Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính của VNPost

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 109 trang )

NGUYỄN ĐỨC TÀI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGUYỄN ĐỨC TÀI

QUẢN TRỊ KINH DOANH

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG CUNG CẤP
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH BƯU CHÍNH CỦA VNPOST

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

KHOÁ 2014A
Hà Nội – Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
----------------------------------

NGUYỄN ĐỨC TÀI

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG CUNG CẤP DỊCH VỤ
TÀI CHÍNH BƯU CHÍNH CỦA VNPOST

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO THANH BÌNH



Hà Nội – Năm 2016


MỞ Đ U
1.
Trong nền kinh tế thị trường, theo xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt.
Trong điều kiện đó, năng lực cạnh tranh là khả năng dành chiến thắng trong sự
ganh đua giữa các chủ thể trong cùng một môi trường và khi cùng quan tâm tới
một đối tượng. Trên góc độ kinh tế, năng lực cạnh tranh được xem xét ở các
cấp độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nếu như năng lực cạnh tranh của quốc gia thể hiện bằng năng lực tham
gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế của nền kinh tế quốc
gia, khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới, thì năng lực cạnh
tranh của công ty thể hiện khả năng duy trì lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị
phần để thu lợi nhuận. Năng lực cạnh tranh của công ty có ảnh hưởng qua lại
với năng lực cạnh tranh của quốc gia: năng lực cạnh tranh của quốc gia trong
chừng mực nhất định phản ánh năng lực cạnh tranh của các công ty trong nền
kinh tế ấy; năng lực cạnh tranh của công ty chịu sự chi phối bởi năng lực cạnh
tranh của quốc gia. Do năng lực cạnh tranh có vai trò và ý nghĩa to lớn như
vậy, nên hầu hết các quốc gia đều khuyến khích cạnh tranh, tạo môi trường
thúc đẩy cạnh tranh trong nước, quốc tế và rất chú trọng nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngành, các sản phẩm dịch vụ cung ứng.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo bằng thị phần của
sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng,
giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu,
quảng cáo, điều kiện mua bán, v.v...
Trong các ngành cung cấp sản phẩm dịch vụ thì bưu chính được đánh giá

là một ngành có mạng lưới khổng lồ kéo dài đến tận bốn góc của toàn cầu. Tính
cho đến thời điểm hiện tại, đây là mạng phân phối vật lý lớn nhất trên toàn thế
giới. Mỗi ngày có hơn 600.000 bưu cục phục vụ hàng tỷ người, và mỗi năm hệ
1


thống này chuyển phát hơn 438 tỷ bức thư và 6 tỷ bưu kiện, và hơn nữa hệ
thống bưu chính còn cung ứng một mạng lưới rộng lớn các dịch vụ điện tử,
logistic và tài chính bưu chính.
Các dịch vụ tài chính bưu chính cũng là sản phẩm bưu chính phổ biến, và
một số lượng lớn bưu chính các nước trên khắp thế giới đang tập trung vào lĩnh
vực kinh doanh này. Các tổ chức tài chính bưu chính đang nắm giữ hơn một tỷ
trong tổng số 5,18 tỷ tài khoản tiền gửi và tiết kiệm trong thị trường ngân hàng
bán lẻ trên toàn thế giới. Ngoài ra, các tổ chức này cũng cung cấp các sản phẩm
tiết kiệm và cho vay cũng như các dịch vụ khác cho những người không có tài
khoản ngân hàng hoặc người có thu nhập thấp là những người khó có khả năng
tiếp cận với các tổ chức tài chính truyền thống.
Nằm trong xu hướng phát triển chung của Bưu chính thế giới, Tổng công
ty Bưu điện Việt Nam không ngừng đẩy mạnh phát triển các dịch vụ Tài chính
Bưu chính bên cạnh các Dịch vụ Bưu chính chuyển phát truyền thống. Tuy
nhiên, trong điều kiện và môi trường kinh doanh mới, cạnh tranh ngày càng
quyết liệt đòi hỏi Tổng công ty Bưu điện Việt nam phải không ngừng đổi
mới các dịch vụ tài chính bưu chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ
vững thị phần và cạnh tranh với không chỉ các công ty trong nước mà còn với
các công ty nước ngoài sẽ tham gia cung ứng dịch vụ tài chính bưu chính tại
Việt Nam trong tương lai gần.
Xuất phát từ thực trạng trên học viên đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao
năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính của
VNPost”
2. Mục tiêu nghiên cứu c a


tài

Vận dụng các lý thuyết về cạnh tranh, phân tích những yếu tố ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của VNPost nói chung và của dịch vụ tài chính bưu
chính nói riêng. Phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh cung cấp dịch
vụ tài chính bưu chính của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam. Từ đó nghiên cứu
và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cung cấp dịch vụ tài
2


chính bưu chính, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của VNPost phát
triển, nâng cao uy tín và thương hiệu của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam trên
thị trường dịch vụ, giữ vững vị thế cạnh tranh trước các đối thủ trong và ngoài
nước.
3. Đố tượng nghiên cứu c a

tài

oạt động cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính nói chung và năng lực
cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính của Tổng Công ty Bưu
điện Việt Nam (VNPost) nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu c a

tài

iện tại, dịch vụ tài chính bưu chính mà VNPost đang cung cấp bao gồm:
Dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ đại lý ngân hàng, dịch vụ đại lý bảo hiểm, dịch
vụ thu hộ, chi hộ và dịch vụ hành chính công (thu, chi Bảo hiểm xã hội, dịch
vụ thu bảo hiểm y tế). Tuy nhiên, hiện nay dịch vụ chuyển tiền bưu điện là dịch

vụ cốt l i, có doanh thu lớn nhất của dịch vụ tài chính bưu chính của VNPost và
là dịch vụ do VNPost làm chủ dịch vụ nên luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu dịch
vụ chuyển tiền bưu điện.
5. Phương pháp nghiên cứu c a

tài

Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
như: phương pháp phỏng vấn, phương pháp tổng hợp- phân tích số liệu,
phương pháp thực nghiệm như tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động thực tế
của Bưu điện Việt Nam.
6. Mộ số óng góp c a

tài

- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh trong cung cấp dịch vụ Tài chính Bưu chính
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch
vụ tài chính bưu chính, cụ thể là dịch vụ chuyển tiền bưu điện của Tổng công
ty Bưu điện Việt Nam trong thời gian qua (2013-2015)

3


- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính của Tổng công ty Bưu điện
Việt Nam trong thời gian tới.
7. K t c u c a

tài


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong
cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài
chính bưu chính của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung
cấp dịch vụ tài chính bưu chính của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam

4


C ƯƠ G 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẠNH T
T

NH T

1.1. Dị

vụ

N

CUN

C

NH V N N


CH V T

CH NH

L C CẠNH
U CH NH

bưu

1.1.1. Khái niệm về dịch vụ và dịch vụ tài chính bưu chính
1.1.1.1. Khái niệm về dịch vụ
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới, dịch vụ ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của các nước đặc biệt là các
nước phát triển. Xã hội càng phát triển, trình độ chuyên môn hóa và phân công
lao động càng cao thì lĩnh vục dịch vụ càng mở rộng để đáp ứng nhu cầu đa
dạng của xã hội. Mặt khác trình độ phát triển của dịch vụ cao là biểu hiện của
một xã hội phát triển, điều mà các nhà kinh tế học cho rằng: xã hội hậu công
nghiệp là xã hội dịch vụ?
Tuy vậy, vào những thập kỷ gần đây lĩnh vực dịch vụ mới được các nhà
kinh tế quan tâm đến và nghiên cứu nghiêm túc. Bởi vì trước đây họ cho rằng
dịch vụ không mang lại giá trị cho nền kinh tế mà chỉ có sản xuất tạo ra giá trị
cho nền kinh tế. Mãi đến cuối thế kỷ 19 thì Alfred Marshall mới thừa nhận rằng
dịch vụ cũng đem lại những giá trị cho người tiếp nhận nó, nhưng lại coi nó
như một hàng hóa hữu hình. Ông cũng cho rằng: có một số hàng hóa hữu hình
không được tạo ra nếu như không có một số dịch vụ trợ giúp trong quá trình
sản xuất và đem nó đến tay người tiêu dùng.
Có nhiều khái niệm về dịch vụ nhưng nhìn chung các khái niệm đều chỉ
r : dịch vụ nói chung là một tập hợp các hoạt động bao gồm các nhân tố không
hữu hình và hữu hình, tạo ra chuỗi giá trị và mang lại lợi ích tổng thể. Khi

khách hàng mua một dịch vụ, họ nhận được các yếu tố sau:
- Các yếu tố vật lý: đó là các phần tử vật chất hữu hình của các hàng hóa
hỗ trợ, hàng hóa phương tiện. Ví dụ như: bữa ăn trong một chuyến bay, ô tô
trong dịch vụ vận tải, ki ốt trong giao dịch Bưu chính . . .
5


- Các lợi ích khoái cảm: các lợi ích cảm nhận được qua các giác quan của
khách hàng như mùi thơm của thức ăn, mức độ thoải mái của căn phòng nghỉ
tại khách sạn…
- Các lợi ích tâm lý: các lợi ích này khó xác định và khách hàng cảm
nhận được một cách chủ quan như sự thoải mái, dễ chịu, yên tâm, được tôn
trọng. . .
1.1.1.2. Khái niệm dịch vụ tài chính bưu chính
- Dịch vụ tài chính là một khái niệm mới và cũng chưa có một định nghĩa
thống nhất. Tuy nhiên đối với các nước đang phát triển, nhất là trong bối cảnh
mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế thì rất cần có cách hiểu chung và thống
nhất. Theo WTO: Một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài
chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao
gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ
ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm)
Dịch vụ tài chính hiểu chung nhất là các công việc trung gian về tiền tệ
của các tổ chức, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ
hộ hay bảo đảm an toàn tài sản, đem lại nguồn thu phí cho tổ chức cung cấp
dịch vụ.
- Do đó có thể hiểu: Dịch vụ TCBC là những dịch vụ tài chính mà ngành
bưu chính tham gia cung cấp cho xã hội dựa vào mạng lưới bưu chính hiện có
của mình.
Dịch vụ TCBC là hoạt động kinh tế mà ngành bưu chính lấy cá nhân làm
đối tượng phục vụ chính. Các dịch vụ TCBC được công ty bưu chính kinh

doanh là một bộ phận hợp thành của công ty bưu chính, vừa dựa vào bưu chính
nhưng lại có những đặc điểm kinh doanh khác với dịch vụ bưu chính truyền
thống.
1.1.2. Các loại dịch vụ tài chính bưu chính
1.1.2.1.Các loại dịch vụ tài chính

6


Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO) các loại dịch vụ tài chính được
chia thành các loại sau:
a) Dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ tài chính xuất hiện sớm nhất và
đa dạng nhất, các loại hình dịch vụ ngân hàng bao gồm:
- Dịch vụ tiết kiệm: Bao gồm tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi tiết
kiệm dưới hình thức phát hành các giấy tờ có giá như: Kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi….
- Dịch vụ cho vay:
+ Cho vay bằng tiền dưới các hình thức: cho vay từng lần, cho vay theo
mức tín dụng, cho vay kỹ quỹ, thấu chi, đồng tài trợ, chiết khấu giấy tờ có giá.
+ Cho thuê tài chính: là hình thức tài trợ trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các bất động sản khác
trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê và nắm giữ quyền
sở hữu đối với tài sản cho thuê, bên đi thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán
tiền thuê theo thoả thuận.
- Dịch vụ thanh toán: thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển
tiền, thẻ tín dụng: Dịch vụ thanh toán bao gồm: Dịch vụ thanh toán trong nước
và dịch vụ thanh toán quốc tế.
- Môi giới và đầu tư: Môi giới và đầu tư chứng khoán.
- Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ: Thực hiện thông qua các nghiệp vụ trao

ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và nghiệp vụ tương lai.
- Dịch vụ tư vấn tài chính: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ
tư vấn về tiết kiệm và đầu tư. iện nay, dịch vụ tư vấn của các ngân hàng rất đa
dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân, doanh nghiệp
đến tư vấn cơ hội kinh doanh, tư vấn thị trường trong và ngoài nước cho các
doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng...
b) Dịch vụ chứng khoán

7


Trên thị trường chứng khoán để phục vụ nhu cầu của khách hàng, công
ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ sau: Dịch vụ môi giới chứng khoán; dịch
vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán; Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán; Dịch vụ lưu ký chứng khoán; Dịch vụ cho vay, ký quỹ....
c) Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm
- Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ tài chính. Người cung cấp dịch vụ
này (người bán bảo hiểm) không bán sản phẩm hữu hình mà bán một loại sản
phẩm vô hình- đó là sự cam kết thực hiện trách nhiệm tài chính- chi trả tiền bảo
hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm bao gồm: Bảo hiểm nhân
thọ, tai nạn và sức khoẻ; Bảo hiểm phi nhân thọ; Tái bảo hiểm và nhượng tái
bảo hiểm; Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (bao gồm các dịch vụ môi giới và đại lý).
1.1.2.2. Các dịch vụ tài chính bưu chính
Dựa trên nền tảng của các dịch vụ tài chính, ta thấy hiện nay dịch vụ
TCBC mới chủ yếu phát triển dịch vụ dựa trên nền tảng các dịch vụ như: Dịch
vụ đại lý ngân hàng, dịch vụ đại lý B

(Đại lý B


nhân thọ và phi nhân thọ),

dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ hành chính công (thu B X
và thu B X , B YT tự nguyện). Vì vậy tiềm năng bưu chính có thể phát triển
dịch vụ TCBC dựa trên các dịch vụ tài chính khác như dịch vụ chuyển tiền
thông minh PPPost, dịch vụ chứng khoán.
1.1.3. Vai trò của dịch vụ tài chính bưu chính trong nền kinh tế quốc dân
Các dịch vụ tài chính trong nền kinh tế thị trường có vai trò là: Phân tán và
giảm thiểu rủi ro; Giám sát hoạt động của các tổ chức kinh tế, kiểm soát các
nhà quản lý; Nghiên cứu, thẩm định và phân bổ vốn đầu tư hiệu quả; uy động
tiết kiệm trong xã hội; Tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch mậu dịch.
Bên cạnh các vai trò của dịch vụ tài chính thì dịch vụ TCBC có các vai trò
sau:
- Dịch vụ TCBC là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế:

8


+ Dịch vụ TCBC tận dụng mạng lưới rộng khắp, cơ sở vật chất và nguồn
lực của mạng lưới bưu chính hiện có để tạo ra doanh lợi mới với chi phí thấp.
+ Biến tiền nhàn rỗi, tản mạn, nhỏ nhặt trong dân cư thành nguồn vốn lớn
cho đầu tư phát triển.
+ Góp phần tạo thói quen tiết kiệm cho đầu tư đối với dân chúng và góp
phần tạo cho người dân có thói quen thanh toán không dùng tiền mặt, thúc đẩy
thị trường tài chính tiền tệ.
+ Góp phần thực hiện chính sách tiền tệ và chống lạm phát. Bản thân dịch
vụ TCBC là một kênh huy động vốn bằng tiền mặt, sự phát triển của nó sẽ làm
giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Do vậy, sự phát triển của dịch vụ
tài chính một mặt góp phần cải thiện quan hệ tiết kiệm – tích lũy – tiêu dùng
trong nền kinh tế, mặt khác gia tăng vốn đầu tư cho ngân sách. Cả hai trường

hợp có tác dụng góp phần kìm hãm lạm phát.
- Thực hiện các chính sách tiền tệ, tín dụng của Nhà nước góp phần cùng
nhà nước phát triển kinh tế xã hội.
+ Dịch vụ TCBC tạo việc làm cũng như hiệu quả sử dụng mạng lưới dịch
vụ bưu chính, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đưa nguồn vốn tới nơi sử dụng có
hiệu quả, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra thu nhập cho nền kinh tế.
+ ơn thế nữa, dịch vụ TCBC đã mang lại một hình ảnh mới cho Bưu điện
trong mắt người dân, Bưu điện không chỉ là nơi để gửi thư, gọi điện thoại mà
còn là trung tâm cung cấp các dịch vụ tài chính mới.
1.2. Cạnh tranh trong lĩ

vự dị

vụ

bưu

1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực dịch
vụ tài chính bưu chính
1.2.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm
vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên
quốc gia vv..điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ quy mô
9


doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh nghiệp
mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc
gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và

phúc lợi cho nhân dân vv..
Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch ". Nghiên cứu sâu về sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát
hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh
tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị
trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất
và khả năng có thể bán hành hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu đựơc lợi
nhuận.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh
trong cơ chế thị trường được định nghĩa là "Sự ganh đua, sự kình địch giữa
các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng
hoá về phía mình”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa
các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối
quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi
nhất.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn
kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng cạnh tranh (Competition) là sự kình
địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị
trường. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo
(Perfect Competition).
Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho
cạnh tranh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết: Một cạnh tranh hoàn
10


hảo, là ngành trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây

ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua.
Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn
kinh tế học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có
rất nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người
bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả.
Theo tác giả Tôn Thất Nguyễn Thiêm trong tác phẩm Thị trường,
chiến lược, cơ cấu thì cạnh tranh trong thương trường không phải là diệt trừ
đối thủ của mình mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị
gia tăng cao và mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn
đối thủ cạnh tranh.
Theo tác giả Đoàn Hùng Nam trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thời hội nhập cho rằng: “Cạnh tranh là một quan hệ
kinh tế, tất yếu phát sinh trong cơ chế thị trường với việc các chủ thể kinh tế
ganh đua gay gắt để giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng để thu được lợi
nhuận cao nhất. Mục đích cuối cùng trong cuộc cạnh tranh là tối đa hóa lợi
ích đối với doanh nghiệp và đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và
sự tiện lợi”.
Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu
năm 2003 thì định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là" Khả năng của
nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa
là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi
của tổn sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian.
Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể
rút ra các điểm hội tụ chung sau đây:
Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế
có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để

11



giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các
mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng.
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh, hoàn
hảo và nó giúp cho các chủ thể tham gia đạt được tất cả những gì mình mong
muốn. Trong thực tế, để có lợi thế trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã
sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để làm tổn hại đến đối
thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt tiêu
lẫn nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược.
Giống như bất kỳ sự vật hiện tượng nào khác, cạnh tranh cũng luôn
tồn tại hai mặt của một vấn đề: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ở khía cạnh
tích cực, cạnh tranh là nhân tố quan trọng góp phần phân bổ các nguồn lực có
hạn của xã hội một cách hợp lý, trên cơ sở đó giúp nền kinh tế tạo lập một
cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp
phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, dẫn đến gia tăng năng suất
sản xuất xã hội, sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn
tối đa nhu cầu xã hội thông qua các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá
thành hạ, mẫu mã đa dạng…
Ở góc độ tiêu cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích chạy theo lợi
nhuận mà bất chấp tất cả thì song song với lợi nhuận được tạo ra, có thể xảy
ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như môi trường sinh thái bị hủy
hoại, nguy hại cho sức khỏe con người, đạo đức xã hội bị xuống cấp, nhân
cách con người bị tha hóa. Nếu xảy ra tình trạng này, nền kinh tế quốc gia sẽ
phát triển một cách lệch lạc và không vì lợi ích của số đông.
1.2.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể như hành vi của doanh nghiệp kinh
doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Trong quá trình cạnh tranh với
nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp
nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện
một sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh

12


hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng
duy trì được vị trí của một hàng hóa nào đó trên thị trường thì người ta dùng thuật ngữ
“sức cạnh tranh của hàng hóa” hoặc “năng lực cạnh tranh của hàng hóa”. Đó cũng là
chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hóa đó với khách hàng.
iện nay, các thuật ngữ “năng lực cạnh tranh”, “sức cạnh tranh” và “khả năng
cạnh tranh” được sử dụng nhiều ở Việt Nam, trong khi thông dụng trong tiếng Anh
đều được sử dụng là “competitiveness”, cho nên chúng cùng chung một ‎nghĩa và có
thể dùng thay thế cho nhau. Một định nghĩa chính xác cho khái niệm này đến nay là
vấn đề gây nhiều tranh luận. Theo M. Porter, hiện chưa có một định nghĩa nào về
năng lực cạnh tranh được thừa nhận một cách phổ biến. Dưới đây là một số định
nghĩa về năng lực cạnh tranh:
i) Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là sức
cạnh tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng chiến lược toàn cầu mà có
được.
ii) Trong Từ điển Bách khoa: “Sức cạnh tranh là năng lực của một doanh
nghiệp, hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành
khác đánh bại về năng lực kinh tế”.[29]
Nguyên nhân dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh
do quan niệm khác nhau:
i) Theo M.Porter thì năng lực cạnh tranh chỉ có nghĩa khi xem xét ở cấp
độ quốc gia là năng suất. [33]
ii) Theo Krugman thì năng lực cạnh tranh ít nhiều chỉ phù hợp ở cấp độ
doanh nghiệp vì ranh giới cận dưới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù
đắp nổi chi phí thì hiện tại hoặc sau này sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá
sản.
Do vậy, khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh người ta thường xem xét,
phân biệt năng lực cạnh tranh theo 4 cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng

lực cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm.
13


a. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường
kinh tế chung, đảm bảo phân bố hiệu quả các nguồn lực, đạt và duy trì mức
tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất
lớn đối với việc thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh
doanh và các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ.
Ngược lại, sự dịch chuyển cơ cấu ngành theo hướng ngày càng có hiệu quả
hơn, tốc độ tăng trưởng, sự phồn thịnh kinh tế lại phụ thuộc vào sự phát triển
năng động của doanh nghiệp.
b. Năng lực cạnh tranh ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị
hàng hóa thành giá trị sản xuất.
c. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc và thị trường ngày càng được
mở rộng thì cần có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Đó
chính là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong
sản xuất kinh doanh hàng hoá, là trình độ sản xuất ra sản phẩm đáp ứng được yêu
cầu của thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn
tại và phát triển mà không cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là năng lực cung cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên
các thị trường khác nhau với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị
trường, thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ trong việc sản

xuất và cung cấp, vừa tối đa hoá lợi ích của mình vừa thoả mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao.
Do vậy, nói một cách cụ thể hơn thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và
14


chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và
phát triển bền vững.
d. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
Khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ không thể
không bàn tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản
xuất cung cấp. Vì doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì một trong những yếu tố
quan trọng là các hàng hóa dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp phải có năng lực cạnh
tranh. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ thể hiện năng lực của sản phẩm,
dịch vụ đó thay thế một sản phẩm, dịch vụ khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do
đặc tính, chất lượng hoặc giá cả sản phẩm, dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Như vậy, người ta thường phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Nhưng nếu trên cùng một thị trường,
có thể nói, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là hai khai niệm rất gần với nhau.
Theo GS.TS. Bùi Xuân Phong – Phó Giám đốc

ọc viện Công nghệ Bưu

chính Bưu chính: “Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là khả năng sản
phẩm, dịch vụ đó được sử dụng được nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường
có nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp loại sản phẩm, dịch vụ đó”. [5],[6]
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ chính là năng lực nắm giữ và

nâng cao thị phần của loại sản phẩm, dịch vụ do chủ thể sản xuất và cung cấp
nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các chủ thể
sản xuất, cung cấp khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và
thời gian nhất định.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ có thể hiểu là sự vượt trội so
với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại trên thị trường về chất lượng và giá cả với
điều kiện các sản phẩm, dịch vụ tham gia cạnh tranh đều đáp ứng được các yêu
cầu của người tiêu dùng, mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên một đơn vị giá
cả làm cho sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao hơn.
15


1.2.1.3. Năng lực cạnh tranh trong dịch vụ tài chính bưu chính
Dựa trên lý thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ đã nêu trên, có thể rút ra định nghĩa về năng lực cạnh
tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính là: “Năng lực cạnh tranh của
một dịch vụ tài chính bưu chính là khả năng dịch vụ tài chính bưu chính đó
được sử dụng nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều doanh nghiệp
khác cùng cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính đó”.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ
tài chính bưu chính của các công ty bưu chính
1.2.2.1. Yếu tố bên trong
a. Năng lực về tài chính
Một công ty muốn cạnh tranh trong việc cung ứng sản phẩm/dịch vụ
được trước hết phải có đủ năng lực về tài chính. Tình hình tài chính của công
ty thể hiện sức mạnh của công ty trong cạnh tranh. Vốn là một trong những
điều kiện cần để công ty duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Do vậy khả
năng huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả sẽ làm cho năng lực tài chính của
công ty mạnh lên.
b. Năng lực sản xuất

- Khả năng tạo ra sản phẩm/dịch vụ có chất lượng cao, giá thành rẻ và
quy mô sản xuất đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Chỉ có như vậy mới
tạo ra sức cạnh tranh lớn cho công ty.
- Trình độ công nghệ. Công nghệ trên thế giới hiện nay đã trải qua quá
trình phát triển nhanh chóng. Việc lựa chọn công nghệ nào cho công ty có ý
nghĩa quyết định đến khả năng cạnh tranh của công ty. Công nghệ được lựa
chọn phải phù hợp với nguồn lực của công ty, phải phù hợp với điều kiện,
môi trường kinh doanh. Trong điều kiện kinh doanh hiện tại và tương lai
công nghệ đó phát huy như thế nào, phải làm cho công ty có ưu thế hơn đối
thủ.
c. Nguồn nhân lực
16


Con nguời là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển của
công ty. Trình độ, chất lượng của đội ngũ lao động ảnh hưởng đến chất
lượng của sản phẩm/dịch vụ mà công ty đang cung cấp. Con người phải có
trình độ, cùng với lòng hăng say làm việc thì mới tiếp cận, vận hành được
những máy móc thiết bị công nghệ cao. Đó là cơ sở để tạo nên sức mạnh cạnh
tranh cho công ty.
d. Marketing
ệ thống bán hàng và các hoạt động marketing đưa sản phẩm/dịch vụ
đến với khách hàng, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Sức mạnh cạnh
tranh được tạo ra bởi hoạt động marketing và bán hàng hết sức to lớn. Chất
lượng lao động phục vụ khách hàng góp phần không nhỏ tới việc nâng
cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ. Nó xây dựng hình ảnh tốt đẹp của công
ty trong lòng khách hàng, giữ khách hàng trung thành với sản phẩm/dịch
vụ của công ty.
e. Hoạt động nghiên cứu và phát triển
Nghiên cứu và phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển

và ứng dụng những công nghệ mới kịp thời tạo lợi thế cạnh tranh trên thị
trường như: phát triển sản phẩm/dịch vụ mới trước đối thủ cạnh tranh,
nâng cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ, cải tiến quy trình sản xuất để giảm
chi phí...

oạt động này có sự khác nhau giữa các công ty, giữa các ngành

đồng thời còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc trưng của sản phẩm/dịch
vụ, nguồn nhân lực, nguồn vốn, sự trợ giúp của Chính phủ…
Các công ty theo đuổi chiến lược phát triển sản phẩm/dịch vụ mới rất
quan tâm đến hoạt động nghiên cứu phát triển, họ còn hợp tác với các cơ quan
nghiên cứu như các trường đại học, các viện nghiên cứu… để đưa các công
trình nghiên cứu mới vào sản xuất.
Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được coi là yếu tố chìa khóa
quyết định năng suất tương lai của công ty. Thành quả của các hoạt động
R&D không chỉ giúp nâng cao năng suất của công ty mà còn ảnh hưởng rất lớn
17


đến khả năng tạo ra các sản phẩm/dịch vụ mới có giá trị cao hơn cho ngành,
qua đó thỏa mãn tốt hơn những đòi hỏi của thị trường, cả trong nước và quốc
tế. Thông tin về chỉ tiêu này cũng thường được cập nhật bởi các cơ quan chủ
quản của ngành, cơ quan thống kê và các hiệp hội chuyên ngành.
g. Năng lực tổ chức và quản trị công ty
Thực chất tổ chức và quản trị chính là sự kết hợp được mọi nỗ lực chung
của con người trong tổ chức và sử dụng tốt của cải của tổ chức để đạt tới mục
tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và
có hiệu quả nhất.
Quản trị ra đời chính là để tạo ra một hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so
với việc làm của từng cá nhân riêng lẻ của một nhóm người khi họ tiến hành

các công việc có mục tiêu chung gần gũi với nhau. Nói một cách khác, thực
chất của tổ chức và quản trị là quản trị con người trong tổ chức, thông qua đó
sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của tổ chức.
Nhiệm vụ của tổ chức và quản trị là sử dụng hợp lý và tiết kiệm nhất
đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động để giảm chi phí đầu vào
và nâng cao kết quả sản xuất ở đầu ra.
iện nay, quản trị là nhân tố cơ bản được xếp hàng đầu, quyết định sự
tồn tại, phát triển hay trì trệ hoặc diệt vong của mọi tổ chức. Qua phân tích về
những nguyên nhân thất bại trong hoạt động kinh doanh của cá nhân và của
các công ty, cũng như thất bại trong hoạt động của các tổ chức kinh tế - chính
trị - xã hội nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản trị kém
hoặc yếu.
1.2.2.2. Các yếu tố bên ngoài
a, Môi trường chính trị - pháp luật
Môi trường chính trị và pháp luật bao gồm các luật lệ, các quy tắc và
những hoạt động của các cơ quan Nhà nước có ảnh hưởng đến hoạt động của
công ty. Thể chế chính trị giữ định hướng, chi phối các hoạt động trong xã
hội, trong đó có các hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường chính trị,
18


pháp luật thuộc nhóm các yếu tố vĩ mô, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của các công ty, đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định hướng kinh
doanh của công ty.
Sự tác động của chính trị: Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận
lợi đối với công ty kinh doanh:
- Sự ổn định hoặc bất ổn trong nước: Sự khủng hoảng của Chính phủ như
lật đổ, xung đột vũ trang, biểu tình trong nước...
- Xung đột với nước ngoài: Thể hiện mức độ thù địch của quốc gia này
đối với quốc gia khác, mức độ thù địch dẫn đến sự bùng nổ cạnh tranh, áp

dụng chính sách cấm vận, trừng phạt kinh tế... mà các công ty sẽ là những nạn
nhân đầu tiên.
- Xu thế chính trị và định hướng chung của nền kinh tế: Là định hướng
chính trị của Chính phủ sẽ áp dụng trong chính sách điều hành quốc gia trong
lĩnh vực kinh tế. Chính sách này thể chế thành những đạo luật có hiệu lực pháp
lý đối với các công ty.
- Cơ chế bảo hộ sản xuất trong nước: Cơ chế bảo hộ sản xuất trong
nước bao gồm nhiều chính sách, biện pháp khác nhau nhằm giúp các nhà sản
xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh tiềm tàng.
Sự tác động của hệ thống pháp luật đối với kinh doanh: Luật pháp của
mỗi quốc gia là nền tảng tạo ra môi trường kinh doanh của mỗi nước đó. Các
quy định pháp luật của mỗi nước tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các công ty tham gia kinh doanh ở thị trường ở nước đó.
b, Môi trường kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế hiểu theo nghĩa rộng là sự gia
tăng khả năng sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu
của xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân mà không để lại những suy
hại trong tương lai cho nền kinh tế. Thước đo chủ yếu sự thành công kinh tế
của một quốc gia là có GDP cao và mức tăng trưởng nhanh, ổn định.

19


Chính sách kinh tế quốc gia: Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định
hướng phát triển nền kinh tế của Nhà nước. Chính sách kinh tế thể hiện: ưu
đãi hay hạn chế đối với một hay một số ngành hay lĩnh vực nào đó.
Chu kỳ kinh doanh: Là sự thăng trầm trong quá trình hoạt động tạo ra
của cải cho xã hội. Chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến công ty về: các quyết
định quản trị của công ty, về sự tồn tại của các công ty.
c, Môi trường công nghệ

Công nghệ là nhân tố có sự thay đổi năng động nhất trong các yếu tố
thuộc môi trường kinh doanh. Sự thay đổi của công nghệ mang lại những
thách thức và nguy cơ đối với công ty. Sự thay đổi của công nghệ còn được
gọi là sự “phá huỷ sáng tạo” luôn mang lại những sản phẩm/dịch vụ mới, nâng
cao năng lực của con người, thay đổi phương pháp làm việc của họ…
Tiến trình đổi mới công nghệ được coi là quá trình phát triển có tính hệ
thống, là khoảng thời gian để biến ý tưởng mới thành sản phẩm hay dịch vụ
có thể tiêu thụ trên thị trường. Tiến trình đổi mới công nghệ làm cho vòng đời
sản phẩm ngày càng ngắn hơn. Nhu cầu đổi mới sản phẩm tăng, nhiều sản
phẩm mới được tung ra thị trường làm cho vòng đời sản phẩm, chu kỳ sản
phẩm ngắn lại.
Sự kết hợp giữa tự động hoá và mạng thông tin toàn cầu cho phép các
công ty thực hiện các giao dịch kinh doanh quốc tế, luân chuyển vốn đầu tư
một cách nhanh chóng, nhờ đó nâng cao khả năng hoạt động năng suất và hiệu
quả.
d, Môi trường quốc tế
Không ai phủ nhận toàn cầu hóa đang là xu thế, và xu thế này đang tạo cơ
hội cho các công ty, các quốc gia trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh.
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa tác động đến tất cả các lĩnh vực
của các nước trên thế giới. Nó vừa thúc đẩy sự phát triển nhưng cũng vừa đem
lại nhiều thách thức và sức ép cạnh tranh cho các công ty.

20


Xu hướng tự do hóa thương mại sẽ thúc đẩy cạnh tranh trong kinh doanh
ngày càng mạnh mẽ hơn. Xu hướng này làm cho thị trường có nhiều biến
động dẫn đến nhiều sự thay đổi trong tổ chức quản lý, cơ cấu đầu tư...
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ trên thế giới cũng như trong
khuôn khổ quốc gia đều ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực của công ty.


oạt

động trong lĩnh vực tài chính bưu chính có tốc độ phát triển về công nghệ cao
thì công nghệ chính là nguồn lực tạo ra sức mạnh cạnh tranh, là vũ khí cạnh
tranh của các công ty. Điều này đòi hỏi công ty phải có khả năng nắm bắt và
đón đầu được sự phát triển khoa học công nghệ, phải có kế hoạch đầu tư đổi
mới công nghệ để nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm tăng
khả năng cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ.
d, Môi trường ngành
- Áp lực của nhà cung cấp:
Áp lực của nhà cung cấp phụ thuộc vào các yếu tố như: Số lượng và quy
mô nhà cung cấp, khả năng thay thế sản phẩm/dịch vụ của nhà cung cấp,
thông tin về nhà cung cấp.
- Áp lực từ khách hàng
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến
áp lực cạnh tranh từ khách hàng:
+ Quy mô
+ Tầm quan trọng
+ Chi phí chuyển đổi khách hàng
+ Thông tin khách hàng
Đặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm quan trọng của họ,
họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của công ty.
- Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới các công ty hiện tại mạnh
hay yếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: Sức hấp dẫn của ngành và những rào
cản gia nhập ngành
21



e, Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm/dịch vụ thay thế
Sản phẩm/dịch vụ thay thế là những sản phẩm/dịch vụ có thể thỏa mãn
nhu cầu tương đương với các sản phẩm/dịch vụ đang cung ứng.
Áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm/dịch vụ thay thế là khả năng
đáp ứng nhu cầu tương tự với các sản phẩm/dịch vụ hiện tại, thêm vào nữa
là các nhân tố về giá, chất lượng, các yếu tố khác của môi trường như văn
hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm/dịch
vụ thay thế.
Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm/dịch vụ thay thế: Ngay cả trong
nội bộ ngành với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản
phẩm/dịch vụ thay thế cho ngành mình.
Chi phí chuyển đổi: ảnh hưởng tới quyết định mua của người tiêu dùng.
g, Áp lực cạnh tranh từ các đối thủ hiện tại
Các công ty đang cung ứng dịch vụ sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra
sức ép trở lại lên ngành. Trong một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức
ép cạnh tranh trên các đối thủ:
- Tình trạng ngành: Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng, số lượng đối
thủ cạnh tranh...
- Cấu trúc của ngành: Ngành tập trung hay phân tán.
- Các rào cản rút lui (Exit Barries): Giống như các rào cản gia nhập
ngành, rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành trở nên
khó khăn.
Thị trường cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính Việt Nam hiện nay đã có
rất nhiều nhà cung cấp. Mặc dù cho các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui
.... là cao, áp lực từ khách hàng không đáng kể nhưng đang có rất nhiều công
ty chuẩn bị gia nhập vào thị trường. Với xu hướng này sức cạnh tranh trong
nội bộ ngành sẽ ngày càng gia tăng và lúc đó người tiêu dùng sẽ ngày càng
được tôn trọng hơn.

22



1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của dịch vụ tài chính bưu
chính
Nhiều nhà kinh tế học đưa ra tiêu chí khác nhau đánh giá năng lực cạnh
tranh trong cung cấp dịch vụ. Có thể đưa ra đây hai nhóm tác giả tiêu biểu sau:
- Theo Gold Smith và Clutter Buck, có 3 tiêu chí đo lường năng lực cạnh
tranh trong cung ứng dịch vụ của công ty là: tăng trưởng tài sản vốn, doanh số
và lợi nhuận trong 10 năm liên tục; sự nổi tiếng trong ngành như là một
công ty dẫn đầu; sản phẩm/dịch vụ được người tiêu dùng ưa chuộng.
- Theo Baker và Hart, có 4 tiêu chí để đo lường năng lực cạnh tranh
trong cung ứng dịch vụ của công ty là tỷ suất lợi nhuận; thị phần; tăng trưởng
xuất khẩu; quy mô
Các cách đánh giá khác nhau đều xoay quanh các tiêu chí: thị phần,
doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, tài sản hữu hình và tài sản vô hình,
phương pháp quản lý, uy tín của công ty, tỷ lệ đội ngũ quản lý có trình độ cao
và lực lượng công nhân lành nghề, chất lượng, giá cả, sự đa dạng hóa sản
phẩm/dịch vụ, hệ thống kênh phân phối… Những yếu tố đó tạo cho công ty
khả năng khai thác mọi hoạt động, tiềm năng với hiệu suất cao hơn đối thủ.
Qua đó, luận văn đưa ra nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
trong cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính của các công ty bưu chính như sau:
1.2.2.1. Chất lượng của dịch vụ
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ có vai trò quan trọng, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ của công ty. Do vậy, để nâng cao
năng lực cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ của công ty trong môi trường cạnh
tranh, các công ty cần phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch
vụ và chú ý đến công tác phục vụ khách hàng để thu hút và tạo sự trung thành
của khách hàng đối với sản phẩm/dịch vụ của công ty mình.
Chất lượng dịch vụ là một yếu tố không thể thiếu khi đánh giá năng
lực cạnh tranh của công ty vì chất lượng dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp tới cảm

nhận và đánh giá của người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch vụ của công ty.
23


×