Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 98 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….3
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC
NGOÀI TRÊN TTCK........................................................................................................ 7
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI .......... 7
1.1.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài....................................................................... 7
1.1.2. Đặc trưng của đầu tư gián tiếp nước ngoài................................................................. 9
1.1.3. Các công cụ đầu tư gián tiếp nước ngoài ................................................................. 10
1.1.4. Các phương thức đầu tư gián tiếp nước ngoài ................................................ 18
1.2. THU HÚT ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI TRÊN TTCK .................... 20
1.2.1. Khái niệm ................................................................................................................... 20
1.2.2. Nội dung thu hút vốn đầu tư gián tiếp trên TTCK................................................... 21
1.2.3. Ảnh hưởng của vốn đầu tư gián tiếp trên TTCK ..................................................... 22
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK.25
1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP TRÊN TTCK Ở
MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI ........................................................................... 30
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc................................................................................... 31
1.3.2. Kinh nghiệm của Malaysia........................................................................................ 33
1.3.3. Kinh nghiệm của Thái Lan ........................................................................................ 35
1.3.4. Kinh nghiệm của Ấn Độ............................................................................................ 36
1.3.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................................... 37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP TRÊN TTCK
VIỆT NAM ....................................................................................................................... 39
2.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ................................................................... 39
2.1.1. Quy mô thị trường...................................................................................................... 39
2.1.2. Quy mô và chất lượng niêm yết ................................................................................ 41
2.1.3. Hệ thống trung gian và dịch vụ chứng khoán .......................................................... 43
2.1.4. Hệ thống các nhà đầu tư ............................................................................................ 46
2.1.5. Hệ thống văn bản, pháp quy ...................................................................................... 47
2.2. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI


TRÊN TTCK VIỆT NAM ........................................................................................... 48
2.2.1. Khung pháp lý về thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK VN.......... 48
2.2.2. Dòng vốn đầu tư gián tiếp trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua ................... 55
1


2.3.2. Đánh giá thực trạng thu hút và kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên
TTCK VN. ............................................................................................................................ 73
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ
TRÊN TTCK VIỆT NAM ............................................................................................... 83
3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN TTCK VÀ ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC
NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỚI ........................................................................... 83
3.1.1. Mục tiêu và định hướng phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2015-2020........... 83
3.1.2. Xu hướng phát triển đầu tư gián tiếp nước ngoài thời gian tới ............................... 86
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP
NƢỚC NGOÀI TRÊN TTCK VIỆT NAM ............................................................... 88
3.2.1. Các giải pháp về chính sách. ..................................................................................... 88
3.2.2. Các giải pháp về thị trường ....................................................................................... 90
3.2.3. Các giải pháp đối với nhà quản lý........................................................................... 903
3.2.4. Giải pháp về con người.............................................................................................. 95
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 97

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài, viết tắt là FPI (Foreign Portfolio Investment) là
hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Đây là hoạt động đầu tư của nhà đầu tư

nước ngoài vào một nền kinh tế chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán (TTCK)
mà nhà đầu tư không trực tiếp quản lý các dự án đầu tư. Cùng với đầu tư trực tiếp,
đầu tư gián tiếp tạo ra kênh dẫn vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà tăng trưởng
kinh tế phụ thuộc phần nhiều vào vốn đầu tư.
Tuy nhiên, báo cáo của World Bank tính đến tháng 6/2014 cho thấy khoảng
80,5% nguồn cung ứng vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam được thực hiện bởi hệ
thống ngân hàng thương mại, TTCK với vai trò trung chuyển vốn trung và dài hạn
cho nền kinh tế chỉ đóng góp chưa đầy 11%. Thực tế này dẫn đến một cấu trúc
nguồn vốn khá rủi ro cho việc phát triển kinh tế Việt Nam khi mà nguồn vốn ngắn
hạn đang thực hiện vai trò thay cho nguồn vốn trung và dài hạn. Do đó, khơi thông
nguồn vốn trên TTCK, trong đó bao gồm cả thu hút đầu tư gián tiếp đang trở thành
nội dung quan trọng trong giai đoạn tái cấu trúc TTCK Việt Nam hiện nay. Đây
cũng chính là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút vốn đầu tư gián tiếp ở
hầu hết tất cả các nước.
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá các nhân
tố ảnh hưởng đến dòng vốn FPI, từ đó tìm ra những giải pháp, khuyến nghị để thu
hút nguồn vốn này. Cụ thể, nghiên cứu của Gumus và Gungor (2012) chỉ rõ tác
động của các biến số kinh tế vĩ mô đến tốc độ tăng trưởng dòng vốn FPI trên TTCK
Thổ Nhĩ Kỳ. Xiong và Ze (2013) xem xét các yếu tố quyết định đến d ng vốn FPI
tại 13 quốc gia đang phát triển ở khu vực châu

và M Latinh trong giai đoạn

1981 - 2011. Kết quả cho thấy dòng vốn FPI chịu tác động chính bởi tỷ giá và biến
động rủi ro của TTCK. Onuorah và

kujuobi 2013 nghiên cứu tác động của các

biến số kinh tế vĩ mô là GDP, cung tiền, lãi suất, tỷ giá và lạm phát đến FPI tại


3


Nigeria trong giai đoạn 1980 đến 2010 và đưa ra các kết luận tương tự... Như vậy,
các nghiên cứu thực nghiệm nêu trên khẳng định có một mối tương quan nhất định
giữa các yếu tố vĩ mô và biến động của TTCK đến dòng vốn FPI.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về FPI cho đến thời điểm hiện tại chủ yếu tập
trung vào các chính sách thu hút, kiểm soát dòng vốn này, chưa có nghiên cứu nào
đánh giá và lượng hoá các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn FPI trên TTCK từ đó
đưa ra các biện pháp thu hút vốn FPI một cách hiệu quả. Do đó, với mong muốn
đánh giá tổng quan, hệ thống hoá các yếu tố kinh tế vĩ mô và biến động TTCK có
thể ảnh hưởng đến dòng vốn FPI, trên cơ sở đó sẽ đưa ra một số khuyến nghị cho
các nhà hoạch định chính sách, đề tài “THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP
NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN” được lựa chọn để
nghiên cứu.
2. Tổng quan nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu tại nước ngoài
Đến nay, trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu lý thuyết lẫn thực tiễn về
các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn FPI trên TTCK. Các nghiên cứu thường
thực hiện trong phạm vi quốc gia ở những nước có TTCK đang phát triển. Điển
hình là nghiên cứu của Francis (2010) về ảnh hưởng quy mô TTCK đến việc thu hút
vốn FPI trên TTCK Nigeria trong giai đoạn 1980 - 2010. Nghiên cứu đã sử dụng
mô hình hồi quy để đánh giá ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận đầu tư trong nước,
mức vốn hoá thị trường đến quy mô dòng vốn FPI. Kết quả cho thấy mối quan hệ
hai chiều giữa các biến số này, trong đó nhấn mạnh ảnh hưởng mức vốn hoá thị
trường đến vốn FPI.
Malaysia là một nước đang phát triển với TTCK được đánh giá có sức hấp
dẫn lớn đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp từ các nhà đầu tư nước ngoài. Để lượng
hoá cụ thể mức độ hấp dẫn này, Jarita và Salina 2009 đã nghiên cứu mối quan hệ

giữa vốn FPI và tăng trưởng kinh tế và khẳng định mặc dù dòng vốn FPI có ảnh
hưởng rất nhỏ tới tăng trưởng kinh tế ở Malaysia, nhưng tăng trưởng kinh tế sẽ giúp
tăng khả năng thu hút d ng vốn FPI cho quốc gia này.

4


Cùng với Malaysia, Thái Lan cũng là quốc gia có sức hút lớn đối với dòng
vốn FPI trong 40 năm phát triển TTCK. Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tài chính
1997, nhiều chính sách hấp dẫn đã được đưa ra nhằm thu hút dòng vốn này, tuy
nhiên kết qủa không được như mọng đợi. Do đó các nhà nghiên cứu đã tập trung
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc dịch chuyển dòng vốn này trong nền kinh
tế, từ đó có những giải pháp thích hợp. Nghiên cứu của Gan và Christopher (2008)
tập trung vào câu hỏi liệu cuộc khủng hoảng tài chính 1997 có ảnh hưởng đến việc
đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường này hay không. Kết quả cho
thấy, khủng hoảng 1997 không ảnh hưởng đến các nhân tố quyết định đến dòng vốn
FPI vào Thái Lan nhưng có mối tương quan dương với tốc độ tăng trưởng vốn FPI
trong 10 năm sau khủng hoảng.
Tại Ấn độ, các nghiên cứu tương tự cũng được thực hiện trên TTCK Bombay.
Với kênh vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, ngoài FPI, quốc gia này còn sử dụng thuật
ngữ FII (Foreign Institution Investment). Vốn FII đại diện cho vốn của các nhà đầu tư
tổ chức nước ngoài, là một phân nhánh của FPI (gồm vốn của NĐT cá nhân và tổ
chức nước ngoài . Tuy nhiên, đầu năm 2014, Ấn Độ đã ban hành quy định (có hiệu
lực từ 07/01/2014) quyết định hợp nhất FII cùng với các dạng đầu tư nước ngoài khác
gồm SAC (Sub-Accounts) và QFI (Qualified Foreign Investors) vào một nhóm duy
nhất là FPI. Nghiên cứu của Pami và Reetica (2013) chỉ ra các biến số vĩ mô như
GDP, lãi suất, tỷ giá, lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến việc luân chuyển dòng vốn FII
nhưng ảnh hưởng này không rõ ràng đối với dòng vốn FPI nói chung.
Các nghiên cứu định luợng trên thuờng dựa trên số liệu vĩ mô theo một chu i
thời gian tương đối dài hoặc dữ liệu mảng từ cơ sở dữ liệu khá rộng về TTCK để

đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trên tới dòng vốn FPI. Các mô hình kinh
tế lượng thường được sử dụng trong các nghiên cứu là mô hình V R, SV R, OLS,
IV với các biến số khác nhau nhưng thường bao gồm các biến GDP hoặc giá trị sản
xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng hoặc lạm phát, lãi suất mục tiêu, lãi suất cho
vay, chỉ số chứng khoán ... Nhìn chung, các nghiên cứu này đã cung cấp một hệ
thống cơ sở l luận cũng như phương pháp nghiên cứu định lượng khá chu n mực,

5


bài bản và toàn diện về ảnh hưởng của các biến số vĩ mô và TTCK đến dòng vốn
FPI. Vì vậy, việc tổng hợp, phân tích và học hỏi các nghiên cứu này là cần thiết để
tạo ra nền tảng cho nghiên cứu thực trạng và xây dựng mô hình kinh tế lượng cho
nghiên cứu tại Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, nghiên cứu về FPI chủ yếu thực hiện từ giai đoạn những năm
2000 trở lại đây khi TTCK chính thức đi vào hoạt động. Các nghiên cứu tập trung
tìm hiểu nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm
rút ra kinh nghiệm và bài học đối với Việt Nam trong việc thu hút và kiểm soát vốn
FPI một cách hiệu quả. Một số nghiên cứu mang tính lý luận như của Nguyễn Hồng
Sơn 2005 hệ thống hoá khung lý thuyết về điều tiết sự di chuyển của dòng vốn
FPI ở một số nước đang phát triển trong giai đoạn 1990 - 2000; đồng thời phân tích
những tác động của dòng vốn đầu tư FPI đến phát triển kinh tế ở các quốc gia này
nhằm đưa ra các khuyến nghị chính sách. Đặng Minh Tiến (2008) trong luận án tiếp
s của mình đã đề cập đến chính sách thu hút và quản lý dòng vốn FPI ở Việt Nam
trên cơ sở phân tích thực trạng dòng vốn này trên TTCK, chỉ ra những kết quả đạt
được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.
Ngoài ra, một vài nghiên cứu về FPI khác cũng đề cập đến thu hút và quản lý
vốn FPI ở Việt nam như “Thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, kinh
nghiện từ Trung Quốc” của tác giả Nguyễn Đông Chiều; “Phát triển bền vững

TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Phạm Huy
Hùng; “Managing Capital Flows: the case of Vietnam” tác giả Võ Trí Thành,
Phạm Chí Quang. Bài viết ấn ph m: “Nâng hạng TTCK - Giải pháp thu hút vốn đầu
tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Góp phần thay đổi diện mạo nền kinh tế, tạo
hiệu ứng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp” của văn ph ng
UBCK. Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ dừng lại ở các bài báo đăng tải ở các
tạp chí, hội thảo, chưa có một nghiên cứu nào chuyên sâu, mang tính định lượng và
định tính về FPI. Và quan trọng hơn cả chưa có một nghiên cứu nào lượng hoá ảnh
hưởng của các nhân tố đến thu hút vốn FPI trên TTCK Việt Nam.

6


3. Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề lý luận về vốn FPI và các yếu tố ảnh hưởng đến
vốn FPI trên TTCK.
- Phân tích thực trạng vốn FPI trên TTCK Việt Nam và các nhân tố ảnh
hưởng đến dòng vốn FPI.
- Đề xuất các biện pháp thu hút vốn FPI trên TTCK Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề vốn FPI và các nhân
tố ảnh hưởng đến vốn FPI trên TTCK Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Dòng vốn FPI trên TTCK Việt Nam từ năm 2000 đến
tháng 9 năm 2014.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích - tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp; các sơ đồ, bảng biểu, đồ thị và các mô hình kinh tế lượng để làm
tăng thêm tính trực quan và thuyết phục.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở luận về thu hút vốn FPI trên TTCK.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn FPI trên TTCK Việt Nam.
Chương 3: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường thu hút vốn FPI trên
TTCK Việt Nam.
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (viết tắt là FPI -Foreign Portfolio Investment) là
hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó bao hàm các hoạt động mua tài sản

7


tài chính nước ngoài nhằm thu lợi nhuận. Hình thức đầu tư này không kèm theo
việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp
như trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Điều 3, Luật Đầu tư Việt Nam 2005 quy định: Đầu tư gián tiếp là hình thức
đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác;
thông qua các qu đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung
gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Theo định nghĩa của Qu Tiền tệ quốc tế IMF : FPI được định nghĩa là:
“hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu được phát hành bởi một
công ty hoặc cơ quan chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong
nước hoặc nước ngoài”.
Như vậy có thể thấy, FPI là hoạt động đầu tư chủ yếu thông qua thị trường
tài chính. Mặc dù vậy, ranh giới hiện nay của vốn FPI cũng đã có nhiều thay đổi do
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, các nhà đầu tư vốn gián tiếp nước
ngoài có thể tham gia vào quản trị, điều hành công ty, hỗ trợ tiếp cận công nghệ,

tiếp cận thị trường… trong hoạt động của các công ty, qua đó đã góp phần mang
lại các giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Khác với đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia điều hành đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, đầu tư gián tiếp được biểu hiện qua các hình thức sau đây:
Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thị trường tài chính mua cổ phần hoặc
chứng khoán của các công ty ở nước ngoài nhằm thu lợi nhuận dưới hình thức cổ
tức hoặc thu nhập chứng khoán.
Tín dụng quốc tế, là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn thu lợi nhuận
qua lãi suất tiền vay, chủ đầu tư thu lợi nhuận ổn định qua lãi tiền vay, không phụ
thuộc vào hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong các hình thức tín dụng quốc tế có một tín dụng quốc tế đặc biệt là
Nguồn vốn h trợ phát triển chính thức (Official Development Asistance) gọi tắt là
ODA. Nhưng nếu chỉ tập trung tìm kiếm nguồn ODA mà không có biện pháp thu

8


hút và sử dụng tốt các nguồn FDI và nguồn tín dụng khác thì không thể phát triển
sản xuất, tăng nguồn thu cho Nhà nước để trả nợ vốn vay ODA.
1.1.2. Đặc trƣng của đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
1.1.2.1. Tính thanh khoản cao
Do chỉ quan tâm đến lợi tức (với một mức rủi ro nhất định) hoặc mức độ an
toàn của chứng khoán (với một mức lợi tức nhất định) chứ không quan tâm đến việc
quản lý quá trình sản xuất và kinh doanh thực tế nên FPI có tính thanh khoản cao.
Nói cách khác, nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể dễ dàng bán lại những chứng
khoán vốn và chứng khoán nợ mà họ đang nắm giữ để đầu tư vào nơi khác với mức
tỷ suất lợi tức cao hơn và một mức rủi ro nhất định, hay với một mức rủi ro thấp
hơn và với một mức tỷ suất lợi tức nhất định. Tính thanh khoản cao của FPI khiến
cho hình thức đầu tư này mang tính ngắn hạn, mặc dù cổ phiếu được coi là hình
thức đầu tư dài hạn và nhiều loại trái phiếu có thời hạn lớn hơn một năm. Chính vì

vậy mà dòng vốn FPI đưa vào cũng rất nhanh và rút ra cũng rất nhanh, tùy theo
động thái nóng lạnh của TTCK cũng như sự tác động của chính sách quản lý của
nhà nước bản địa.
1.1.2.2. Tính bất ổn lớn
Do có thể thay đổi rất nhanh để tìm kiếm tỷ suất lợi tức cao hơn hay để có
được mức độ rủi ro thấp hơn nên FPI c n có đặc tính bất ổn định và dễ bị đảo
ngược. Tính bất ổn định, trong một giới hạn nào đó, có thể là có lợi khi nó cung cấp
những cơ hội kinh doanh với lợi nhuận cao hoặc những cơ hội kinh doanh chênh
lệch giá. Những cơ hội này sẽ thu hút các nhà đầu tư và khiến cho thị trường tài
chính nội địa hoạt động hiệu quả hơn. Tính bất ổn định còn chỉ ra rằng thị trường
đang tìm kiếm những hình thức phân bổ vốn tốt nhất cho những cơ hội kinh tế hiện
hành. Tuy vậy, nếu điều này xảy ra thường xuyên và với mức độ lớn, những tác
động tiêu cực tới hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ xuất hiện.
Hơn thế nữa, tính thanh khoản cao cùng với tính bất ổn định của FPI còn có thể dẫn
tới tình trạng rút vốn ồ ạt khi có sự thay đổi trong quan niệm của giới đầu tư hoặc
của các điều kiện kinh tế bên trong cũng như bên ngoài.

9


1.1.2.3. Hình thức biểu hiện đa dạng
Vốn FPI có đặc tính là tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và rất phức tạp
như trái phiếu, cổ phiếu, giấy nợ thương mại hoặc dưới dạng các công cụ phái sinh
như giao dịch có kì hạn, tương lai, quyền chọn…
Những số liệu thống kê về vốn FPI thường rất khó thu thập và được chỉ ra
trong tài khoản vốn của cán cân thanh toán của các nước.
1.1.3. Các công cụ đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
FPI là dòng vốn gián tiếp nước ngoài di chuyển vào các nước đang phát triển
được đầu tư vào các chứng khoán cổ phần hoặc các chứng khoán nợ. Do đó, đầu tư
gián tiếp không trực tiếp làm tăng lượng tài sản cố định trong nền kinh tế như đầu

tư trực tiếp. Bên cạnh đó khi thực hiện đầu tư gián tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài
không quan tâm đến quá trình sản xuất, kinh doanh thực tế, và chỉ quan tâm đến lợi
tức (với một mức rủi ro nhất định) hoặc sự an toàn của những chứng khoán mà họ
đầu tư vào với một mức lợi tức nhất định). Về cơ bản, FPI được thực hiện thông
qua các công cụ đầu tư sau:
1.1.3.1. Chứng khoán nợ
TTCK nợ gồm các khoản vay dài hạn hoặc công cụ nợ có kỳ hạn dài hơn
những chứng khoán khác trên thị trường tiền tệ. Thị trường này bao gồm trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được
thế chấp bởi các khoán tín dụng cho vay mua nhà, các khoản nợ liên bang. Những
công cụ này đôi khi c n được gọi là chứng khoán có thu nhập cố định, bởi vì hầu
hết những công cụ này đều cam kết thanh toán dòng tiền cố định hoặc dòng thu
nhập của những chứng khoán này được xác định theo những công thức cụ thể.
(1) Trái phiếu chính phủ trung hạn và dài hạn
Chính phủ là một chủ thể phát hành quan trọng trên thị trường trái phiếu.
Trong quá trình hoạt động, chính phủ luôn cần các nguồn vốn tài trợ cho các hoạt
động của mình. Các Chính phủ thường phát hành trái phiếu nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách (bao gồm cả chi thường xuyên và đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng) và tài trợ cho các khoản vay đến hạn. Trái phiếu Chính phủ được coi là loại

10


trái phiếu phi rủi ro thanh toán trong điều kiện kinh tế bình thường, không có chiến
tranh hoặc đảo chính..., do vậy các nhà đầu tư thường ưa thích lựa chọn đầu tư vào
trái phiếu Chính phủ hơn là đầu tư vào trái phiếu công ty.
(2) Trái phiếu tổ chức chính phủ (Federal Agency Debt)
Ở một số nước, chính phủ thành lập ra các tổ chức hoặc cho phép một số tổ
chức đặc biệt được phát hành trái phiếu dưới sự bảo lãnh của Chính phủ. Các trái
phiếu này được gọi là trái phiếu do các tổ chức Chính phủ phát hành. Một số các tổ

chức này thuộc sở hữu Chính phủ, và do đó có thể được xem như những chi nhánh
của Chính phủ. Các tổ chức này khi phát hành trái phiếu không cần phải đăng k
với Uỷ ban chứng khoán Quốc gia. Các trái phiếu phát hành được đảm bảo bởi định
mức tín nhiệm của Chính phủ. Ngoài các tổ chức trên, Chính phủ một số nước còn
cho phép thành lập một số tổ chức đặc biệt với mục tiêu mang lại một phần phúc lợi
xã hội cho một tầng lớp dân cư bằng việc h trợ chi phí vay vốn. Các thành phần
hưởng lợi bao gồm nông dân, người mua nhà và sinh viên.
Mặc dù những trái phiếu của các tổ chức Chính phủ không hoàn toàn được
đảm bảo bởi Chính phủ liên bang, nhưng chúng ta đều hiểu rằng Chính phủ sẽ đứng
đằng sau h trợ nếu những tổ chức này sắp phá sản. Ví dụ, cuộc khủng hoảng tài
chính 2007-2009 tại M đã tạo ra các khoản l khổng lồ cho Freddie Mac và Fannie
Mae. Tháng 9/2008, Chính phủ M đã phải tiếp quản hai tập đoàn này và bơm hàng
trăm tỷ USD để tránh phá sản. Vì vậy, những chứng khoán của các tổ chức đó được
xem là những tài sản đầu tư hoàn toàn an toàn, và mức chênh lệch lãi suất giữa các
trái phiếu này với tín phiếu Kho bạc là không đáng kể.
(3) Trái phiếu quốc tế (International bonds)
Nhiều Chính phủ và công ty thực hiện vay nợ trên thị trường tài chính quốc
tế thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế. Có thể hiểu, trái phiếu quốc tế là là
loại trái phiếu được phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn từ
các nhà đầu tư trên thế giới. Theo thị trường phát hành, trái phiếu quốc tế có thể
chia thành trái phiếu nước ngoài và trái phiếu châu Âu (Eurobond).

11


Trái phiếu nước ngoài là loại trái phiếu do nhà phát hành ở một nước này
phát hành trái phiếu trên thị trường vốn của một nước khác bằng đồng tiền của nước
mà trái phiếu được phát hành và người phát hành phải tuân thủ hệ thống pháp lý về
phát hành chứng khoán ở nước đó.
Eurobond là loại trái phiếu được phát hành đồng thời ở nhiều nước, nhiều

trung tâm tài chính quốc tế và thông thường được phát hành bằng đồng tiền khác
với đồng tiền của nước mà trái phiếu được bán ra ở đó
(4) Trái phiếu chính quyền địa phƣơng
Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu được phát hành bởi chính
quyền địa phương hoặc các bang (M ). Trái phiếu này tương tự như trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu doanh nghiệp ngoại trừ tiền lãi trái phiếu được miễn trừ thuế thu
nhập. Chính quyền địa phương phát hành loại trái phiếu này nhằm mục đích huy
động vốn đầu tư phát triển cho điện nước, giáo dục, nhà cửa, công nợ chung…
(5) Trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty là công cụ cho phép các công ty tư nhân vay tiền trực tiếp
từ công chúng đầu tư. Những trái phiếu này giống như trái phiếu chính phủ - thanh
toán lãi trái phiếu định kỳ nửa năm trong suốt kỳ hạn trái phiếu và thanh toán mệnh
giá cho người nắm giữ trái phiếu khi đáo hạn. Tuy nhiên, trái phiếu công ty có một
đặc điểm quan trọng khác biệt so với trái phiếu chính phủ là mức độ rủi ro. Rủi ro
vỡ nợ là vấn đề thực tế cần xem xét khi mua trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty
được chia thành ba loại là trái phiếu có đảm bảo – trái phiếu có tài sản đảm bảo
trong trường hợp công ty mất khả năng thanh toán và trái phiếu không có đảm bảo
thường được gọi là debentures) – là trái phiếu không có tài sản đảm bảo; và trái
phiếu thứ cấp – là trái phiếu có quyền ưu tiên thấp hơn về quyền lợi thanh toán từ
tài sản của công ty trong trường hợp công ty mất khả năng thanh toán.
(6) Trái phiếu đƣợc đảm bảo bởi các khoản vay thế chấp
Chứng khoán hoá là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài
sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các
loại chứng khoán nợ. Thay vì cách làm truyền thống là mang các tài sản này ra ngân

12


hàng làm thế chấp để vay tiền thì doanh nghiệp (chủ thể tạo lập tài sản) sử dụng
chúng làm cơ sở đảm bảo phát hành các chứng khoán nợ cho các nhà đầu tư. Như

vậy, thay vì phải đi vay ngân hàng với một lãi suất cao và thường với kỳ hạn ngắn
thì việc chứng khoán hoá tài sản tạo một kênh huy động vốn dài hạn với lãi suất hấp
dẫn hơn nhiều thông qua việc chuyển rủi ro trực tiếp cho các nhà đầu tư. Nói cách
khác, chứng khoán hoá là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo
bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Sản
ph m chứng khoán hoá truyền thống liên quan đến các khoản cho vay thế chấp mua
nhà gọi là MBS (Mortgage Backed Securities). Trái phiếu MBS là dạng sơ khai
nhất của chứng khoán hoá dùng danh mục cho vay thế chấp mua nhà làm tài sản
đảm bảo.
Trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp mua nhà được giới
thiệu đầu tiên bởi Hiệp hội cho vay thế chấp quốc gia (GNMA - Ginnie Mae) trong
năm 1970. Chứng khoán GNMA có sự đảm bảo từ chính phủ M rằng Chính phủ sẽ
đảm bảo thanh toán gốc và lãi suất trái phiếu đúng hạn, ngay cả khi người vay mất
khả năng thanh toán. Sự đảm bảo này làm tăng tính lỏng của những chứng khoán
trên. Do đó, nhà đầu tư có thể mua hoặc bán chứng khoán GNMA giống như bất kỳ
chứng khoán nào.
1.1.3.2. Chứng khoán vốn
Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu của người nắm
giữ đối với một phần vốn trong công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phiếu được gọi
là cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu công ty phát hành. Cổ đông được hưởng
khoản thu nhập từ lợi nhuận của công ty được gọi là cổ tức. Dựa vào quyền lợi
mang lại cho người nắm giữ cổ phiếu, cổ phiếu được chia thành cổ phiếu thường và
cổ phiếu ưu đãi.
* Cổ phiếu thường (Cổ phiếu phổ thông)
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu thường được gọi là cổ đông
thường. Cổ đông thường có quyền được phân chia lợi luận thông qua việc nhận cổ

13



tức nếu công ty hoạt động có lãi, có quyền tham gia họp đại hội cổ đông hàng năm.
Cổ đông thường c n được bỏ phiếu, biểu quyết quyết định những vấn đề quan trọng
của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào hội đồng quản trị của công ty. Đối
với nhà đầu tư, hai đặc điểm quan trọng nhất của cổ phiếu thường như một công cụ
đầu tư là hưởng lợi cuối cùng và trách nhiệm nợ hữu hạn.
Hưởng lợi cuối cùng: có nghĩa là cổ đông thường là người cuối cùng có
quyền đối với tài sản và thu nhập của công ty. Khi công ty kinh doanh có lợi nhuận,
cổ đông thường là người sau cùng được phân chia lợi nhuận thông qua việc nhận cổ
tức bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu. Trong trường hợp công ty phá sản hoặc giải thể,
cổ đông thường là người được thanh toán phần tài sản còn lại sau cùng sau khi đã
thanh toán cho các chủ thể như nhà nước, người lao động, nhà cung cấp, trái chủ,
người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi.
Trách nhiệm nợ hữu hạn có nghĩa là các cổ đông thường chỉ phải chịu trách
nhiệm trong phần vốn đã góp vào công ty. Trong trường hợp xấu nhất, cổ đông
thường có thể mất toàn bộ số vốn đã bỏ ra để có được số cổ phiếu trước đó, mà
không phải gánh chịu các khoản nợ của công ty bằng tài sản khác của mình.
* Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi có những đặc điểm của cả cổ phiếu thường và trái phiếu.
Giống như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi cam kết thanh toán cho người nắm giữ một
khoản thu nhập cố định m i năm. Theo đặc điểm này cổ phiếu ưu đãi tương tự như
trái phiếu có thời gian đáo hạn vĩnh viễn. Cổ phiếu ưu đãi cũng mang những đặc
điểm khác của trái phiếu như không có quyền bỏ phiếu trong công ty. Tuy nhiên, cổ
phiếu ưu đãi là một chứng khoán vốn. Công ty sẽ ưu tiên thanh toán cổ tức và giá trị
thanh lý cho cổ đông ưu đãi trước cổ đông thường, nhưng công ty không có nghĩa vụ
phải thanh toán luồng cổ tức này. Thay vào đó, cổ tức cổ phiếu ưu đãi thường được
tích lũy cộng dồn , do đó những khoản cổ tức chưa trả sẽ được tích lũy và phải được
thanh toán đầy đủ trước khi bất kỳ khoản cổ tức nào được trả cho cổ đông thường.
Ngược lại đối với trái phiếu, công ty có nghĩa vụ bắt buộc thanh toán nợ. Nếu công ty
không đủ khả năng thanh toán d ng tiền này công ty có thể bị phá sản.


14


Cổ phiếu ưu đãi cũng khác so với trái phiếu ở đặc điểm thuế thu nhập. Do
phần thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi được xem như cổ tức thay vì trái tức, nên cổ
tức cổ phiếu ưu đãi không được miễn giảm chi phí thuế thu nhập cho công ty.
Cổ phiếu ưu đãi được phát hành với những hình thức khác nhau tương tự
như trái phiếu. Cổ phiếu ưu đãi có thể được mua lại bởi công ty phát hành, trong
trường hợp này cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ phiếu có thể mua lại. Cổ phiếu ưu
đãi cũng có thể được chuyển thành cổ phiếu thường theo một tỷ lệ chuyển đổi nhất
định. Gần đây, chúng ta c n biết đến cổ phiếu ưu đãi có lãi suất điều chỉnh, giống
như trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, gắn thanh toán cổ tức cổ phiếu ưu đãi với lãi
suất thị trường hiện hành.
1.1.3.3 Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán được phát sinh từ một tài sản cơ
sở hoặc từ một chứng khoán gốc mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị, trạng thái
của tài sản cơ sở hoặc chứng khoán gốc đó. Chứng khoán phái sinh ra đời nhằm
cung cấp cho thị trường các công cụ tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro. Ngày nay các
công cụ phái sinh đã phát triển đến một trình độ cao với sự ra đời của hàng loạt các
gốc phái sinh đa dạng, tạo ra các sản ph m tài chính hiện đại đáp ứng nhu cầu đa
dạng của các chủ thể tham gia thị trường. Chứng khoán phái sinh không những chỉ
là công cụ giảm thiểu rủi ro mà còn trở thành công cụ đầu cơ rủi ro.
Các chứng khoán phái sinh chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thị truờng
chứng khoán các nước bao gồm hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn,
hợp đồng hoán đổi, quyền chọn h n hợp và các sản ph m tài chính mới.
Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người
bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một
thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm
nay. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng hay ngày

đáo hạn. Thời gian từ khi ký hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của hợp
đồng. Giá xác định áp dụng trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là giá kỳ hạn.Tại
thời điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn, không hề có sự trao đổi tài sản cơ sở hay thanh

15


toán tiền. Hoạt động thanh toán xảy ra trong tương lai tại thời điểm xác định trong
hợp đồng. Vào lúc đó, hai bên tham gia hợp đồng buộc phải thực hiện nghĩa vụ
mua, bán theo mức giá đã xác định, bất kể giá thị trường lúc đó là bao nhiêu.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng tương lai. Một cách tổng quát
nhất, có thể hiểu hợp đồng tương lai là một thỏa thuận mua và bán một loại hàng
hóa hoặc một công cụ tài chính nào đó vào một thời điểm trong tương lai mà giá cả,
số lượng, chất lượng và mẫu mã của hàng hóa được xác định rõ vào thời điểm mở
hợp đồng. Khác với hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai là một ràng buộc hay
nghĩa vụ phải thực hiện (obligation). Rủi ro đối với người mua và người bán là vô
hạn. Giao dịch tương lai là một “tr chơi có tổng bằng không”, nghĩa là số tiền mất
và được của m i bên tham gia là tương đương nhau và ngược chiều.
Hiện nay trên thế giới đã phát triển nhiều loại hình hợp đồng tương lai. Một
cách tổng quát, có thể phân chia hợp đồng tương lai thành hai loại chủ yếu bao gồm:
Hợp đồng tương lai về hàng hóa: trên thị trường có nhiều loại hợp đồng tương
lai cho các sản ph m hàng hóa “thực”, bao gồm hợp đồng tương lai của các loại
nông sản lúa mì, ngô, đậu tương, đường, cacao, cà phê … kim loại (vàng, bạc,
platium, nhôm, thiếc , năng lượng (dầu thô, khí ga …
Hợp đồng tương lai về tài chính: là loại hợp đồng tương lai dựa trên tài sản cơ
sở là các tài sản tài chính. Sau đây là mô tả một vài loại hợp đồng tương lai có gốc
phái sinh thông dụng như lãi suất, chỉ số chứng khoán và tiền tệ.
Quyền chọn là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua quyền có
quyền mua hoặc bán một loại tài sản cơ sở vào thời điểm nhất định trong tương lai với
mức giá xác định trước. Quyền chọn bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán.

Quyền chọn mua là loại quyền chọn cho phép người mua quyền được quyền
mua một khối lượng hàng hóa tại một thời điểm xác định trong tương lai với giá cả
được ấn định trước.
Quyền chọn bán là loại quyền chọn cho phép người mua quyền được quyền
bán một khối lượng hàng hóa tại một thời điểm xác định trong tương lai với giá cả
được ấn định trước.

16


Khi người mua quyền thực hiện quyền của mình thì người bán quyền phải có
nghĩa vụ thực hiện mua hoặc bán hàng hóa cơ sở.
Hợp đồng hoán đổi là một dạng cam kết mua bán có kỳ hạn. Về bản chất, hợp
đồng hoán đổi là một chu i các hợp đồng có kỳ hạn. Hợp đồng hoán đổi là cam kết
hợp đồng giữa hai bên trao đổi một chu i các dòng tiền trong tương lai. Thông
thường một dòng tiền trao đổi được xác định trước trong khi dòng tiền kia phụ
thuộc vào biến động của gốc phái sinh trong tương lai.
Sáng tạo tài chính Financial Engineering được hiểu là cách thức chế biến
rủi ro tài chính nhằm tạo ra các sản ph m mới. Sự phát triển của các sáng tạo tài
chính bắt nguồn từ nhu cầu tăng cường cạnh tranh của các ngân hàng đầu tư, sự
thay đổi về các chính sách thuế, môi trường pháp lý, nhu cầu huy động vốn và áp
lực lợi nhuận. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và các mô
hình toán trong vài thập kỷ qua tạo ra những tiền đề quan trọng giúp cho quá trình
phát triển của các sáng tạo tài chính.
Một số sáng tạo tài chính trong vài thập kỷ gần đây bao gồm:
- Chứng khoán hóa: là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo
bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính có sẵn. Do đó,
các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro (tín dụng, thanh toán sớm) với
danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
- Các sản ph m phái sinh đã trình bày ở phần trên)

- Trái phiếu cơ cấu: là việc lai tạo, cấy ghép các sản ph m phái sinh vào trong
các sản ph m đầu tư nhằm tạo ra các sản ph m mới đáp ứng các nhu cầu đa dạng
của khách hàng. Trái phiếu cơ cấu cho phép nhà đầu tư tiếp cận với nhiều loại rủi ro
khác nhau trong cùng một sản ph m (rủi ro tín dụng, lãi suất, tỷ giá, giá cổ phiếu,
giá hàng hóa), thay vì các trái phiếu truyền thống đơn giản trước kia. Dòng tiền mặt
thanh toán của trái phiếu cơ cấu sẽ phụ thuộc vào sự biến động của các rủi ro cấy
ghép vào trong sản ph m).

17


1.1.4. Các phƣơng thức đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
Theo điều 26 về Luật đầu tư Việt Nam 2005 quy định các hình thức đầu tư gián
tiếp tại Việt Nam bao gồm:
(1) Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có
giá khác của các doanh nghiệp, của Chính phủ và của các tổ chức tự trị được phép
phát hành trên thị trường tài chính.
Cụ thể, trên TTCK, Bộ tài chính đã ban hàng Quyết định 121/2008 về quy
chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trong đó nêu rõ nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện đầu tư trên TTCK Việt Nam dưới các hình thức sau:
(i) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán niêm yết khác trên
Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán hoặc đăng k giao
dịch tại các công ty chứng khoán;
(ii) Mua, bán cổ phần và các loại chứng khoán chưa niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán hoặc chưa đăng k giao dịch
tại các công ty chứng khoán;
iii Tham gia đấu giá mua chứng khoán, đấu giá mua cổ phần tại các doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hoá
(iv) Tham gia góp vốn thành lập qu đầu tư chứng khoán với tỷ lệ góp vốn
của bên nước ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;

(v) Tham gia góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ góp vốn của
bên nước ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg ngày 15/04/2009 quy định về tỷ lệ
tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Đối với cổ phiếu, nhà
đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam được nắm giữ tối đa
49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng. Trường hợp pháp luật chuyên
ngành có quy định khác thì áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Trường hợp tỷ lệ sở hữu bên nước ngoài được phân loại theo danh mục các ngành
nghề cụ thể thì áp dụng theo danh mục phân loại.

18


M i nhà đầu tư nước ngoài được mở một Tài khoản Vốn đầu tư gián tiếp
bằng đồng Việt Nam tại một một ngân hàng lưu k được phép kinh doanh ngoại hối
để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam. Việc mở, đóng, sử dụng và
quản lý Tài khoản Vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam phải phù hợp với các
quy định pháp luật có liên quan do NHNN ban hành.
Mọi giao dịch chuyển tiền để thực hiện việc mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ qu , chuyển nhượng vốn góp trong các hoạt động đầu tư quy định
tại khoản 1 Điều 3 Quyết định 121, các thanh toán khác liên quan đến hoạt động
đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài; nhận và sử dụng cổ tức, lợi tức
được chia, mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động kinh doanh
ngoại hối tại Việt Nam để chuyển ra nước ngoài và các giao dịch khác có liên quan
đều phải thực hiện thông qua tài khoản này.
(2) Thực hiện đầu tư thông qua việc uỷ thác quản lý vốn đầu tư cho công ty
quản lý quỹ trên cơ sở Hợp đồng quản lý đầu tư ký với công ty quản lý quỹ.
Nhà đầu tư nước ngoài được ủy quyền cho công ty quản lý qu thực hiện các
hoạt động đầu tư như trong hình thức đầu tiên theo Hợp đồng chỉ định đầu tư hoặc
Hợp đồng quản l đầu tư. Ngoại trừ công ty quản lý qu được cấp phép hoạt động

tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài không được ủy quyền cho bất kỳ cá nhân, tổ
chức nào để thực hiện các hoạt động quản lý tài sản, bao gồm các hoạt động lựa
chọn loại chứng khoán, khối lượng chứng khoán, mức giá, thời điểm thực hiện giao
dịch và đầu tư chứng khoán.
Trường hợp ủy quyền thực hiện các hoạt động đầu tư, giao dịch chứng
khoán, nhà đầu tư nước ngoài phải bảo đảm các chỉ thị giao dịch cho các cá nhân, tổ
chức cùng với các lệnh giao dịch mà nhà đầu tư trực tiếp thực hiện hoặc cùng người
có liên quan của nhà đầu tư thực hiện không nhằm mục đích tạo cung, cầu giả tạo,
thao túng giá chứng khoán.
Công ty quản lý qu mở Tài khoản Vốn đầu tư gián tiếp để tiếp nhận vốn đầu
tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư tại
Ngân hàng lưu k . Nhà đầu tư nước ngoài uỷ thác quản lý vốn đầu tư trong hoạt

19


động quản lý danh mục đầu tư cho Công ty quản lý qu phải chuyển vốn đầu tư vào
Tài khoản Vốn đầu tư gián tiếp của Công ty quản lý qu . Quy định này không áp
dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài ủy thác quản lý vốn đầu tư dưới danh nghĩa của
nhà đầu tư và trên tài khoản của nhà đầu tư theo Hợp đồng chỉ định đầu tư.
1.2. THU HÚT ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI TRÊN TTCK
1.2.1. Khái niệm
Thu hút vốn FPI trên TTCK là việc chính phủ thực hiện các biện pháp
khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm các nguồn vốn
ngoại cho phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do các tác động của vốn FPI không
chỉ có những ảnh hưởng tích cực mà bao gồm cả những ảnh hưởng tiêu cực như đã
đề cập ở phần trên, do đó khái niệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đơn
thuần là các biện pháp khuyến khích đầu tư trên TTCK cũng bao hàm cả nghĩa cần
kiểm soát được nguồn vốn này một cách hiệu quả. Cụ thể, đây là việc thực hiện các
biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau, để tác động lên

dòng vốn nước ngoài chảy vào và chảy ra khỏi TTCK nhằm đạt mục tiêu vĩ mô nhất
định của chính phủ. Có hai phương pháp kiểm soát vốn:
Một là, kiểm soát vốn trực tiếp còn gọi là kiểm soát vốn mang tính hành
chính: là việc hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh toán liên quan đến
giao dịch vốn và việc chuyển tiền bằng những quy định mang tính hành chính.
Kiểm soát hành chính tác động đến số lượng những giao dịch tài chính từ nước này
sang nước khác. Thông thường loại kiểm soát này áp đặt những nghĩa vụ hành
chính lên TTCK để kiểm tra dòng vốn.
Hai là, kiểm soát vốn gián tiếp còn gọi là kiểm soát vốn dựa trên cơ sở thị
trường: là việc hạn chế những biến động của dòng vốn và những giao dịch khác
thông qua các biện pháp thị trường, chủ yếu là làm cho các giao dịch này phải tốn
kém nhiều chi phí hơn, từ đó hạn chế những giao dịch này. Việc kiểm soát vốn có
thể xảy ra dưới các hình thức khác nhau nhau hệ thống đa tỷ giá, đánh thuế ngầm
hoặc công khai lên dòng vốn quốc tế, nhưng chủ yếu là đánh thuế vào các dòng vốn
ngắn hạn và khuyến khích các dòng vốn dài hạn.Trong hai biện pháp trên cần hạn

20


chế đến mức thấp nhất biện pháp kiểm soát mangtính hành chính.
1.2.2. Nội dung thu hút vốn đầu tƣ gián tiếp trên TTCK
Nội dung thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCk tập trung vào
việc Nhà nước xây dựng và ban hành các quy định pháp luật, các kế hoạch, quy
hoạch, cơ sở hạ tầng cũng như các điều kiện cần thiết nhằm h trợ, điều chỉnh hoạt
động đầu tư của NĐTNN vào TTCK để đảm bảo sự phát triển bền vững của TTCK
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các nội dung quản l Nhà nước cần thực hiện
bao gồm:
Thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật về quản lý
hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài. Do TTCK là một lĩnh vực rất nhạy cảm với
các thong tin và sự biến động của chính sách từ Nhà nước nên các văn bản pháp luật

phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, công bằng đối với mọi chủ thể tham gia
vào thị trường.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch, quy hoạch, chính sách thu hút vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài. Các cơ quan quản l Nhà nước như Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
Bộ Tài chính, UBCKNN, Ngân hàng nhà nước cần phối hợp chặt chẽ trong việc xây
dựng chính sách thu hút và kiếm soát FPI.
Thứ ba, xây dựng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro liên quan đến vốn FPI.
Mục đích của công việc này là dảm bảo cho sự an toàn của nền kinh tế trước những
tác động tiêu cực của vốn FPI. Biện pháp phòng ngừa rủi ro có thể được thực hiện
thong qua việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia, quy
định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự ph ng, dư nợ cũng như các công cụ khác của
định chế tài chính – tiền tệ quốc gia và địa phương. Bên cạnh đó nhà nước cũng
thực hiện biện pháp cảnh bảo sớm và chú trọng xây dựng các biện pháp đối phó
trong trường hợp xảy ra khủng hoảng liên quan đến vốn FPI.
Thứ tư, nhà nước thực hiện việc quản lý, thống kê số liệu thu hút vốn
FPI. Để thực hiện nội dung này, Nhà nước cần có cơ quan chuyên môn quản lý và
thống kê, từ đó cung cấp số liệu một cách chính xác và kịp thời, phục vụ công tác
nghiên cứu, đánh giá và hoạch định kế hoạch cho thời gian tiếp theo.

21


Thứ năm, nhà nước xây dựng và phát triển các chính sách hỗ trợ hoạt
động đầu tư gián tiếp nước ngoài như áp dụng tỷ giá hối đoái, chính sách về tỷ lệ
tham gia đầu tư vốn của NĐTNN vào các Doanh nghiệp trong nước trên cơ sở tăng
số lượng các lĩnh vực đầu tư mà Nhà nước không kiểm soát cổ phần chi phối.
Thứ sáu, nhà nước thực hiện giám sát và xử lý vi phạm của hoạt động đầu
tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK qua đó mang lại một môi trường đầu tư công
bằng với mọi thành phần tham gia TTCK.
1.2.3. Ảnh hƣởng của vốn đầu tƣ gián tiếp trên TTCK

1.2.3.1. Ảnh hưởng tích cực
Đối với nền kinh tế: Với vai tr là kênh huy động vốn dài hạn, TTCK sẽ
thu hút vốn và cung ứng cho nền kinh tế từ các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu
tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài có tiềm lực mạnh về tài chính và tính chất
trường vốn cao nên đây sẽ là nguồn ngoại tệ mạnh vô cùng tiềm năng góp phần
giải quyết nhu cầu vốn dài hạn ngày càng lớn của nền kinh tế, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi nguồn vốn đầu tư trực tiếp đang có xu hướng giảm xuống, hỗ
trợ phát triển chính thức khó có khả năng gia tăng.
Việc nhà đầu tư đưa vốn ngoại tệ vào trong nước qua kênh TTCK sẽ làm giảm
một phần đáng kể luồng vốn ngoại tệ “chìm” đổ vào nền kinh tế với khối lượng lớn.
Qua đó, Ngân hàng nhà nước có thể thực hiện tốt hơn công tác quản lý ngoại hối,
lường trước và đối phó kịp thời với những biến động mạnh, bất thường về ngoại hối.
Hoạt động au tư nước ngoài trên TTCK là nguồn thuế nộp hàng năm cho ngân
sách Nhà nước. Tuy hiện nay với các chính sách ưu đãi cho hoạt động này, lượng
thuế thu được không nhiều nhưng nếu suy rộng ra, nguồn thuế này sẽ lớn hơn rất
nhiều khi hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết, các công ty cổ phần trở nên
có hiệu quả hơn nhờ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Một khi nguồn thu
ngân sách tăng lên, hiệu quả kinh tế của một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp
trong nước được cải thiện, Chính phủ có thể dành nhiều thời gian và kinh phí vào các
vấn đề đáng quan tâm như mậu dịch, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, an ninh quốc
phòng.

22


Đối với thị trường: TTCK ở các nước đang phát triển phần lớn hiện còn là
một thị trường khá mới mẻ với công chúng đầu tư trong nước. Do tính trừu tượng
của hàng hoá trên thị trường cho nên việc tạo dựng lòng tin và sự hiểu biết đúng đắn
của người dân về thị trường là việc không đơn giản. Sự tham gia của các nhà đầu tư
nước ngoài vào thị trường với kinh nghiệm dày dạn về đầu tư chứng khoán, quản lý

danh mục đầu tư, khả năng phần tích dự báo, k năng nghiệp vụ tài chính sẽ giúp gây
dựng và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư trong nước với thị trường. Bên cạnh đó,
qua những hoạt động đầu tư thực tế của các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư
trong nước sẽ tự đúc kết và tìm một phương thức đầu tư hiệu quả nhất.
Cùng với sự mở rộng các hình thức đầu tư nước ngoài trên TTCK, việc cho
phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được niêm yết giao dịch trên TTCK sẽ tạo
một động lực lớn đối với thị trường. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đưa cổ
phiếu lên niêm yết sẽ nâng cung thị trường cả về chất lượng và số lượng. Với trình độ
quản lý, khoa học công nghệ, năng lực chuyên môn trong các ngành nghề, thị trường
rộng lớn trong và ngoài nước của các công ty này, các doanh nghiệp sẽ học hỏi được
nhiều kinh nghiệm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp
mình.
Đối với các tổ chức hỗ trợ, cung cấp dịch vụ tài chính trên thị trường: Việc
các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia hoạt động kinh doanh dưới hình thức
liên doanh sẽ giúp cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp có chất lượng tốt và độ an
toàn cao, tạo nên sự đa dạng trong việc cung cấp sản ph m cho nhà đầu tư, đồng thời
tạo môi trường cạnh tranh cho hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Đối với doanh nghiệp: Vai trò lớn nhất của đầu tư nước ngoài thể hiện trên thị
trường sơ cấp. Hiện nay Việt Nam chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua
cổ phần phát hành lần đầu của các DNNN cổ phần hoá. Khi có hoạt động mua bán
này, số tiền thu được từ quá trình cổ phần hoá có thể nhiều hơn do áp lực của việc
đấu thầu hoàn toàn mang tính cạnh tranh giữa các bên liên quan, cả trong nước lẫn
ngoài nước. Ngoài ra, cổ phần hoá DNNN với sự có mặt của các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ kèm theo những lợi thế về công nghệ, kiến thức và k năng quản lý quốc tế.

23


Việc chuyển giao công nghệ và kiến thức cho nhân viên trong nước cũng có thể xảy
ra nhiều hơn khi có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc hợp doanh với

người nước ngoài cũng giúp doanh nghiệp cổ phần hoá tiếp cận với nhiều loại sản
ph m tốt nhất trên thế giới có giá cả mang tính cạnh tranh, với các thị trường lớn trên
thế giới, từ đó thúc đ y hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Yếu tố nước ngoài trên thị trường thứ cấp cũng không kém phần quan trọng
đối với các Công ty cổ phần. Bằng các yêu cầu cao về tính minh bạch của tình hình
tài chính, triển vọng phát triển trong tương lai, năng lực quản trị công ty, yếu tố đầu
tư nước ngoài sẽ kích thích các doanh nghiệp muốn tận dụng được nguồn ngoại lực
này phải luôn hoàn thiện mình ở tất cả các giác độ trên.
Đối với công chúng đầu tư, người tiêu dùng: Ngoài lợi ích nâng cao trình độ
hiểu biết, khả năng đầu tư của công chúng đầu tư, điểm lợi của đầu tư nước ngoài đối
với nhóm đối tượng này được thể hiện khi các công ty, doanh nghiệp luôn n lực gia
tăng tính minh bạch trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến sự phân phối
lợi nhuận cho cổ đông hợp l , đảm bảo lợi ích của cổ đông nhỏ và chủ nợ. Các công
ty này khi hạn chế được sự mờ ám trong các hoạt động của mình sẽ đồng nghĩa với
khả năng sản xuất ra các loại sản ph m hàng hoá chất lượng cao, giá cả phù hợp, thoả
mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Qua phân tích trên, có thể thấy vai trò của đầu tư nước ngoài trên TTCK
không chỉ dừng lại ở việc mang lại lợi ích cho một hay một nhóm người, mà hơn thế
còn mang lại lợi ích cho toàn nền kinh tế-xã hội.
1.2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Mặt trái của hoạt động đầu tư nước ngoài trên TTCK chính là những nguy cơ
biến động mạnh theo chiều hướng tiêu cực của thị trường gây ra bởi các nhà đầu tư
nước ngoài. Các nhà nghiên cứu thường tập trung vào hai nguy cơ chính:
Thứ nhất, nguy cơ xảy ra hiện tượng đầu cơ có tổ chức lớn. Nguy cơ này
xảy ra khi có thị trường có những yếu điểm, tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ có
tiềm lực tài chính mạnh tấn công thị trường bằng cách dùng vốn của mình tạo ra

24



thông tin không chính xác, dẫn đến các giao dịch chứng khoán không công bằng
cho các nhà đầu tư.
Hiện tượng này thường xảy ra đối với các thị trường nhỏ, tiềm lực kinh tế
không đủ mạnh hoặc đối với các TTCK mới nổi, hệ thống kiểm soát chưa chặt chẽ.
Tình trạng nền kinh tế suy thoái hay khi một số công ty lớn có ảnh hưởng mạnh tới
thị trường gặp khó khăn cũng có thể là môi trường tốt cho nhà đầu cơ. Hậu quả của
đầu cơ trước hết là các nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm gây ảnh hưởng đến
quyền lợi trực tiếp của nhà đầu tư trong khi đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho những
kẻ chủ mưu. Đối với nền kinh tế, hiện tượng đầu cơ gây sự bất ổn định khi nhà nước
không thể đương đầu và đối phó của tài phiệt quốc tế, gây hiện tượng mất giá đồng
nội tệ như ở một số TTCK châu Á vào cuối thập kỷ 90. Hơn nữa, qua giao dịch
không công bằng, khả năng các công ty có cổ phiếu bị tấn công rơi vào tình trạng bị
thôn tính, thay đổi cơ cấu tổ chức, phương hướng, chiến lược kinh doanh là điều hoàn
toàn có thể xảy ra. Kết quả xấu nhất có thể tính đến là sự sụp đổ TTCK, kéo theo các
khủng hoảng của thị trường tài chính trong nước, khu vực và quốc tế.
Thứ hai, nguy cơ rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường. Tính “lỏng” cao của
TTCK cho phép các nhà đầu tư có thể dễ dàng rút vốn khỏi thị trường. Khi có dấu
hiệu về suy thoái kinh tế, tiềm năng lợi nhuận giảm hay một thông tin bất lợi đối
với thị trường, một số nhà đầu tư sẽ nhanh chóng bán các chứng khoán họ đang
nắm giữ, thu hồi tiền mặt, bảo toàn đồng vốn của mình. Khi thông tin này bị lan
truyền, hiệu ứng “đôminô” sẽ xảy ra. Các nhà đầu tư khác sẽ đổ xô rút vốn ra khỏi
thị trường. Nếu không có biện pháp kịp thời, sẽ dẫn đến khủng hoảng thị trường,
khủng hoảng tài chính. Đây cũng là bài học đắt giá cho rất nhiều TTCK trong quá
trình phát triển từ trước tới nay.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến thu hút vốn FPI trên TTCK
1.2.4.1. Các biến số kinh tế vĩ mô
Nhóm các biến số vĩ mô phản ánh môi trường kinh tế - chính trị - xã hội của
một quốc gia và mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chẳng hạn như các ưu đãi tài
chính và sự thân thiện, mức độ thuận tiện của quản l nhà nước đối với nhà đầu


25


×