Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Bài giảng đường lối cách mạng của dảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.31 KB, 59 trang )

CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
a) Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
- Từ nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Bản chất của
chủ nghĩa đế quốc là bóc lột và xâm lược. Đầu thế kỉ XX, các nước đế quốc lớn như Mỹ,
Anh, Pháp… đã xâm chiếm hầu hết các nước nhỏ yếu trên thế giới và biến thành thuộc
địa của họ. Chính sách thực dân tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với các thuộc địa cùng
với sự áp bức bóc lột nặng nề đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở trong
nước đã chứng minh bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc.
- Năm 1914 các nước đế quốc Anh, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật đã phân chia xong
đất đai trên thế giới, chiếm một thuộc địa rộng 65 km2 với số dân 523,4 triệu người (so
với diện tích chính quốc của họ là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng diện tích
các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp
là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người). Số liệu trên là một phác hoạ cơ bản và rõ nét
về bức tranh phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc ở đầu thế kỉ này. Đám mây đen
khổng lồ của chủ nghĩa đế quốc thực dân đã bao trùm khắp thế giới, sự áp bức và xu
hướng thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt.
- Về phương thức bóc lột có sự thay đổi: trước đây tư bản bóc lột thuộc địa là lấy
tài nguyên về nước để sản xuất, nhưng về sau chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư
khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản
lũng đoạn làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản.
+ Một bộ phận các nước thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường thực dân.

1


+ Một bộ phận được trang bị những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng


mình.
Hậu quả chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc: Mâu thuẫn giữa các dân tộc
bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh chống xâm lược
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
b) Chủ nghĩa Mác - Lênin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh
mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư
tưởng lý luận của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong
bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa
Mác Lênin.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, thúc đẩy phong trào yêu
nước và phong trào công nhân phát triển theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c) Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công:
+ Đây là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới mang lại quyền lợi cho
nông dân, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền
dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên
hợp.
+ Mở ra cho lịch sử loài người một thời đại mới: giai đoạn từ chủ nghĩa tư bản lên
Chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin từ lí luận đã trở thành hiện thực trên một nước đã chiếm
1/6 diện tích quả địa cầu.
- Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập – quốc tế đại diện cho quyền lợi
của công nhân và nông dân. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố.

2



Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp
bức.
Tình hình đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
2. Hoàn cảnh trong nước
a) Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Trước đây Việt Nam là một nước thuần nông do giai cấp phong kiến thống trị. Từ
năm 1858 (1-9-1958) thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Ngày
6-6-1884 triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân
Pháp. Việt Nam từ đây trở thành đất bảo hộ của Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam
mất vai trò độc lập.
Sau khi đánh chiếm đất nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân
để tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt
và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Từ năm 1858-1884: giai đoạn bình định vũ trang, xâm lược Việt Nam
Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897-1913 và
chương trình khai thác thuộc địa lần hai 1919 - 1929 với quy mô, tốc độ và cường độ
tăng dần nhằm kiếm lợi nhuận tối đa. Chúng không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào.
Nhưng trong khi đó Pháp lại đưa ra chiêu bài là đi khai hóa văn minh.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay
đổi.
- Về kinh tế: Chúng thực hiện chính sách kinh tế phản động như:
+ Trực tiếp duy trì phương thức sản xuất phong kiến cùng với việc thiết lập một
cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, nền kinh tế Việt Nam
thời kỳ này vừa mang tính chất phong kiến vừa mang tính chất tư bản thực dân.
+ Thi hành chính sách độc quyền đối với ngân hàng, xuất và nhập khẩu, khai thác
mỏ, giao thông... để biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa và là nơi cung cấp
nguyên vật liệu cho chính quốc.


3


+ Định ra các loại thuế vô lý đánh vào người lao động. Vì vậy, đời sống của người
dân vô cùng cực khổ.
Do chính sách kinh tế như vậy nên sau hai cuộc khai thác của thực dân Pháp, nên
kinh tế Việt Nam chưa có những thay đổi căn bản. Chính sách kinh tế rất phản động của
đế quốc Pháp đã làm cho nhân dân Việt Nam bị bần cùng, điêu đứng, đã kìm hãm nền
kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu và biến nền kinh tế nước ta hoàn toàn lệ thuộc vào
nền kinh tế của nước Pháp.
-

Về chính trị:

+ Duy trì chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Chúng đàn áp đẫm
máu các phong trào yêu nước ở Việt Nam. Mọi quyền tự do của nhân dân đều bị cấm.
+ Duy trì chế độ cai trị trực tiếp từ trung ương đến cơ sở, mọi quyền hành đều nằm
trong tay người Pháp, biến quan lại phong kiến trở thành bù nhìn tay sai.
+ Thi hành chính sách “chia để trị”. Chúng chia cắt nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt
một chế độ cai trị riêng với mục đích gây thành kiến chia rẽ giữa Bắc, Trung, Nam, giữa
các tôn giáo, giữa các dân tộc Việt Nam và giữa các dân tộc Đông Dương. Sau đó chúng
sát nhập 3 kỳ đó cùng với Lào và Campuchia thành sứ Đông Dương thuộc Pháp với mục
đích xóa tên 3 nước Đông Dương trên bản đồ thế giới.
-

Về văn hóa:

+ Thi hành chính sách nô dịch lệ thuộc, gây tâm lý tự ti
+ Khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội: như rượu chè, cờ
bạc, hút hít...Thực dân Pháp dùng rượu cồn, thuốc phiện (cứ 1000 làng thì có 1500 đại lý

rượu và thuốc phiện) để ru ngủ dân ta nhất là thế hệ trẻ, làm suy nhược giống nòi dân tộc
Việt Nam.
+ Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học và bệnh viện. Trong các trường học
chúng mở, đều dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo một đội ngũ tay sai ở thuộc địa.
+ Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hóa tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hóa
tiến bộ Pháp.
Lịch sử thống trị gần một thế kỉ của đế quốc Pháp ở Việt Nam tự nó tố cáo hùng
hồn rằng đế quốc Pháp không phải là kẻ đem văn minh phương Tây đến “khai hoá” cho
4


nhân dân ta như chúng thường rêu rao; ngược lại chúng là tên tội phạm đã cố tình đẩy
nhân dân ta vào vòng tối tăm, dốt nát, nghèo nàn, lạc hậu.
- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Trước khi Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam là một xã hội phong kiến thuần nhất
với hai giai cấp chủ yếu là địa chủ phong kiến và nông dân. Chính sách cai trị và khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến cơ cấu giai cấp trong lòng xã
hội Việt Nam: giai cấp cũ vẫn còn tồn tại và giai cấp mới ra đời.
* Giai cấp cũ bao gồm địa chủ phong kiến và nông dân.
* Giai cấp địa chủ phong kiến
- Xét dưới góc độ chính trị thì giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa như sau:
+ Một bộ phận cam tâm bán nước làm tay sai cho thực dân Pháp để duy trì quyền
lợi của mình. Đây là lực lượng phản động, là đối tượng của cách mạng.
+ Một bộ phận khác nêu cao truyền thống yêu nước và tinh thần bất khuất trở
thành lãnh tụ của quần chúng nông dân, vừa đấu tranh chống thực dân Pháp vừa đấu
tranh chống lại triều đình phản động.
+ Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
- Xét dưới góc độ kinh tế, giai cấp địa chủ có sự phân tầng thành 3 bộ phận: đại
địa chủ, trung địa chủ và tiểu địa chủ.
- Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, là nạn nhân chủ yếu của chính sách

khai thác thuộc địa. Giai cấp nông dân Việt Nam phải chịu hai tầng áp bức, bóc lột của
thực dân và phong kiến. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam
đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách
mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
* Giai cấp mới bao gồm: tư sản, tiểu tư sản và công nhân.
- Giai cấp tư sản
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời cùng với sự phát triển công nghiệp, thương
nghiệp và phân hóa thành hai bộ phận:
+ Tư sản mại bản: đó là những nhà tư sản lớn. Lợi ích của họ gắn liền với lợi ích
của giới tư sản Pháp. Họ tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của thực dân Pháp. Họ
5


chủ yếu đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của Pháp như thầu làm cầu đường, trại
lính, xe lửa, nhận cung cấp nguyên vật liệu, lương thực cho Pháp hay làm đại lý phân
phối hàng hóa của Pháp. Họ là một thế lực phản cách mạng, nên cũng như giai cấp địa
chủ, họ là đối tượng của cách mạng.
+ Tư sản dân tộc: đó là những nhà tư sản vừa và nhỏ. Họ hoạt động chủ yếu trong
các ngành thương nghiệp, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp. Họ cũng có mâu thuẫn
với tư sản Pháp.  họ có tinh thần chống đế quốc, chống phong kiến, có khuynh hướng
dân tộc dân chủ
- Giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trí thức (1.2%): Đó là những tiểu thương, tiểu
chủ, công chức, học sinh, trí thức... Họ là tầng lớp có học, có tinh thần dân tộc, yêu nước
và rất nhạy cảm về chính trị. Vì vậy họ là lực lượng lớn của cách mạng.
- Giai cấp công nhân: là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa
của Pháp.Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, giai cấp công nhân Việt
Nam đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, công nhân đã phát triển
nhanh về số lượng, từ 10 van (1914) lên 22 vạn (1929), trong đó có hơn 53.000 công
nhân mỏ và 81.200 công nhân đồn điền. Giai cấp công nhân Việt nam tuy số lượng ít
nhưng đã mang trong mình những đặc điểm và phẩm chất của giai cấp công nhân thế

giới:
+ Đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến.
+ Có ý thức tổ chức kỉ luật cao.
+ Có tinh thần cách mạng triệt để.
+ Mang trong mình bản chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng:
+ Giai cấp công nhân Việt Nam chịu 3 tầng áp bức bóc lột là đế quốc, phong kiến,
tư sản  tinh thần cách mạng của họ rất cao. Họ vừa đại diện cho quyền lợi của dân tộc,
vừa đại diện cho quyền lợi của các giai cấp khác.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nông dân  đó là cơ sở
khách quan, thuận lợi cho công nhân và nông dân liên minh chặt chẽ ngay từ khi mới ra
đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng.
6


+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên nội bộ
thuần nhất.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời ở một nước có truyền thống đấu tranh bất
khuất, vì vậy họ sớm tham gia vào phong trào đấu tranh của cả dân tộc, sớm tiếp thu tư
tưởng lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác Lênin.
+ Công nhân Việt Nam có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dẫn đường chỉ lối.
+ Giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị sau khi Cách mạng tháng Mười
Nga thắng lợi, phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc
đang ở trong thời kỳ phát triển sôi nổi. Điều kiện lịch sử đó càng nâng cao uy thế chính
trị và tinh thần, tạo cho giai cấp công nhân Việt Nam một sức mạnh to lớn, sớm nắm
quyền lãnh đạo cách mạng.
Với tất cả những đặc điểm nêu trên, mặc dù mới ra đời nhưng giai cấp công nhân
Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, nhanh chóng vươn
lên từ một giai cấp tự phát trở thành một giai câp tự giác và bước lên vũ đài chính trị, trở
thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.

Trong những năm đầu của thế kỉ XX, chúng ta đang khủng hoảng về đường lối,
mà thực chất là chúng ta đang khủng hoảng về một giai cấp tiên tiến lãnh đạo cách mạng
do giai cấp công nhân Việt Nam chưa tiếp thu được lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin.
Phong trào công nhân đòi hỏi có đội tiên phong lãnh đạo.
Kết luận: Chính sách cai trị của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
làm cho xã hội Việt Nam có những thay đổi sau:
- Từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam cũng có những thay đổi cơ bản. Bên cạnh sự phân
hóa của giai cấp cũ là sự ra đời của các giai cấp, tầng lớp mới. Đây là một lực lượng cách
mạng mới trong tương lai.
- Trong lòng xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, gắn liền với nhau. Đó
là mâu thuẫn giữa:
+ Toàn thể dân tộc Việt Nam >< Thực dân Pháp và tay sai
+ Nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) >< địa chủ (phong kiến)
7


Song mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và tay sai.
b, Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX
b.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
- Phong trào diễn ra từ cuối thế kỷ XIX, ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên
đất nước ta. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và Tôn
Thất Thuyết phát động. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt thì phong trào vẫn tiếp tục với các
cuộc khởi nghĩa như Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê...
- Khởi nghĩa nông dân Yên Thế: Do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài gần 30
năm (1885-1913) đã nói lên tiềm năng ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân, nhưng
nông dân không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng khi họ chưa có tư tưởng độc lập
và chưa đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Khi Đề Thám bị sát hại (10-021913) thì phong trào Yên Thế dần dân tan rã.

b.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
- Phong trào Đông Du và con đường cứu nước của Phan Bội Châu (1904-1908)
Đầu năm 1904 Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp, giành độc
lập dân tộc, thành lập nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến như nước Nhật. Ông tổ
chức phong trào Đông Du (1906-1908) nhưng cối cùng phong trào cũng bị thất bại.
- Phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh
Phan Chu Trinh chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phát triển
kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu nước
mạnh. Khi đó, thực dân Pháp buộc phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Mặc dù
đường lối đấu tranh của Phan Chu Trinh rất ôn hòa nhưng phong trào vẫn bị thực dân
Pháp đàn áp và thất bại.
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hàng loạt các phong trào yêu nước của giai cấp
tư sản và tiểu tư sản, trí thức diễn ra. Mặc dù các phong trào này đều thất bại nhưng nó đã
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm chủ nghĩa yêu nước ở

8


Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là tầng lớp thanh niên trí
thức tiên tiến chọn con đường cứu nước mới phù hợp với yêu cầu lịch sử đặt ra.
Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu rtanh khác
như: phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919);
Phong trào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn 91923); đấu tranh trong các
hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố... đòi cải cách tự do dân chủ.
Từ trong phong trào đấu tranh, các đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm 1923),;
Đảng Thanh niên (tháng 3-1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam
nghĩa hòa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân Việt cách
mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng phái chính trị tư sản và
tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, đặc biệt là
Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.

+ Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên phát triển mạnh, đã tác động mạnh mẽ đến Đảng này. Trong nội
bộ Đảng diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng: tư tưởng cách mạng vô sản và tư
tưởng cải lương. Cuối cùng khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản dần thắng
thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên. Số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới
thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học sáng lập (12-1927) là một đảng
chính trị theo xu hướng cách mạng dân chủ tư sản. Mục đích của đảng này là đánh đuổi
giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, sau cùng thiết lập nên dân quyền. Tuy nhiên Việt Nam quốc
dân đảng sớm bị thực dân Pháp khủng bố. Nhiều cơ sở của Đảng bị phá vỡ. Phong trào
dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản dưới ngọn cờ của Việt Nam quốc dân đảng đã
không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
ta, không đủ sức đương đầu trước sự đàn áp khủng bố của kẻ thù. Vai trò của Việt Nam
quốc dân đảng trong phong trào dân tộc vừa mới nhen nhóm đã vĩnh viễn chấm dứt cùng
với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Kết luận:
9


- Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến tiểu tư sản và tư sản nói
trên, nhìn chung đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai
cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập
hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản ; với các phương thức, biện pháp
đấu tranh khác nhau : bạo động hoặc cải cách ; với quan điểm tập hợp lực lượng bên
ngoài khác nhau : dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp… Nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
- Các phong trào và tổ chức trên do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính
trị ; hệ thống tổ chức lại thiếu chặt chẽ ; không có năng lực tập hợp rộng rãi lực lượng của
dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản là giai cấp công nhân và

nông dân nên cuối cùng đã không thành công.
Cuộc khủng hoảng về đường lối ở nước ta trong giai đoạn này chứng tỏ rằng,
chẳng những giai cấp phong kiến cũ đã mất hết vai trò lịch sử, mà những giai cấp mới ra
đời như tiểu tư sản và tư sản cũng hoàn toàn bất lực trong việc cầm ngọn cờ dân tộc.
Những nhà yêu nước Việt Nam thuở ấy chưa nhìn thấy ánh sáng giải phóng trong đêm tối
nô lệ của dân tộc ta. Giữa lúc đó xuất hiện một xu hướng cách mạng mới do Nguyễn Ái
Quốc khởi xướng và lãnh đạo, một nhân tố mới dẫn dắt cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
ở Việt Nam, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn của dân tộc, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại.
c) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Mấy chục năm đầu thế kỷ XX, các cuộc vận động chống Pháp cứu nước của nhân
dân ta liên tiếp bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Phong trào yêu nước bế tắc, chưa xác
định được đường lối đúng đắn.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ( tức Nguyễn Ái Quốc) đã rời Tổ quốc ra đi
tìm đường cứu nước với ý định xem các nước làm thế nào để rồi về giúp đồng bào mình.
Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu trên thế giới như cách
mạng Mỹ - 1776 và cách mạng Pháp - 1789. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái và quyền con người… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc
cách mạng tư sản. Người vạch rõ: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
10


cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa". "Chúng ta đã hi sinh cách
mệnh thì làm cho đến nơi"...( Hồ Chí Minh toàn tập, tập II, tr.193,197). Người đã lao
động và tham gia đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
nhiều nước để có kiến thức và kinh nghiệm về giúp nước mình.
- Đến năm 1917, giữa lúc chiến tranh thế giới thứ nhất sắp đến ngày kết thúc,
Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp. Tại đây, Người đã cùng làm việc và tham gia vào
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp. Người đã lập "Hội những người Việt Nam

yêu nước", với tờ báo "Việt Nam hồn" để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. Đây
cũng là thời gian Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi, những tư tưởng của
cách mạng tháng Mười đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc.
- Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp. Sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Vécxây để phân chia quyền lợi.
Thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc gửi đến Hội nghị này bản yêu sách đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được Hội nghị Vecxay
chú ý đến nhưng đó là đòn tấn công trực diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc vào bọn trùm
đế quốc.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng: Các dân tộc bị áp bức muốn
được độc lập tự do thật sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự
mình giải phóng cho mình.
- Tháng 7/1920 lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất
những vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nó đã đáp ứng đúng nguyện vọng
tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào.
Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lê nin
- Ngày 20-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng xã hội Pháp họp ở
Tua (Tours), đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp

11


Sự kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp đánh dấu bước
ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc:
+ Đối với Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước
ngoặt đứng hẳn về con đường Cách mạng Tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác Lênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng sản.
+ Đối với cách mạng Việt Nam: đánh dấu bước mở đường giải quyết đúng đắn về
đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam, bước ngoặt gắn liền độc lập dân tộc, với chủ

nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
Vượt qua sự hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời , bằng thiên tài trí tuệ và
hoạt động cách mạng của mình đã giúp chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn khắc phục cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước những năm đầu thế kỉ XX. Đó là “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
* Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi trở thành người chiến sĩ cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc tích cực xúc tiến
việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Từ đầu 1921 đến tháng 6-1923: là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp.
Thời gian này Nguyễn Ái Quốc viết nhiều báo :Nhân đạo, thợ thuyền, Người cùng khổ,
đặc biệt là tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" 7/1925 xuất bản ở Paris. Nguyễn Ái
Quốc tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa nhằm thức tỉnh dân tộc, tố cáo
chủ nghĩa thực dân, kêu gọi đoàn kết đấu tranh cách mạng trong nhân dân thuộc địa.
Tháng 6-1923 Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đến Mátxcơva. Ở đây, Nguyễn Ái Quốc
đã được dự nhiều hội nghị quốc tế. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng
sản Liên Xô và tạp chí thư tín quốc tế của Quốc tế cộng sản.
* Trước hết là vấn đề chính trị, tư tưởng:
12


Người đã viết bài đang các báo: "Người cùng khổ" do Người sáng lập, báo "Nhân
đạo" - Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp, báo "Đời sống công nhân" - tiếng
nói của giai cấp công nhân, báo Sự thật (Liên Xô), tạp chí Thư tín quốc tế (Quốc tế cộng
sản), báo Thanh niên (Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đặc biệt là tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp” 7/1925 xuất bản ở Paris, tác phẩm "Đường cách mệnh". Qua

nội dung các bài báo và các tác phẩm đó, Người tập trung lên án chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp. Người vạch trần bản chất xâm
lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Bằng những dẫn chứng
cụ thể, sinh động, Người đã tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới tội ác tày trời của thực
dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa. Người ví chủ nghĩa đế quốc như một con
đỉa có 2 vòi: một vòi hút máu giai cấp công nhân và những người lao động ở “chính
quốc”, còn một vòi hút máu các dân tộc thuộc địa. Muốn đánh đổ bọn đế quốc thì phải
cắt cả 2 vòi ấy.

* Về tổ chức:
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quãng Châu (Trung Quốc), Người tham gia
sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á - Đông để thống nhất hành động chống
chủ nghĩa thực dân.
Tháng 6-1925, Người thành lập "Việt Nam cách mạng thanh niên", tổ chức trung
kiên là "Cộng sản đoàn", làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam; mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo một số thanh niên Việt Nam thành những
cán bộ cách mạng, trong đó, một số được chọn đi học ở Trường Đại học Phương Đông
(Liên Xô), một số được cử đi học quân sự, phần lớn sau khi học xong được đưa về nước
hoạt động
Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại
Quãng Châu được tập hợp thành sách "Đường cách mệnh". Trong tác phẩm này, Nguyễn
Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược sách lược của cách mạng
13


giải phóng dân tộc ở Việt Nam. "Đường cách mệnh" đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng
chính trị cho việc thành lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và tác phẩm "Đường cách mệnh" đã trực tiếp
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt
Nam, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929),

An Nam Cộng sản Đảng (7-1929) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).
* Hệ thống quan điểm cách mạng và lý luận cách mạng Hồ Chí Minh:
+ Đi sâu vạch rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp
nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa..
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng thế giới trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở
“chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau. Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà nó có tính chủ động, độc lập và có thể thành công
trước cách mạng ở chính quốc và góp phần thúc đẩy cách mạng ở chính quốc phát triển
+ Tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn lao động, giải phóng con người,
tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giương cao ngọn cờ chống đế quốc và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập, tự
do, là tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng thuộc
địa.
+ Về lực lượng cách mạng: “công, nông là người chủ cách mệnh”, là “gốc cách
mệnh”. Công nhân là giai cấp lãnh đạo; tiểu tư sản, trí thức là bạn đồng minh của cách
mạng.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng cần được giác ngộ và tổ
chức mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.

14


+ Phải thực hiện sự liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế; phải
nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thứ tự lực tự cường.
+ Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng phải có học thuyết cách mạng, đó

là học thuyết Mác - Lênin, phải biết vận dụng đúng đắn học thuyết đó vào hoàn cảnh Việt
Nam.
Ý nghĩa:
Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh có tác dụng to lớn trực tiếp với cách mạng
Việt Nam, làm cho nhân dân Việt Nam nhận thức được tính chất, nhiệm vụ và phương
hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, quy tụ mọi lực lượng yêu
nước đoàn kết đấu tranh dưới ngọn cờ cứu nước do giai cấp công nhân lãnh đạo thực sự
đánh bại được chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khắc phục được khủng
hoảng về đường lối cứu nước những năm đầu thế kỉ XX. Với sự truyền bá chủ nghĩa
Mac-Lênin và đường lối cứu nước đúng đắn vào Việt Nam để làm cho phong trào công
nhân, phong trào yêu nước trưởng thành, nhanh chóng tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam vào những năm 30.
* Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Sự phát triển của phong trào công nhân ở Việt Nam chịu tác động trực tiếp từ sự
lớn mạnh của giai cấp công nhân (về số lượng), đặc biệt là sự thâm nhập của chủ nghĩa
Mác Lênin vào phong trào công nhân.
- Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào mang tính chất tự phát.
Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân diễn ra với những hình thức sơ
khai như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốn lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng,
phong trào chủ yếu là tự phát.
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào dần đi vào tự giác :
Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo và tập trung hơn. Nhìn chung,
phong trào công nhân 1919 - 1925 đã có bước phát triển mới. so với trước chiến tranh,
hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, có tổ chức, diễn ra trên quy mô lớn hơn, thời gian
dài hơn.
15


- Từ 1926 - 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển cùng với sự ra đời và

hoạt động của “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên”. Các cuộc đấu tranh của công nhân
thời gian này đã biết kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính trị, có
sự liên kết đấu tranh giữa công nhân nhiều nhà máy, nhiều ngành nghề, nhiều địa
phương. Trình độ của công nhân đã nâng lên rõ rệt.
Cũng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Phong trào nông dân và phong
trào công nhân đã hổ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
* Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Cuối năm 1928 đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta, đặc biệt
là phong trào của giai cấp công nhân theo con đường của cách mạng vô sản phát triển
ngày càng mạnh mẽ và mang tính thống nhất trong toàn quốc. Thực tế đó đã làm cho
“Việt Nam thanh niên” không còn thích hợp và đủ khả năng lãnh đạo, dẫn dắt phong trào.
Xu thế phải thành lập một chính Đảng ngày một cấp thiêt.
- Nhận thức được vấn đề đó, tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập
tại số nhà 5D phố Hàm Long – Hà Nội gồm 7 đồng chí : Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh,
Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn do Trần Văn
Cung làm bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một Đảng Cộng sản thay
thế cho “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên”
- Đầu tháng 5 năm 1929, tại đại hội lần thứ nhất “Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên” đã xảy ra sự bất động giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập
Đảng Cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã bỏ đại hội ra về, và ngày 17/6/1929, tại số nhà
312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội
quyết định lập Đông Dương cộng sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của Đảng,
quyết định xuất bản báo Búa liềm, cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
- Trước nhu cầu của phong trào và ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng,
một số hội viên tiên tiến còn lại trong “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên” ở Nam Kỳ
và Trung Kỳ cũng đã vạch ra kế hoạch để tổ chức thành lập Đảng. Ngày 25/7/1929

16



những người cộng sản Nam Kỳ thành lập An Nam cộng sản Đảng. Đảng có một chi bộ
hoạt động ở Trung Quốc và lần lượt có nhiều chi bộ ra đời ở Nam Kỳ.
Tuy hai tổ chức cộng sản trên hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích lẫn nhau,
song từ sự ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến sự xuất hiện của các tổ chức
cộng sản là một xu thế phát triển khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ.
- Trước ảnh hưởng mạnh mẽ của hai tổ chức cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, ngày 1 - 1 - 1930 những người giác ngộ
cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mạng Đảng tuyên bố chính thức lập ra Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn với mục tiêu : Đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho xứ
Đông Dương, xóa bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính
tiến lên chế độ cộng sản.
Kết luận : Như vậy, sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã phản ánh :
- Xu thế phát triển tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam.
- Sự trưởng thành nhanh chóng của giai cấp công nhân, ưu thế của tư tưởng cộng
sản trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
- Sự đòi hỏi tất yếu của phong trào công nhân và kết thúc vai trò của Việt Nam
thanh niên.
Song sự tồn tại của ba Đảng hoạt động biệt lập như trên có nguy cơ dẫn đến sự
chia rẻ lớn  yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là giải phóng thống
nhất 3 Đảng Cộng sản làm một để có một Đảng Cộng sản thống nhất lãnh đạo trong cả
nước.
II. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị thành lập Đảng
Trong những năm 1924 - 1929, phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh
với ý thức giai cấp và ý thức chính trị ngày càng rõ rệt đã tạo thành làn sóng cách mạng
dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, trong đó, giai cấp công nhân thực sự trở thành lực lượng
chính trị độc lập, tạo ra những điều kiện chín muồi cho sự phân hóa tích cực trong “Hội

17


Việt Nam Cách mạng Thanh niên” và trong Đảng Tân Việt dẫn đến việc hình thành
những tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Đó là: Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng
sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn. Các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, tranh
giành quần chúng. Thực tiễn đó đòi hỏi cấp thiết phải có sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương, kêu gọi
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất.
Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị
đại biểu các tổ chức cộng sản ở Hương Cảng từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930 để hợp nhất
thành một Đảng Cộng sản duy nhất.
Hội nghị gồm đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng
(Đông Dương cộng sản liên đoàn vừa mới thành lập không kịp cử đại biểu đến dự).
Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội
dung:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng
sản ở Đông Dương ;
2. Định tên là Đảng Cộng sản Việt Nam ;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng ;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước ;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi
bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết
định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị
thảo luận và thông qua các văn kiện : Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thảo ra. Các văn
kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Ngày 24/2/1930 Ban chấp hành Trung ương Lâm thời họp và ra Quyết nghị chấp
nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến
18


ngày 24-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản
ở Việt Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) thể hiện bước phát triển biện
chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên đến ba tổ chức Cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt được thông qua tại
hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản,
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nội dung cơ bản
như sau:
a, Phương hướng chiến lược và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
Phương hướng chiến lược :
- Cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng“tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" .
Nhiệm vụ cách mạng:
-Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp xâm lược và phong kiến làm cho nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công – nông – binh và tổ chức quân đội công
- nông.
- Về kinh tế: Thủ tiêu các thứ quốc trái, tịch thu những sản nghiệp lớn ( như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản, đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ
công, nông, binh. Thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân
cày nghèo. Miễn thuế cho dân nghèo; mở mang công nghiệp; thi hành luật ngày làm 8
giờ cho giai cấp công nhân.
- Về văn hóa-xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông

giáo dục theo hướng công nông hoá.
Nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung: dân tộc và dân chủ, và vẫn gắn với 2
nhiệm vụ:
Chống đế quốc dành độc lập dân tộc
19


Chống phong kiến, đưa ruộng đất cho dân cày.
Trong hai nhiệm vụ này, Cương lĩnh tháng 2 đưa nhiệm vụ chống đế quốc lên
hàng đầu.
Với hai nhiệm vụ trên, Đảng ta đã tập hợp được nông dân, xây dựng khối liên
minh công nông, điều kiện cơ bản bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và là cơ sở để xây
dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và lực lượng vũ trang trong cao trào cách mạng sau
này.
b, Về lực lượng cách mạng: lực lượng đánh đổ đế quốc và phong kiến trước
hết là công nông.
+ Đối với công nhân: phải vận động và thu phục để công nhân trở thành
giai cấp lãnh đạo.
+ Đối với nông dân: phải vận động thu phục để lãnh đạo họ tiến hành cách
mạng ruộng đất.
+ Đối với tiểu tư sản, trí thức , trung nông: hết sức lôi kéo để kéo họ về
phía vô sản giai cấp
+ Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam: nếu chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc trung lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ.
c, Lãnh đạo cách mạng : Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, cho nên, Đảng thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng ; trong khi
liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

d, Quan hệ với phong trào cách mạng thế giới : Cách mạng Việt Nam là bộ phận
của Cách mạng thế giới, phải "liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã
chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
20


3. Ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng
- Xác lập sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam ; chứng tỏ giai cấp công
nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, thống nhất tư tưởng,
chính trị và tổ chức phong trào cộng sản Việt Nam.
- Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và phương hướng phát triển
của cách mạng Việt Nam ; giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng
Việt Nam ; nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ
được sự ủng hộ của cách mạng thế giới.
CHƯƠNG 4: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
I. CÔNG NGHIỆP HÓA THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
Khái niệm công nghiệp hóa
* Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng kinh tế hây một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về
đóng góp vào GDP…
* Công nghiệp hóa là quá trình chuyển nền kinh tế từ chỗ chủ yếu dựa vào nông
nghiệp và lao động thủ công sang nền kinh tế dựa vào công nghiệp, máy móc, công nghệ
và lao động trình độ cao là chủ yếu.
Các nước Tây Âu là những nước tiến hành công nghiệp hóa sớm nhất trên thế
giới; trong đó Anh là nước đi tiên phong (từ thế kỷ XVII) và Manchester là thành phố

công nghiệp đầu tiên của thế giới. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh được ví
như “công xưởng của thế giới”.
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa
a) Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
Đường lối công nghiệp hóa (CNH) ở nước ta được đưa ra tại Đại hội III của
Đảng (9/1960). Từ Đại hội III đến trước Đại hội VI (1960 - 1985), nước ta tiến hành
21


CNH qua hai thời kỳ, ở hai phạm vi khác nhau: thời kỳ 1960 - 1975 ở miền Bắc và thời
kỳ 1975 - 1985 trên cả nước.
* Thời kỳ 1960 - 1975 ở miền Bắc
- Hoàn cảnh lịch sử khi miền Bắc tiến hành CNH
+ Miền Bắc đã hòan toàn giải phóng sau 7/1954
+ Công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN,
từng bước phát triển kinh tế - văn hóa đã đạt được một số thành tựu quan trọng
+ Hậu quả chiến tranh vẫn còn nặng nề
+ Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu
+ Phải chi viện cho miền Nam đánh Mỹ
+ Bị các thế lực đế quốc phản động bao vây, cô lập, chống phá
+ Được sự giúp đỡ của các nước XHCN
- Đặc trưng cơ bản của miềm Bắc thời kỳ này:
Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
- Vai trò của CNH
+ CNH là yêu cầu tất yếu trong quá trình chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền
sản xuất lớn, hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ lịch sử của đất nước thời kỳ này.
+ CNH được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta (lúc này là miền Bắc, miềm Nam đang nằm dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ và tay
sai)

- Mục tiêu cơ bản của CNH: (ĐHIII)
+ Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại
+ Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
Đây là nhiệm vụ bao trùm của CNH miền Bắc trước 1975
- Phương hướng chỉ đạo: (HNTW7, khóa III)
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí
+ Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với nông nghiệp

22


+ Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng
+ Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương
* Thời kỳ 1975 - 1985 trên cả nước
- Hoàn cảnh lịch sử
+ Đất nước đã hòa bình, thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH
+ Kế thừa thành quả của CNH ở miền Bắc giai đoạn trước
+ Hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề
+ Các nước XHCN từng bước cắt giảm viện trợ
+ CNĐQ và các thế lực phản động tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam
+ Do tác động tiêu cực từ “chiến tranh lạnh”, nên nước ta không tranh thủ được
những thành tựu của CMKHKT-CN trên thế giới, chủ yếu là các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ
- Đặc trưng cơ bản của Việt Nam khi tiến hành CNH giai đoạn 1975 - 1985
Tiến hành CNH trong bối cảnh nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, chịu ảnh hưởng
nặng nề từ hậu quả của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, tiến thẳng lên CNXH không
qua giai đoạn phát triển TƯ BảN CHủ NGHĨA.
- Mục tiêu cơ bản: (ĐH IV)

+ Đẩy mạnh CNH XHCN
+ Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH
+ Đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN
- Phương hướng cơ bản
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ
+ Kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước trong một cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp
+ Vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa xây dựng kinh tế địa phương

23


+ Kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhât
Đường lối CNH do Đại hội IV đưa ra là sự kế thừa và phát triển nhận thức về
CNH do Đại hội III đề ra.
- Đại hội V có sự điều chỉnh quan trọng về bước đi của CNH trong chặng đường
trước mắt (những năm 80):
+ Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu
+ Ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
+ Xây dựng và phát triển công nghiệp nặng cần làm có mức độ, vừa sức, phục vụ
thiết thực có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b) Đặc trưng cơ bản của CNH giai đoạn 1960 - 1985
+ CNH theo mô hình khép kín, hướng nội và thiên về công nghiệp nặng
+ CNH chủ yếu dựa vào lợi thế lao động dồi dào, tài nguyên phong phú, đa dạng
và nguồn viện trợ từ các nước XHCN
+ CNH được thực hiện thông qua chủ lực là Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà
nước
+ Cơ chế phân bổ nguồn lực cho CNH là cơ chế kế hoach hóa tập trung, quan lieu,

bao cấp, không tôn trọng qui luật thị trường
+ Tiến hành CNH một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm
nhanh làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
3) Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả và ý nghĩa
* Kết quả
CNH giai đoạn 1960 - 1985 diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng đã
đạt được một số kết quả quan trọng sau:
+ Đã xây dựng và phát triển một số ngành và cơ sở công nghiệp quan trọng, tạo
tiền đề cho CNH, HĐH ở giai đoạn tiếp theo.

24


So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 15.6 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã
hình thành, đã có nhiều cơ sở ban đầu của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như
điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng
+ Giáo dục và đào tạo không ngừng phát từ yêu cầu cung cấp đội ngũ cán bộ khoa
học - kỹ thuật và lao động trình độ cao cho CNH.
Trong giai đoạn này đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề được thành lập và đã đạo tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ
thuật khoảng 43 vạn người, tăng 19 lần so với thời điểm bắt đầu CNH
* Ý nghĩa
Với những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, quá trình CNH những năm 1960 1985 đã tạo lập những tiền đề quan trong cho việc thực hiện CNH, HĐH sau này.
b) Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất lạc hậu
+ Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ phát triển bước đầu, nông nghiệp
chưa đáp ứng được nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội
* Nguyên nhân

- Về khách quan:
+ Tiến hành CNH trong điều kiện nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và có chiến tranh
+ Tiến hành CNH XHCN từ một nền sản xuật nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu,
chưa trãi qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nên thiếu nền tảng ban đầu cần thiết
cho CNH.
- Về chủ quan:
Khi tiến hành CNH chúng ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục
tiêu, bước đi, về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư…
II. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986NAY)
1. Quá trình đổi mới tư duy về CNH

25


×