Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

11 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.62 KB, 38 trang )

VĂN MẪU 11: CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – NGUYỄN TUÂN
11 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG CHỮ
NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN”

BÀI SỐ 1:

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác của
ông chia thành hai giai đoạn trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám.
Trước cách mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang bóng một thời-trụy lạcxê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kiệt xuất trước cách mạng tháng
Tám, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn Cao, một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng
thắn.
Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều
đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt
của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. ĐỐi với thầy thơ
thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quàn ngục thì Huấn Cao là
người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy,
Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm
lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn. Bằng ngòi bút tài
hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng
đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như
chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. KHông cần hành động
nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.
Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến
mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất
đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ như vậy. CHữ của ông
như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật


báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở
hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Caop đẹp và
vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có


cái tâm rất trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép
mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực
sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.
Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta
cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ
sĩ đáng trọng như Huấn Cao. Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ
những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết
được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu
mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui
thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của
các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý
như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ
“phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén
được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối
sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.
Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó
quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ
diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp,
thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái
đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá
muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh
Huấn Cao vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh
đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn
Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh khi gấp trang sách


lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ,
lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với
cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng anh hùng như vậy. Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai

phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không
thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì
hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.
Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc
của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa
chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.


BÀI SỐ 2:

Năm 1940, tập truyện “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời thể
hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo, giàu màu sắc lãng mạn. Nó gồm có 12 truyện, nhân
vật chính phần lớn là các nhà nho, những kẻ sĩ một thời “vang bóng”. “Chữ người tử tù”
là một trong những truyện ngắn đặc sắc trong tập “Vang bóng một thời”.
Truyện chỉ có ba nhân vật xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ diễn ra trong
nhà giam tử tù. Bên cạnh viên quản ngục, thầy thơ lại là nhân vật Huấn Cao – một tử tù –
có khí phách hiên ngang, rất tài tử, đến chết vẫn coi trọng thiên lương – đã được nhà văn
Nguyễn Tuân xây dựng và miêu tả một cách tài hoa, độc đáo, đầy ấn tượng.
Huấn Cao là một kẻ sĩ dám xả thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía nhân dân
để chống lại triều đình phong kiến mục nát đương thời, trở thành “người đứng đầu bọn
phản nghịch”. Trong tâm hồn quản ngục thì Huấn Cao là một con người “chọc trời quấy
nước” coi thường cường quyền bạo lực, “chẳng biết có ai nữa” trên đầu mình. Với thầy
thơ lại thì Huấn Cao “văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Với bọn lính thì Huấn Cao là “thủ
xướng”, “hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn”. Cách nhìn nhận ấy của ngục
quan, của viên thơ lại, của bọn lính đều cho thấy Huấn Cao là một lãnh tụ của cuộc khởi
nghĩa nông dân, tiếng tăm lừng lẫy; khi trở thành tử tù vẫn được người đời khâm phục
hoặc kinh sợ! Nguyễn Tuân miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim dài đến tám thước, nặng đến
bảy tám tạ “đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn”, miêu tả cái “dỗ gông” với “một trận
mưa rệp” trước cửa ngục và trước mũi bọn lính, điều đó cho thấy Huấn Cao và các đồng
chí của mình vô cùng hiên ngang, bất khuất, coi thường mọi nhục hình, đày đọa, trước

cái chết vẫn ngẩng cao đầu! Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí
phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có
một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Chỉ bằng một vài chi tiết nghệ thuật rất
chọn lọc về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài lời nhận xét bình phẩm,
Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công tinh thần “đại vô úy” của Huấn Cao. Nét vẽ chân
dung của Nguyễn Tuân rất độc đáo và có thần!


Huấn Cao là kẻ sĩ tài tử, tài hoa được nhiều người mến mộ “cái người mà vùng
tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”… Chữ của ông Huấn là “một báu
vật trên đời”, tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý trong thiên hạ. Quản ngục cũng là một
người có học đã “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Đã từ rất lâu, “từ những ngày nào,
cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một
câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Huấn Cao
là một khách tài tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp mà còn có một tâm hồn thanh
cao, trong sạch. Ông tự biết “chữ thì quý thật”, nhưng không bao giờ “vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Điều đó cho thấy, Huấn Cao đi “làm giặc” không
phải “mưu bá đồ vương” mà chính là để “cứu vớt dân đen đang đói khổ”; chữ là một thứ
“vật báu” nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu sang. Đúng, “tính
ông vẫn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Huấn Cao vừa có tài vừa có cái tâm
đẹp.
Là một khách tài tử, Huấn Cao coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ, mến mộ những con
người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ai đã từng được ông Huấn tặng chữ?
“Nhất sinh” ông mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường để tặng ba người bạn
thân. Và ai đã được ông Huấn Cao cho chữ? Khi chưa hiểu “lòng dạ” quản ngục thì ông
Huấn nặng lời “cố ý làm ra khinh bạc đến điều”. Nhưng khi qua lời thỉnh cầu viên thơ lại,
ông Huấn biết quản ngục là một con người rất yêu quý cái đẹp, khao khát có “ chữ” để
“treo ở nhà riêng mình” thì ông đã xúc động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài
của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích
cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Trước lúc

bước ra pháp trường, Huấn Cao đã cho chữ quản ngục, đó là một nghĩa cử. Trên bình
diện “phép nước”, quản ngục và tử tù là đối địch, nhưng trên lĩnh vực nghệ thuật thì hai
người lại là tri âm. Khách tài tử không thể nào “phụ một tấm lòng trong thiên hạ” là vậy.
Vượt qua được cái đáng sợ của “phép nước”, phá tan được hàng rào vị thế hiện tại trong
xã hội, Huấn Cao và quản ngục đã trở thành đôi bạn tri âm, giữa tài tử và người liên tài.
Sức mạnh nghệ thuật hay ánh sáng tâm hồn kẻ sĩ đã tạo nên sự kì diệu ấy?


Cảnh cho chữ là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” đã làm cho bức chân
dung nhân vật Huấn Cao, ngục quan, thầy thơ lại trong cảnh tượng ấy, vô hình trung đã
trở thành tương tri, tương thân, tâm đắc trong việc sáng tạo cái đẹp. Ánh sáng đỏ rực của
bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối
ngục thất đầy mãng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc
hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ
đeo gông, chân vướng xiềng, tử tù vung bút viết “những nét chữ vuông vắn rõ ràng”.
Thật là đĩnh đạc, đàng hoàng, sau khi “đề xong lạc khoản”, Huấn Cao khen mùi mực
thơm, “thở dài” đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy, nói: “… Tôi bảo thực đấy,
thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ
thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Hình
ảnh quản ngục “nước mắt rỉ vào kẽ miệng” vái tử tù một vái, nghẹn ngào nói: “Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh” đã làm cho hình ảnh Huấn Cao trở nên kì vĩ. Sắp bước lên đoạn
đầu đài vẫn quyết giữ vững thiên lương. Kẻ “làm giặc” không thể có cái tâm thế ấy. Huấn
Cao là một anh hùng!
“Văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc
Phan). Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc. Hầu như không có chi tiết
nghệ thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai lịch, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động… của nhân vật
được tác giả lựa chọn rất “đắt” làm hiện lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử
tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên
hạ. Từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ 19, gắn liền với những giai thoại, những câu đối:
“Một chiếc cùm lim chân có đế – Ba vòng xích sắt bước thì vương”…, Nguyễn Tuân đã

sáng tạo nên một hình tượng văn học Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Văn
học lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến chỉ có một hình tượng Huấn Cao đẹp bi tráng như
vậy.
Xây dựng nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân vừa
biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa, độc
đáo tuyệt vời. Ngoài việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện “Chữ


người tử tù” còn hàm chứa một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại,
khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể hủy
diệt được. Cái đẹp của tài hoa, cái đẹp của thiên lương đã làm lung linh nhân cách kẻ sĩ
Huấn Cao, để chúng ta ngưỡng mộ. Thấm thía biết bao bài học thiên lương ở đời. Sống vì
thiên lương. Và chết cũng giữ trọn thiên lương. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn kiệt
tác lung linh vẻ đẹp thiên lương.


BÀI SỐ 3:
Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu nhất trong tập truyện Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân. Lúc đầu tác phẩm có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp
chí Tao đàn. Sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời, và đổi tên là Chữ
người tử tù. Nhân vật Huấn Cao là nhân vật được lấy nguyên mẫu từ ông Cao Bá Quát
dạy học đất Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước. Nhưng nguyên mẫu của xã hội
xứ Đoài thời ông Huấn lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang diễn ra trước mắt
Nguyễn Tuân. Lấy nguyên mẫu từ người anh hùng thời đại Cao Bá Quát để xây dựng
nhân vật Huấn Cao, tác giả nhằm ca ngợi những nhà nho tài hoa, đức độ. Chính vì vậy
mà nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm Chữ người tử tù vừa là người có tài, vừa
là người có tâm lại vừa là người có khí phách. Trước hết, Huấn Cao là một người có tài
viết chữ nhanh và rất đẹp. Ngay ở đầu tác phẩm, qua câu hỏi của viên quản ngục, nhân
vật Huấn Cao đã là người nổi tiếng: “Tôi nghe ngờ ngợ Huấn Cao? Hay là cái người mà
tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Ông nổi tiếng đến

mức cả một tỉnh rộng lớn đều biết về tài của ông. Ông được mọi người hết sức kính nể.
Tại sao Huấn Cao lại được mọi người kính nể chỉ vì viết chữ nhanh và đẹp? Bởi vì viết
chữ đẹp, thưởng thức chữ đẹp là một thú chơi thanh tao được mọi người yêu thích. Mà
“chữ của ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có
một vật báu trên đời”. Quả thực, Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật thư
pháp. Huấn Cao được biết đến còn bởi “ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá
và vượt ngục” Huấn Cao “văn võ đều có tài cả”. Huấn Cao còn là người có cái tâm trong
sáng. Ông là một nghệ sĩ chân chính, có nhân cách, biết tự trọng. Ông luôn đặt chữ tâm
lên trên chữ tài, trên bạc vàng. Ông đã từng nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Ông chỉ cho chữ những” người bạn tri ki,
biết yêu cái đẹp và biết trân trọng cái đẹp. “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một
bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Như vậy, viết chữ đẹp không chỉ
thể hiện tài năng của Huấn Cao mà còn thể hiện một triết lí sống, một quan niệm sống
cao đẹp của nhân vật này. Ngoài ba người bạn thân thì người thứ tư được Huấn Cao cho
chữ lại là viên quản ngục. Một thời gian sống trong nhà ngục, Huấn cao đã nhận thấy một


tấm lòng cao đẹp, có đức của viên quản ngục giữa chốn tội ác. Ông nhận thấy viên quản
ngục là người hiểu cái đẹp, biết yêu và trân trọng cái đẹp. “Nào ta có biết đâu một người
như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ
mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cái tâm trong sáng của Huấn Cao còn thể hiện qua lời
khuyên đối với viên quản ngục: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này
không phải để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái
hoài bão tung hoành của đời một con người”. “Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy
hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên
lương cho lành vững rồi cũng đến lem luốc cái đời, lương thiện đi”. Như vậy, Huấn Cao
là biểu tượng cho cái đẹp, cái tâm, cái đức, cho lối sống đẹp. Huấn Cao là người anh
hùng đầy khí phách, hiên ngang trước uy quyền và bạo lực. Không chịu sống cảnh “cá
chậu chim lồng”, “vào luồn ra cúi” nên ông đã tham gia khởi nghĩa cùng nông dân
chống lại triều đình. Huấn Cao bị bắt và bị xử chém. Khí phách của ông trước hết thể

hiện ở thái độ lạnh lùng và hành động cương quyết của ông khi vừa được đưa đến nhà
ngục. Mặc cho những tên lính áp giải nói gì, “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng,
khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Phải là
người có bản lĩnh, quyết đoán, tự chủ trước cường quyền, Huấn Cao mới có được hành
động như vậy. Trong những ngày ở tù, ông luôn làm chủ bản thân, không luồn cúi. “Suốt
nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem
rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên
nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam
cầm”. Thậm chí, ông còn có thái độ khinh bạc đối với viên quản ngục. Khi viên quản
ngục hỏi ông xem ông có cần thêm gì thì cho viên quan ngục biết, ông đã thẳng thắn trả
lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào
đây”. Quá thực, đó là một thái độ khinh bạc đến điều.“Ông Huấn đã đợi một trận lôi
đình và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém ông còn
chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao rất cứng cỏi, không dễ dàng
bị mua chuộc. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao được bộc lộ một cách sáng chói, rực rỡ
trong cái đêm ông cho chữ viên quản ngục. Cảm hứng mãnh liệt trước một cảnh tượng


“xưa nay chưa từng có” đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo những ngôn từ vừa sắc
sảo, góc cạnh, vừa trang trọng cổ kính, sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu
sức truyền cảm. Bút pháp dựng người, dựng cảnh của nhà văn đạt tới mức điêu luyện.
Những nét vẽ của ông như khắc, như chạm, giàu giá trị tạo hình. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp
trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Cảnh
cho chữ là “một cảnh xưa nay chưa từng có bởi vì: Việc cho chữ là một việc thanh cao,
một sáng tạo nghệ thuật.Việc này thường chỉ xảy ra khi người ta nhàn tản và địa điểm
diễn ra việc cho chữ thường ở thư phòng. Vậy mà ông Huấn Cao lại cho chữ trong một
căn buồng tối tăm chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám của nhà tù “tường đầy mạng nhện, đất bừa
bãi phân chuột, phân gián”. Cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, dơ bẩn; thiên
lương cao cả lại toả sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và tội ác đang ngự trị. Cảnh cho chữ
diễn ra trong một nghịch lí. Thứ nhất, người cho chữ là người không được tự do mà là

một kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” và chỉ sớm tinh mơ ngày mai bị giải vào
kinh để chịu án tử hình. Còn người xin chữ lại là người đại diện cho chế độ nhà tù của
giai cấp thống trị. Thứ hai, người cho chữ thì đang viết như “rồng bay phượng múa” trên
tấm lụa bạch, còn người xin chữ thì “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ
đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực”. Thứ ba,
trật tự kỉ cương trong nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn: tù nhân trở thành người ban phát cái
đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm lạy tù nhân. Nguyễn Tuân đã xây
dựng được tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với viên quản ngục và
thơ lại. Cuộc gặp gỡ của một người tử tù với những kẻ có nhiệm vụ trông coi ngục tù.
Nhưng đó cũng lại là cuộc gặp gỡ giữa những người biết yêu, biết trân trọng cái đẹp. Như
vậy, giữa chốn ngục tù tàn bạo, nhân vật Huấn Cao hiện lên với tất cả vẻ đẹp về tâm hồn,
tính cách. Ông là người có tài viết chữ đẹp, là người có cái tâm trong sáng và là người có
khí phách hiên ngang. Nguyễn Tuân thật tài tình khi tạo dựng được tình huống truyện độc
đáo và khắc hoạ rất thành công nhân vật Huấn Cao. Nhân vật Huấn Cao đại diện cho cái
đẹp, cái tốt, cái thiên lương. Hơn nữa ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu
chất tạo hình. Không sử dụng nhiều từ Hán Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của


người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp “Vang bóng một thời” ở hình tượng Huấn Cao. Vì vậy,
dẫu cho ông Huấn Cao phải từ giã còi đời nhưng nhân cách của ông thì bất tử.


BÀI SỐ 4:

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân - thiện - mĩ, người ta
thường nhắc tới Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là
một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng
tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và
tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Có lẽ, ai
đọc tác phẩm "Chữ người tử tù" đều rung động cảm phục trước vẻ đẹp của người anh

hùng Huấn Cao.
Truyện kể về nhân vật Huấn Cao - một kẻ cầm đầu bọn phản loạn dám đứng lên
chống lại triều đình. Khi bị bắt giam ở nhà tù tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm lòng viên
quản ngục ông đã đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tình
huống truyện vô cùng độc đáo. Huấn Cao là người cho chữ nhưng lại là tử tù chờ ngày ra
pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ nhưng đồng thời lại là người quản lí trại
giam nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc gặp gỡ đã tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi
bật lên vẻ đẹp rạng ngời của nhân vật Huấn Cao.
Trước hết để xây dựng hình tượng Huấn Cao, tác giả lấy nguyên mẫu hình tượng
Cao Bá Quát ngoài đời - môt con người mà ông hằng yêu mến kính trọng. Cao Bá Quát
đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài, có đức, văn hay chữ
đẹp, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền. Phải chăng,
Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá
Quát, khái quá lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa quyện với cái
đẹp của khí phách. Dưới ngòi bút tài hoa và bút pháp lãng mạn, Nguyễn Tuân đã xây
dựng lên một nhân vật lí tưởng, vì vậy nhân vật này đẹp nhất trong thế giới nhân vật
"Vang bóng một thời". Khi nói về Huấn Cao , nhà văn không đi vào miêu tả lai lịch xuất
thân mà bằng cách miêu tả gián tiếp để dựng lên chân dung nhân vật. Đây là một cách
miêu tả "vẽ mây nảy trăng". Cái tài của Huấn Cao được xác nhận khi quản ngục vừa nhận
được phiến trát nói về người tù sẽ đến đề lao của mình " Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao?


Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó
không?" Quản ngục biết rằng chữ của ông Huấn " đẹp lắm, vuông lắm", "Có được chữ
ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Qua đó, ta cũng thấy được thái độ trân
trọng của tác giả với những bậc tài hoa và nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc.

Bên cạnh tài viết chữ đẹp Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục để trở về với
cuộc sống tự do. Như vậy Huấn Cao trở thành mối đe dọa cho bất cứ trại giam nào có
vinh hạnh được giam giữ ông. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão

tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất
cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một
anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để
vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến ấy thì Huấn Cao
hiện lên là một anh hùng sa cơ lỡ vận. Nhưng người anh hùng này không giống những
người anh hùng sa cơ lỡ vận khác mà ta đã bắt gặp trong thơ của Nguyễn Du khi nói về
người anh hùng Từ Hải: " Hùm thiêng gặp bước sa cơ cũng hèn " và lại càng không
giống tâm trạng con hổ trong bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ. Với Huấn Cao những ngày
cuối cùng trong cuộc đời ông lại ngời lên khí phách của một đấng trượng phu, của một
người anh hùng. Điều đó được thể hiện ngay trong tác phẩm khi ông được dẫn đến đề lao
bằng hành động " chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền
đá tảng đánh thuỳnh một cái". Hành động đó thể hiện cái uy của ông đối với những
người bạn tù trước sự phản ứng và tuân thủ của họ đồng thời thể hiện thái độ khinh bạc
của mình đối với bọn lính áp giải bởi bọn chúng cũng chỉ là hạng người tiểu lại giữ tù mà
thôi.
Suốt nửa tháng ở trong trại giam tỉnh Sơn, ông đã được thầy trò viên quản ngục
biệt đãi, đáp lại ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt và coi đó là cái hứng lúc sinh bình.
Sau nửa tháng thì Huấn Cao mới đối mặt với viên quản ngục. Trước sự lễ phép của viên
quản ngục, Huấn Cao đã đáp lại rằng: " Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều.
Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây ". Nó thể hiện thái độ rất khinh bạc của Huấn Cao


đối với viên quản ngục. Cố ý sỉ nhục viên quản ngục trong lời nói và trong cách xưng hô
"ta- nhà ngươi" thì ông sẵn sàng chờ đợi một trận lôi đình, báo thù và những thủ đoạn tàn
bạo của ngục quan - những trò đánh đập như cơm bữa của các trại giam lúc bấy giờ.
Nhưng với ông cái chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thi oai này.
Qua những hành động lời nói ta mới thấy được khí phách của một người anh hùng coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng câu chuyện lại làm cho người đọc cảm thấy bất ngờ khi
viên quản ngục lại lễ phép lui ra lại còn hậu đãi ông và năm người bạn của ông hơn trước
nữa. Và chính vì thế nó khiến cho tình huống truyện thêm kịch tính hơn nữa. Với Huấn

Cao bền ngoài thì thản nhiên như thế nhưng bên trong ông lại đặt ra rất nhiều câu hỏi để
lí giải cho sự biệt đãi bất thường, sự tươm tất ấy của viên quản ngục, bởi vì tất cả đã khai
bên Ti niết rồi, hay viên quản ngục còn muốn thăm dò hay muốn đo lòng người hay sao...
Nhưng đến khi hiểu được nỗi lòng và những sở nguyện cao quý của viên quản ngục rồi,
trong tư thế "cổ đeo gông, chân vướng xiềng" thì ông cho chữ viên quản ngục. Vậy phải
có khí phách của người anh hùng thì ông mới có phong thái ung dung như thế.
Nếu chỉ thấy tài hoa và khí phách của Huấn Cao thì hình tượng nhân vật Huấn Cao
sẽ thiếu đi sự gần gũi đối với mọi người. Nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa một nét
phẩm chất nữa là Huấn Cao có thiên lương trong sáng. Một con người bao dung độ
lượng, trọng nghĩa khinh tài khiến cho Huấn Cao đẹp như một nhân vật huyền thoại và
điều đó được tác giả thể hiện trong hoàn cảnh éo le nhất khi mà kịch tính của câu truyện
được đưa lên đỉnh điểm. Đó là vào một buổi chiều lạnh, ngục quan nhận được công văn
của quan Hình bộ Thượng thư rằng sẽ bắt giải Huấn Cao và những người bạn của ông
vào kinh lãnh án vào sáng sớm hôm sau. Trong khi viên quản ngục lặng người đi thì
Huấn Cao lại lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Ông suy nghĩ về tấm lòng về sự biệt đãi của
thầy trò viên quản ngục đối với mình suốt một tháng qua và ông mỉm cười - cái nụ cười
bao dung và độ lượng, để bằng lòng cho chữ viên quản ngục. Trước đây ông chỉ bằng
lòng cho chữ những người bạn tri kỉ của mình nhưng ông lại bằng lòng cho chữ viên
quản ngục như đang lấy tấm lòng của mình đáp lại tấm lòng của thầy Quản. Vì vậy ông
nói mà như......................." Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có


những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên
hạ". Chính vì vậy Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “dậm tô từng nét chữ trên
vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa
vào từng nét chữ. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự
do nhất, sống động nhất. Vẻ đẹp đó đã làm cho viên quản ngục "khúm núm cất những
đòng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng". Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì
"run run bưng chậu mực". Cái tư thế ấy cho thấy viên quản ngục và thầy thơ lại cảm thấy

mình thật nhỏ bé trước một nghệ sĩ tài hoa, một con người có khí phách anh hùng, một
con người không vì vàng bạc mà ép mình cho chữ, một con người mà đến cảnh chém
chết còn không sợ nhưng lại sợ "phụ một tấm lòng trong thiên hạ".
Nhân vật Huấn Cao hiện lên với ba phẩm chất là một con người có tài hoa, khí
phách và có thiên lương trong sáng, là một người anh hùng có trí có dũng có tâm. Qua
đó, nhà văn muốn gửi gắm quan niệm về cái đẹp thông qua nhân vật này, đó là: con
người lí tưởng trước hết là con người có tài có tầm cao văn hóa và biết làm đẹp cho đời
bằng cái tài của mình. Cái tài phải đi song song với bản lĩnh khí phách. Thế nhưng con
người có tài có khì phách chưa đủ mà còn phải có cái tâm trong sáng. Nhà văn Nguyễn
Tuân rất coi trọng chữ "tâm" coi trọng thiên lương của mỗi con người. Đúng như nhà văn
Nguyễn Du đã viết:" Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Cho nên với nhân vật Huấn Cao - một con " Nhất sinh đê thủ bái mai hoa " (cả đời
chỉ biết cúi đầu trước vẻ đẹp của hoa mai ) nhưng vì có thiên lương trng sáng nên rất
nâng niu, cảm kích, trân trọng trước tấm lòng "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" của
viên quản ngục, sống giữa cái xấu xa cái ác mà vẫn hướng thiện. Không những thế Huấn
Cao còn dàng cho viên quản ngục những lời khuyên rất chân thành: " thầy Quản nên tìm
về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi
chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện đi." Nó giống như lời khuyên bảo của cha ông xưa: " đói cho sạch, rách cho
thơm", dù ở bất kì nơi đâu cũng phải giữ cái đạo làm người.


Với Nguyễn Tuân cái tâm luôn là gốc rễ của nhân cách là điểm xuất phát cũng là
nơi đi đến của tài năng và khí phách con người. Đồng thời, nó còn có giá trị gợi lại nét
bẳn sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mai một và khẳng định
phẩm chất trong sáng của con người:
"Bần tiện bất năng di
Phú quý bất năng dâm
Uy vũ bất năng khuất"
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người mang những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy

bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi,Huấn Cao dưới ngòi bút
của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy những
cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những
hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời
phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp
chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh
hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với
việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn.
Có thể nói "Chữ người tử tù" với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn
ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng
đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc
nhiều thời.


BÀI SỐ 5:

Nguyễn Tuân với những trang anh hùng dũng liệt hiện lên dưới một 1 lớp ngôn
ngữ dân tộc thuần khiết và chuẩn mực, luôn cố gắng hết sức mình để làm sống dậy một
thời quá khứ rực rỡ. Và dường như cảm thấy mình không đủ sức. Nguyễn Tuân kéo cả
những nhân vật của mình theo khuynh hướng ấy. Đó là trường hợp của viên quản ngục
trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” (trong tập Vang bóng một thời).
Quản ngục: không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng không
mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu (Bữa rượu máu). Con người đó
là một hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp. Dưới ngòi bút tài hoa của một
bậc thầy về ngôn ngữ, hình ảnh trung gian ấy cũng mập mờ, không có ranh giới rõ rệt.
Thoạt nhiên, viên quản ngục có vẻ như là một con người cam chịu, yên phận và cũng
chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương thời: “Chuyện triều đình quốc gia chúng ta
biết gì mà bàn bạc cho thêm lời". Cái khuôn khổ phong kiến, cái “phép nước” đã khiến
quản ngục quen với việc nhận tù, giao tù, với "những mánh khóe hành hạ thường lệ”.

Những lúc ấy, viên quản ngục cứ lạnh lùng như một cỏ may, ngoan ngoãn như một tên nô
lệ trung thành với vai trò cùa mình.
Nhưng có ai ngờ, bên trong con người đó vẫn luôn tồn tại một mầm sống tươi
xanh của cái đẹp. Cái mầm ấy bị đè bẹp nhưng vần khắc khoải sống như chờ đợi một lúc
nào đó được vươn lên. Rồi thời điểm đó cũng đến. Huấn Cao, con người văn võ song
toàn xuất hiện với “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Quản ngục bắt đầu rơi vào một
tâm trạng hết sức khó xử. Một sự đấu tranh âm thầm trở thành nét tiêu biểu cho quản
ngục suốt truyện mà cũng chính là biểu hiện tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện mà cùng
chính là biểu hiện tiêu biểu cho tính “hướng nội” mỗi chúng ta thường bắt gặp trong tác
phầm của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng thì niềm đam mê cái đẹp cũng đã chiến thắng. Tuy cái chiến thắng đó
chưa phải là tuyệt đối nhưng vẫn đủ biến viên quản ngục thành một con người khác.
“Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất, nâng đỡ lấy một ngôi sao


chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Ngôi sao chính trị" dĩ nhiên là ám chỉ Huấn Cao. Còn
“thanh âm phức tạp” ngầm chỉ ai? Con người ấy chính là quản ngục. Quản ngục muốn
nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ. Vì thế nên Nguyễn Tuân đã để cho nhân vật này hóa thân
thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chi tiết đó vừa bộc lộ nét mạnh của Vang bóng một
thời lãng mạn và khao khát đánh thức cái đẹp, vừa để lộ thấp thoáng điểm yếu và sự yếu
đuối của Nguyễn Tuân trong cái nhìn hoài vọng xa xôi. Nó khiến Nguyễn Tuân như tránh
né, đem ông trời ra mà trách: '‘Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần
khiết giữa một đống cặn bã”. Cũng từ ý niệm ấy, quản ngục nghĩ mình “chọn nhầm nghề
mất rồi", Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp và đã tìm ra cái đẹp long lanh, mong manh giữa
một vùng trời đen tối.
Việc miễn những mánh khóe hành hạ, biệt đãi những người tử tù, rồi bạo dạn xin
chữ, một cách khéo léo từng chút từng chút gắn thêm nét đẹp vào con người quản ngục
bởi vì: “Biết người tài, không phải là kẻ xấu". Mặc dù vậy khi đã biệt đãi, đã toan tính
cách xin chữ, quản ngục vẫn còn sợ, vẫn dặn viên thơ lại nói với Huấn Cao: “Miễn là
ngài giữ kín cho”. Một chi tiết nhỏ nhưng chắc là không thể thiếu. Một chi tiết vừa lãng

mạn vừa hiện thực. Mến cái tài của Huấn Cao nhưng sợ “phép vua”. Phải tinh tế lắm.
Nguyễn Tuân mới phát hiện ra điều đó. Phải tài hoa lắm Nguyễn Tuân mới thể hiện được
điều đó. Nếu không viết về nỗi sợ ngấm ngầm thì là không thật, mà Nguyễn Tuân lại là
con người luôn vươn tới cái đẹp, cái thật. Nếu viết quá nhiều thì sẽ làm ngắt quãng mạch
chuyển biến đang cuồn cuộn, sôi sục trong nhân vật hình tượng.
Mến cái tài của Huấn Cao, khát khao “có được chữ ông Huấn mà treo là có một
báu vật trên đời”, đến lúc này, quản ngục dường như không còn là quản ngục mà là hóa
thân của Nguyễn Tuân với nhịp tim và hơi thở dành trọn cho sự nâng niu cái đẹp. “Một
buổi chiều lạnh, viên quản ngực tái nhặt người đi sau khi tiếp đọc công văn”. Không còn
là thương tiếc, xót xa mà đã đạt đến đỉnh điểm của niềm đau xót, thẫn thờ. Việc nhận
công văn, quản ngục biết trước nhưng vẫn thấy đột ngột, hụt hẫng. Thiên lương vừa sóng
dậy trong một con người đã thúc giục quản ngục hành động. Một. hành động trái ngược


với những gì quản ngục nói: “Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép trước”. Tình yêu cái
đẹp đến đam mê đã đánh thức khí phách tiềm tàng nằm im suốt bao nhiêu năm.
Trong cảnh cho chữ hùng vĩ, có một chi tiết đáng nhớ: “Người tù viết xong một
chữ viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẻm đánh dấu ô chữ đặt lên
phiến lục ông”, “khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ mà là vì cảm phục. Khi sự cảm
phục lên đến đỉnh điểm cũng là lúc kết thúc truyện. “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một
nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện ở cao trào. Chính nghệ thuật độc đáo đó đã nêu bật cái
đẹp toàn diện, toàn mỹ và rất đặc sắc của cả người xin chữ và người cho chữ.
Dọc theo suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục luôn tồn tại với một ý
nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là một hình tượng độc đáo mà còn là nhân vật hội
đủ những đặc điểm chung nhất của Vang bóng một thời, của quan niệm và phong cách
Nguyễn Tuân: lãng mạn mà vẫn hiện thực, là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân
tộc, là biểu hiện của sự “yêu mến và than tiếc những cái đã qua và có sức làm sống lại
một thời xưa cũ”



BÀI SỐ 6:

Một nền văn học lớn là một nền văn học có nhiều phong cách, một nhà văn lớn là
một nhà văn xây dựng cho mình một phong cách riêng độc đáo. Nguyễn tuân là một nhà
văn như thế. Phong cách nghệ thuật nổi bật của ông chính là tài hoa uyên bác và là một
người suốt đời đi tìm cái đẹp. Chính bởi phong cách ấy mà những tác phẩm của ông
mang đậm sự tài hoa uyên bác. Đặc biệt là chữ người tử tù, trong tác phẩm ấy ngoài nhân
vật Huấn Cao ta cũng không thể nào không nhắc đến nhân vật Viên quản ngục. Dưới ngòi
bút tài hoa uyên bác, một bậc phù thủy ngôn ngữ chẻ sợi tóc làm tư nhân vật ấy hiện lên
cũng thật đáng chú ý.
Chữ người tử tù là một trong những truyện trong tập vang bóng một thời của nhà
văn Nguyễn tuân. Tập truyện viết về những thói quen xưa cũ nay chỉ còn vang bóng mà
thôi. Trong đó chữ người tử tù kể về một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ giữa nhân vật viên
quản ngục và Huấn Cao. Không gian gặp gỡ là nhà tù nơi ngự trị của bóng tối và là kẻ
thù của cái đẹp. Thời gian là những ngày cuối cùng của tử tù Huấn Cao. Ta thấy được cái
tình huống éo le ấy nhưng còn thấy được sự éo le hơn trong chính thân phận của họ. Viên
quản ngục là đạo diện cho triều đình còn Huấn Cao thì lại chống lại triều đình. Những
trên bình diện nghệ thuật thì họ không còn là kẻ thù của nhau nữa. Huấn Cao viết chữ đẹp
còn viên quản ngục thì lại yêu thích say đắm cái đẹp. Chính vì thế mà trên bình diện nghệ
thuật họ là những người tri kỉ. Và đồng thời xuất phát từ tình huống truyện ấy ta cảm
nhận được vẻ đẹp của viên quản ngục như những nốt nhạc thanh thót thanh cao trong một
bản nhạc xô bồ.
Viên quản ngục là một người có sở thích sở nguyện cao quý. Đó chính là thích chữ
đẹp của Huấn Cao. Nếu như sở thích của những viên quan tầm thường là vàng bạc hư
danh, quyền quý an nhàn thì viên quản ngục trong tác phẩm này thì lại hoàn toàn ngược
lại. Ông là một người có những sở thích và sở nguyện cao quý. Ông có tầm nhìn xa trông
rộng và tâm tưởng thì hoàn toàn thoát khỏi những cám dỗ của vật chất cũng như những
bóng tối của ngục tù. Ông làm quan những không hề hống hách mà chỉ biết làm tròn



nhiệm vụ của bản thân mình. Ông giống như một âm thanh trong trẻo trong bản nhạc xô
bồ ấy. Sở nguyện của ông là một ngày kia có một bức tranh chữ của Huấn Cao viết mà
treo trong nhà thì quả thật là nhất. Cái sở nguyện yêu chuộng những giá trị văn hóa
truyền thống ấy cho thấy được cái tâm hồn trong trẻo của ông. Mặc dù làm một tên quan
cai ngục nhưng ông không đánh mất đi cái sự lương thiện trong bản thân mình. Ông
không hề phụ thuộc vào triều đình. Khi biết Huấn Cao đến thì ông đã tìm mọi cách để xin
chữ của ông dẫu biết rằng một khi bại lộ ra thì ông sẽ có thể mất đầu. Ta cảm nhận được
ở con người ông những giá trị tôn vinh cái đẹp, tâm hồn ông không bị nhà ngục kia vấy
đen. Trong cái nơi chỉ có sự đánh đập trả thù tra tấn đến dã man ấy mà tâm hồn ông vẫn
sáng lấp lánh như một viên ngọc quý trong đêm. Kể cả khi việc xin chữ ấy gặp khó khăn
khi Huấn Cao không hiểu được nỗi lòng của ông nhưng ông vẫn giữ niềm hi vọng và sở
nguyện cao quý ấy. Có biết đến viên quản ngục chúng ta mới có thể hiểu hết được con
người chúng ta. Nhiều khi cái chức vụ hay thân phận kia không quyết định đến lối sống
và tâm hồn của họ.
Không chỉ là một người yêu chuộng cái đẹp và có sở nguyện cao quý mà viên
quản ngục còn là một người rất biết trân trọng những con người tài giỏi như Huấn Cao
nữa. Khi có phiến tráp báo rằng tên tội phạm nguy hiểm của triều đình sẽ được đưa đến
đây trong vài ngày sau đó mới mang ra xử trảm thì viên quản ngục đã tỏ ra rất vui mừng
khi gặp được người mà mình nể phục. những đồng thời ông cũng thấy tiếc cho con người
tài giỏi ấy mà lại phải chuốc lấy cái chết. Được biết Huấn Cao có tài bẻ khóa vượt ngục
nhưng viên quản ngục không mấy quan tâm về điều đó mà cái ông quan tâm là làm sao
có thể tiếp cận được con người anh hùng ấy để xin chữ mà thôi. Ông trân trọng Huấn Cao
thiết đãi Huấn Cao và những người bạn của Huấn Cao thịt rượu hàng ngày. Điều đó thể
hiện sự trân trọng những con người tài giỏi của viên quản ngục. Thế rồi ông lần la hỏi
Huấn Cao có cần gì thì cứ nói viên quản ngục sẽ thiết đãi. Mặc dù ở đó viên quản ngục là
chủ nhưng khi muốn xin chữ và trân trọng người tài cho nên viên quản ngục hạ mình
xuống xưng hô như một người bề dưới. Khi Huấn Cao quát mắng ông thì ông cảm thấy


buồn nhưng ông không trách vì ông nghĩ rằng những kẻ chuyên trọc trời khuấy nước chỉ

quen ngồi trên đầu người ta thôi.
Không những thế những hành động ấy của viên quan coi ngục chính là thể hiện sự
trân trọng và đề cao những giá trị văn hóa của ông. Thái độ trân trọng nghệ thuật thư
pháp chính là trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong nhà tù ấy
bóng tối không nhuốm đen tâm hồn của viên quản ngục. Sức mạnh của cái đẹp làm cho
tâm hồn của viên quản ngục vẫn thiên lương trong sáng lắm. Chính vì thế mà ông nhất
định phải xin bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao quyết định cho chữ viên quản
ngục cảm thấy rất vui, ông như nhận ra nhiều điều, nhận thấy cả cái cách chọn nghề sai
của mình nữa. Ông thể hiện thái độ kính trọng trước những lời dặn dò cuối cùng của một
người tử tù. Viên quan ấy hứa rằng sau khi nhận được chữ của Huấn Cao thì sẽ trở về quê
sống đê giữ cái thiên lương trong sáng của bản thân mình. Hai dòng nước mắt của ông
khẽ rơi như thể hiện sự hối hận của mình. Qua đó ta thấy được viên quản ngục đúng là
một người có thiên lương trong sáng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc mà quên đi cả sự an toàn của bản thân.
Một lần nữa ta phải trầm trộ tài năng uyên bác của Nguyễn Tuân. Ông không
những xây dựng được một nhân vật chính chuẩn mực mà đến một nhân vật phụ như viên
quản ngục cũng để lại rất nhiều giá trị con người. Vẻ đẹp trong con người viên quản ngục
cũng sáng lấp lánh. Cánh cửa nhà tù không thể nào cướp đi cái thiên lương trong sáng
cùng sở nguyện cao quý của ông. Chuyện kết thúc cũng là lúc viên quản ngục tay nải về
quê sống với thiên lương trong sáng của mình.


BÀI SỐ 7:

Cảnh cho chữ được tác giả gọi là ''một cảnh tượng xưa nay chưa từng có''. Mà
đúng là chưa từng có thật. Bởi vì từ trước đến giờ, việc cho chữ, vốn là 1 hình thức của
nghệ thuật viết thư pháp tao nhả và có phần đài các thường chỉ diễn ra trong thư phòng,
thư sảnh, thế nhưng ở đây nó lại được diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám
''tường...gián''. Không chỉ thế, người cho chữ lại là 1 người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng .Và với bút pháp tương phản bậc thầy NT đã làm bật lên sự đối lập về nhiều mặt.

Trong bối cảnh chật hẹp của nhà tù vẫn có bó đuốc cháy đỏ rực thể hiện chí hướng cao cả
của những con người, trong cái mùi hôi của không gian lại có mùi thơm của mực, đặc
biệt là sâu trong trái tim của con người tưởng như là độc ác, tàn nhẫn đó lại là ''một tấm
lòng trong thiên hạ''.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục.
Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó
đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại
vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh
người tử tù trở nên lồng lộng, uy nghi. Viên quản ngục và thầy thư lại, những kẻ đại diện
cho xã hội đương thời thì bỗng trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Điều đó cho thấy rằng: trong nhà tù tăm tối không phải những gì hiện thân cho cái ác, cái
tàn bạo, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang
làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ
phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, mà chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng
tạo nên cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm
đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách.
Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Chỉ sáng mai HC sẽ bị tử
hình, nhưng chắc chắn rằng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung
hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối


với viên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại
nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người
say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn
với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã
sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta
còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng
cảm động. ''Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn
loạn xô bồ''. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử

chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành
khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những
nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự
chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao
thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất
trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là
đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của
Nguyễn Tuân.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo trong việc tạo dựng hình tượng nhân vât chi
tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góc cạnh, sáng tạo và
giàu tình cảm, cảm xúc dã mang người đọc đến với một không khí cổ kính trang nghiêm
đầy xúc động, có phần bi tráng - một khung cảnh cổ xưa.


BÀI SỐ 8:

Đọc tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân nhiều người chỉ chú ý đến hình
tương nhân vật Huấn Cao - một anh hùng thất thế, một con người có trái tim nhân hậu,
khí phách hiên ngang - mà quên rằng: Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân không chỉ là
những con người có tài nhưng không gặp thời mà ông còn luôn cố gắng khắc họa hình
tượng những nhân vật tuy có cuộc sống bình thường nhưng tâm hồn lại rất trong sáng,
luôn hướng tới cái thiện, cái đẹp, cái thiên lương của cuộc đời. Phải chăng, trong Chữ
người tử tù đó chính là nhân vật viên quản ngục? Vậy nhân vật này có nghề nghiệp gì và
có những phẩm chất cao đẹp nào?
Ngay chữ “quản ngục” cũng nói cho chúng ta biết về nghề nghiệp của nhân vật
này. Đó là một người cai ngục, ông đại diện cho triều đình, cho phe đối lập với những
con người có tài nhưng không gặp thời, những tướng cướp hảo hán, ngang ngược. Sống
giữa lũ người độc ác, bạo ngược, viên quản ngục này “là một thanh âm trong trẻo chen

vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ....”.
Chiều hôm ấy, khi quản ngục nhận được công văn báo sẽ có sáu tử tù tử hình
chuyển về ngục tạm giam, trong đó kẻ cầm đầu là Huấn Cao - một người có tài “viết chữ
rất nhanh và rất đẹp”, lại có tài “bẻ khóa”, “vượt ngục” hẳn người đọc sẽ tưởng tượng
những trận mưa đòn sắp rơi xuống đầu những kẻ phản nghịch kia. Nhưng thật lạ! Không
những không được nghe những tiếng quất kèm theo những tiếng kêu xé lòng mà ta còn
bắt gặp thái độ trầm trồ kinh ngạc: “Tôi nghe ngờ ngợ Huấn Cao? Hay la cái người mà
vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cải tài viết chữ rất nhanh và rất dẹp do không?”. Chao ôi!
Quản ngục nhận tù mà phải sửng sốt trước một tên tù như vậy u?
Ngay sau khi biết mình đang nắm trong tay sinh mệnh của Huấn Cao, ông đã phải
trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt: “Một khuôn mặt nghĩ ngợi...”, sau đó
“ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”. Và sau cùng, ông đã chọn quyết định cho
mình - một quyết định đúng đắn, khiến cho “Những dường nhăn nheo của một bộ mặt tư
lự, bây giờ đã biến mất hẳn. ở dấy, giờ chỉ là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín dáo và


×