, tu thân, tề gia, trị
quốc bình thiên hạ.
Chính vì để củng cố trật tự xã hội nho giáo đề ta Tam Cương và Ngũ
Thường. Tam Cương là 3 mối quan hệ chính: vua – hướng dẫn viên, cha – con,
chồng – vợ. Ngũ Thường là năm đức tính: Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín.
Khổng Tử là người hăng say và quyết tâm học tập “Không lấy làm xấu hổ
khi học hỏi người khác”. Thành tựu nổi bật nhất trong cuộc đời của ngài là cống
hiến cho sự nghiệp giáo dục. Ngài chủ trương “Hữu giáo vô loại” – mọi người
đều được học tập, không phân biệt giàu nghèo. Nên cũng với tư tưởng và tài
đức của mình Khổng Tử được tôn vinh là “Vạn thế sư biểu – người thầy của
muôn đời. Và được phong nhiều tước hiệu khác nhau như: “Bao Thành tuyên ni
công”. Năm 1307 gia hiệu là “Đại Thành chí thánh văn tuyên vương”, sau đổi
là: “Chí thánh tiên sư”, sau này gọi là “Đại thành chí thánh tiên sư”.
Tuy có những hạn chế song nho giáo mà Khổng Tử sáng lập ra đã góp
phần quan trọng trong việc tổ chức xã hội phong kiến có nề nếp, kỷ cương, dạy
con người quan hệ ứng xử, tu dưỡng đề có trách nhiệm với gia đình, xã hội…
Xin mới quý khách tạm chia tay với nhà thượng điện để sang khu nhà
Thái Học.



Và bài thuyết minh củ tôi đến đây là kết thúc, mời bạn Nguyễn Minh
Hiếu tiếp tục giới thiệu về khu nhà Thái Học cũng là khu cuối cùng của Văn
Miếu Quốc Tử Giám. Nếu các bạn có câu hỏi, xin mời các bạn cứ hỏi… và xin
các bạn thẩm nhận lại toàn bộ giá trị của khu di tích này theo cách riêng của
mình.
Vâng, vừa rồi là phần giới thiệu về điện Khải Thánh của bạn Thảo. Sau
đây xin mời cô và các bạn tham quan khu nhà Thái Học của di tích. Phía trước
chúng ta chính là nhà khu nhà Thái Học, hai bên chính là tả vu và hữu vu. Gian
đầu của nhà Thái Học chính là nơi triển lãm bia và trình diễn nhạc cụ dân tộc.
Gian trong là nơi thờ thầy Chu Văn An và ba vị vua có công xây dựng Văn
Miếu – Quốc Tử Giám. Và hai bên là tháp chuông và tháp trống. Vâng xin mời
cô và các bạn tiến vào gian trong, nơi thờ đức thầy Chu Văn An.
Nơi đây chính là nơi thờ vị đức thầy Chu Văn An. Thầy Chu Văn An sinh
năm 1292, mất 1370. Dưới thời nhà Trần, thời vua Trần Dụ Tông, trong trường
đã thành lập ra chức Tư nghiệp, tương đương với hiệu trưởng bây giờ. Thầy
Chu Văn An là người đầu tiên làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám. Thưa cô
và các bạn, dưới thời vua Dụ Tông này, ông không có trị vì đất nước, chỉ nghe
theo lời của các nịnh thần mà thôi. Làm sai trái, đưa ra những quyết định không
anh minh rất là nhiều nên vì vậy thầy Chu Văn An đã viết và dâng lên “thất
trảm sớ” chém đi 7 tên tội đồ của đất nước để mong sao cho đất nước thịnh
vượng. Nhưng vua không chịu tin nghe, do vậy ông đã cáo quan về quê ở ẩn,
lập nên một ngôi trường dạy rất nhiều những vị danh nhân nổi tiếng như Phạm
Sư Mạnh, Lê Quát. Do vậy nên khi ông mất đi rồi đã được nhà vua phong cho 4
chữ “Truyền kinh chính sử”, nghĩa là người thầy chuyên truyền về những giáo
lý hay nhất và một cách chân chính nhất. Vì vậy tên của thầy được đặt tên cho
nhiều ngôi trường, ví dụ trường Chu Văn An ở Hà Nội ta đây, rất nổi tiếng.
Vâng bên trái tay của em đây chính là bản đồ Văn Miếu xưa, công trình
rất là nhỏ bé đơn sơ. Đoàn chúng ta nhìn thấy có cổng Đại Trung Môn, Khuê
Văn Các, nhà bia, điện Khải Thành và phần toàn bộ phía dưới này, đây được gọi
là Quốc Tử Giám. Là trường học đầu tiên của nước Việt Nam ta. Đây là nới

thầy hiệu trưởng ở, dạy học, các học trò thì ở phía đằng sau. Nơi đây chỉ dành
cho Hoàng tử và các con quan đại thần mà thôi. Khi mà nhà Nguyễn di đô vào
trong Huế thì Quốc Tử Giám được mở rộng, trường Giám cũ ở phía sau Văn
Miếu lấy làm nhà Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.


Xin mời đoàn ta sang bên phải của em, bản đồ Văn Miếu ngày nay. Vâng
như đoàn ta thấy, phần này đổ xuống trên thì được gọi là Văn Miếu, phần này
đổ lên trên thì được gọi là Quốc Tử Giám. Theo luật phong thủy đoàn chúng ta
nhìn thấy ở nơi đây xây theo thế một mặt của một con rồng đang mở mắt. Ở
phía trước đây chính là hồ Văn. Hồ ở đây bao giờ cũng xây theo hình bán
nguyệt, không ít ai xây theo hình tròn. Tại sao ? Vì quan niệm của người ngày
xưa, trăng khuyết thì tương lai trăng sẽ tròn đầy và viên mãn. Nếu mà trăng tròn
thì trăng sẽ làm sao ạ ? Vâng trăng sẽ bị tàn. Vì vậy trăng khuyết thể hiện cho
sự viên mãn về sau. Phía trong của hồ đoàn chúng ta nhìn thấy một cái gò. Cái
gò này có tên là gò Kim Châu. Kim Châu có nghĩa là viên Châu bằng vàng được
con rồng ngậm trên miệng. Tiếp theo như bạn Linh đã giới thiệu, có 2 cái bia
Hạ Mã. Khi vua quan đến đây đều phải hạ kiệu, ngựa. Biểu tượng cho hai cái
râu của con rồng. Tiếp theo chúng ta đã đi qua cổng Văn Miếu Môn. Cái cổng
này như cái đỉnh mũi của con rồng. Sau hai bên có hai cái hồ biểu tượng cho hai
lỗ mũi của con rồng. Rồi tiếp tục đi qua cửa Đại Trung Môn, 2 bên có cửa
Thành Đức và Đạt Tài, tức hai mắt con rồng. Qau mắt con rồng chúng ta đi vào
phần trán , quan trọng nhất của con rồng. Nơi đây có hình ảnh của sao khuê,
được coi là tấm điểm khuyết trên bạch ngọc khuyết mà con rồng nào cũng có.
Phía trên trán của nó có điện Khải Thành. Nơi thờ đức Khổng Tử. Vì vậy quan
niệm ở nơi đây giống như con cá chép hóa được rồng. Còn phía đằng sau đây
chính là Quốc Tử Giám, trường học đầu tiên của đất nước Việt Nam chúng ta.
Và khi bị cháy ở bên kia rồi, sau đó chúng ta đã xây ra nhà này, được gọi là nhà
Thái Học vào năm 2000 để làm nơi thờ thầy giáo Chu Văn An.
Vâng xin mời đoàn ta tiếp tục di chuyển theo tôi. Đây chính là bảng vàng

ghi danh 46 vị trạng nguyên của Việt Nam ta trong Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Nhưng trong 46 vị trạng nguyên này chủ yếu là trong thời Lê và thời nhà Mạc.
Văn bia Quốc Tử Giám được ghi vào năm 1442, dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Nhưng trước đó khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Lê đã mở ra vào năm 1246 dưới
thời nhà Trần đã được ghi tên vào đây và kết thúc của nó vào năm 1736 dưới
đời nhà Lê Mạc. Người đầu tiên khai khoa chính là ông Nguyễn Quan Quang và
kết thúc là ông Trịnh Tuệ. Nhưng thưa đoàn ta, trước đó vào năm 1075, dưới
thời vua Lê Thánh Tông đã cho mở kì thi đầu tiên đó chính là kì thi Minh Kinh
Bác Học. Lúc đó chúng ta chưa được gọi là trạng nguyên mà chỉ lấy người đứng
đầu là Thái học sinh. Do vậy người đầu tiên khai khoa năm đó là ông Lê Văn
Thịnh chính là người con của quê hương Bắc Ninh không được ghi trên văn bia
Quốc Tử Giám. Vâng thưa cô và các bạn, trong tổng 46 vị trạng nguyên đây có
20 người đều cùng một quê hương, được coi là đất học của miền Bắc. Đó chính


là Bắc Ninh. Bắc Ninh họ tự hào rằng quê họ có một “một giỏ ông Đồ, một bồ
ông Cống, một đống ông Nghè, một bè Tiến sỹ, một bị Trạng nguyên, một
thuyền Bảng nhãn”. Bắc Ninh được coi là một trong những tỉnh có nhiều tiễn sĩ
nhất. Người đầu tiên được ghi vào trong đây là người Bắc Ninh và người kết
thúc cũng là người Bắc Ninh. Ngày xưa đi thi bắt buộc phải trải qua 3 kì thi
Hương, Hội, Đình. Thi Hương là thi trong tỉnh lấy được ông Hương Cống, sau
đó sẽ lấy ông Tú tài. Vì vậy ông Tú Xương ông đi thi 3 lần chỉ đậu Tú tài mà
thôi. Vì vậy người ta gọi ông là Tú tài tam trường. Và cuối cùng là thi Đình, nhà
vua tự ra đề. Thi Đình sẽ lấy ra được 3 giáp người đứng đầu là trạng nguyên,
tiếp là bảng nhãn, thứ ba là hoa thám. 3 giáp đầu đều được ghi trên văn bia của
Quốc Tử Giám được gọi chung là các vị tiến sĩ. Sang triều Nguyễn, do tứ bất
lập thời Nguyễn : không đặt chức tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không
lập hoàng hậu và không phong đông cung. Do vậy dưới triều nguyễn không có
chức trạng nguyên. Năm 1904, cụ Nguyễn Sinh Sắc sau lần thứ hai đi thi đã thi
đậu phó bảng, tức là chỉ đúng sau người đầu tiên thôi. Vì vậy người ta gọi cụ là

Phó bảng tiến sĩ, đó chính là cha của chủ tịch Hồ Chí Minh. Phía trên cao chúng
ta có nhìn thấy một tấm bảng có tên Lý ngư vượt vũ môn. đó chính là hình ảnh
người sĩ tử đi thi vượt qua tấm cửa để hóa thành rồng. Và bên kia chính là tấm
bảng có tênVinh quy bái tổ. Đây là hai tấm bảng thể hiện sự danh giá của nho sĩ
ngày xưa.
Vâng xin mời đoàn ta đi lên phái trên tầng 2. Đây chính là nơi thờ 3 vị
vua có công lớn xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám. Tượng của ba vị vua đều
được đúc bằng đồng từ bàn tay của các nghệ nhân làng Ngũ Xã Hà Nội trong
dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội. Mỗi pho tượng cao 1,4 m, nặng 1
tấn. Tác giả là hai hoạ sĩ Nguyễn Minh Vũ và Nguyễn Văn Dong. Vua Lý
Thánh Tông là người có công khai sáng cho nền giáo dục Nho Học ở Việt Nam,
đánh dấu bằng sự kiện xây dựng Văn Miếu vào năm 1070. Vua Lý Nhân Tông
cho mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam và lấy đỗ vị trạng
nguyên đầu tiên của đất nước là trạng nguyên Lê Văn Thịnh. Năm 1076, Lý
Nhân Tông đã cho xây Quốc Tử Giám- trường đại học đầu tiên của đất nước. Vị
vua thứ 3 là vua Lê Thánh Tông. Bên cạnh việc tu bổ tôn tạo Văn Miếu Quốc
Tử Giám, Lê Thánh Tông còn có công khởi lập hệ thống văn bia tiến sĩ.
Vâng xin mời đoàn ta di chuyển ra lan can. Vâng hai bên chính là hai
tháp chuông và tháp trống. Theo tục xưa, tiếng chuông, tiếng trống là tiếng tập
hợp các học trò khi thầy có việc cần hoặc để báo giờ nghỉ. Vâng, vậy là chúng
ta đã tham quan hết khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.Hy vọng đoàn ta đã


hiểu được lịch sử của Văn Miếu, cách thức thi cử xưa cũng như tầm quan trọng
của thi cử trong thời đại phong kiến xưa. Xin thay mặt cho nhóm Văn Miếu xin
chúc sức khỏe đoàn ta và gia đình. Chúc cho đoàn ta có một chuyến tham quan
vui vẻ, tìm hiểu được nhiều kiến thức. Và nếu còn thời gian, quý đoàn có thể
tham quan khu di tích Hoàng thành Thăng Long, quảng trường Ba Đình- lăng
chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo tàng dân tộc học… Vâng xin chào và tạm biệt.



×