Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN bài học về sự LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản TRONG PHONG TRÀO CỘNG sản và CÔNG NHÂN QUỐC tế, ý NGHĨA đối với xây DỰNG, CHỈNH đốn ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.34 KB, 33 trang )

1

BÀI HỌC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ. SỰ NHẬN THỨC VÀ
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG,
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.

Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân, giai cấp duy nhất có sứ
mệnh lịch sử thế giới là tiến hành cuộc cách mạng xoá bỏ CNTB xây dựng
CNXH văn minh trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, để thực hiện được sứ
mệnh lịch sử cao cả đó, giai cấp vô sản phải thành lập được chính đảng của
mình và xây dựng nó thực sự trở thành đội tiên phong, bộ chỉ huy tham mưu
chiến đấu của giai cấp.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ở đâu, hễ lúc nào giai cấp vô sản xây
dựng được chính đảng vững mạnh mọi mặt thì phong trào đấu tranh của công
nhân đi đúng hướng và đạt hiệu quả; ngược lại nếu giai cấp vô sản không tổ
chức ra được chính đảng của mình, hoặc không quan tâm đến công tác xây
dựng Đảng thì phong trào trì trệ, khủng hoảng, thậm chí tan giã sụp đổ- đó là
vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết
chống phá cách mạng thế giới, trong đó chống phá Đảng công sản là một
trọng điểm. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng cộng sản vững mạnh không chỉ là
vấn đề quy luật mà còn là vấn đề cấp bách trong sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay.
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng, củng cố chính
đảng của giai cấp công nhân và vai trũ lónh đạo của nó đối với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng, củng cố
chính đảng của giai cấp vô sản.



2

Khi nghiên cứu về sự vận động, phát triển của lịch sử – xã hội, Mác và
Ăng Ghen đã luận chứng một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh
khỏi của CNTB và sự tất yếu ra đời của một chế độ xã hội cao hơn là CNCS,
mà giai đoạn đầu là CNXH. Hai ông cũng chỉ rõ lực lượng thực hiện sự
chuyển biến đó là giai cấp vô sản hiện đại và khẳng định đó chính là sứ mệnh
lịch sử vinh quang và cao cả của giai cấp vô sản hiện đại. Sứ mệnh lịch sử ấy
không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp vô sản, một tầng lớp hay một cá
nhân nào đặt ra, mà là do chính địa vị kinh tế- xã hội của họ quy định.
Tuy nhiên, giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình thì phải tổ chức ra được chính đảng cách mạng; chính đảng đó phải có
đủ khả năng, phẩm chất lãnh đạo, hướng dẫn phong trào cách mạng của họ.
Đó là điều kiện tiên quyết nhất và quan trọng nhất bởi vì chỉ khi nào giai cấp
vô sản tổ chức được ra chính đảng chính trị của mình, thì cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát, thành cuộc đấu tranh tự giác,
mới tạo được sự thống nhất về ý chí và hành động; cũng chỉ khi đó thì giai
cấp vô sản mới chuyển từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”, mới
lấy khoa học để thay cho “mộng tưởng”. Mác và Ăng Ghen đã khẳng định
“Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của giai cấp có
của, giai cấp công nhân chỉ khi tổ chức thành một chính Đảng độc lập với tất
cả các chính đảng cũ do giai cấp có của lập lên, thì mới có thể hành động
như một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính
đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng lợi
của mục đích cuối cùng của nó là : thủ tiêu các giai cấp”.1
Không chỉ làm rõ tính tất yếu phải thành lập ra chính đảng, coi đó là
điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
mình; các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác còn chỉ rõ mối quan hệ giữa người
1


C.Mác- Ph.Ăng ghen toàn tập, tạp 4, Nxb CTQG, Hà nội 1995, Tr 207


3

đảng viên với tòan thể giai cấp vô sản, cũng như mục đích nhiệm vụ và lập
trường của đảng cộng sản. Theo các ông thì những người đảng viên là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của
giai cấp ở chỗ họ hiểu được những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào. Như vậy theo Mác, Ăng Ghen thì đảng cộng sản không nằm
ngoài, nằm trên giai cấp, đồng thời họ cũng không phải toàn bộ giai cấp mà
chỉ là bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp mà thôi. Họ có mối liên hệ chặt chẽ
với giai cấp, đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp vô sản, đại biểu cho toàn bộ
giai cấp vô sản do vậy: “Họ không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn
thể giai cấp vô sản”2 .
Đảng cộng sản chính là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ tư bản,
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, xây dựng thành công
xã hội mới xã hội khác về chất so với những xã hội trước đó. Vì vậy, để thực
hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì nhiệm vụ trước tiên của đảng cộng sản là tập
hợp quần chúng để đấu tranh giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản,
sau đó dùng chính quyền đó để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội
mới, xã hội CSCN. Do vậy, giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản phải xoá bỏ tất cả những gì là nguyên nhân gây ra nạn áp bức bóc lột
người, mà suy cho cùng đó là chế độ tư hữu. Mác viết: “Những người cộng
sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là xoá bỏ
chế độ tư hữu”3 .
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính tất yếu

phải thành lập chính đảng của giai cấp vô sản; làm rõ mục đích, nhiệm vụ của
nó và mối quan hệ giữa những người đảng viên cộng sản với toàn bộ giai cấp
2
3

Sđd, tập 4, tr 614
Sđd, tập 4, tr 616


4

và dân tộc. Đây là những luận điểm tiền đề để các nhà lý luận cách mạng sau
này lấy đó làm căn cứ, tiêu chí xây dựng các Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về xây dựng chính
đảng vô sản, trong suốt quá trình hoạt động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của
công nhân để giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô,
Lênin đã khái quát nhiều vấn đề quan trọng về đảng và công tác xây dựng
đảng cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trước hết, Lênin khẳng định những luận điểm cơ bản của C.Mác,
Ph.Ăng-ghen về chính đảng vô sản và chỉ rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của đảng đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Quá trình trực tiếp chỉ đạo và hoạt động trong phong trào công nhân Nga,
Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph. Ăng-ghen về chính đảng của giai
cấp vô sản lên một tầm cao mới, thành học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới
của GCCN. Trong đó Lênin đã chỉ rõ rằng: đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân, đây chính
là quy luật chung của sự hình thành đảng cộng sản. Cũng thông qua các tác
phẩm của mình, Lênin cũng làm rõ tính tất yếu phải xây dựng “Đảng kiểu
mới” và chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đảng đó là: Chủ

nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng;
Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, là đội tiền phong chính trị có tổ
chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; khi có
chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của CNXH và là
một bộ phận của hệ thống đó; tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của đảng; đảng gắn bó chặt
chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu xa rời quần chúng; đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư


5

tưởng và tổ chức; đảng lấy tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
đảng; đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động vào đảng, đồng thời phải thường xuyên đưa những
người không đủ tiêu chuẩn và những kẻ cơ hội ra khỏi đảng; chủ nghĩa quốc
tế vô sản là một trong những nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ
chức và hoạt động của đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong quá trình hình thành những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới,
Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận chủ nghĩa Mác, coi chủ nghĩa Mác
là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản, nắm được lý luận đó
thì giai cấp vô sản và đội tiền phong của nó mới có được vũ khí tư tưởng
mạnh mẽ nhất, còn bản thân lý luận thì khi thấm vào phong trào công nhân sẽ
trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Lênin nhấn mạnh rằng: “Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”4, và “Chỉ Đảng nào
được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong”5.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng cộng sản và vai
trò của nó đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
là một thể thống nhất toàn vẹn, những tư tưởng của các Ông là nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho ý chí và hành động của các đảng cộng sản nói chung
và Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng. Phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế muốn thành công thì nhiệm vụ trước tiên là phải tổ chức ra chính
đảng vô sản và xây dựng nó vững mạnh về mọi mặt theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
1.2. Vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong quá trình đấu
tranh, phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

4
5

V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978,tr30
V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978,tr32


6

Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng
minh rằng bất kỳ ở đâu, vào lúc nào, nếu giai cấp vô sản tổ chức và xây dựng
được một chính đảng cách mạng, độc lập vững mạnh thì ở đó, lúc đó phong
trào thành công và phát triển mạnh; ngược lại ở đâu, lúc nào giai cấp vô sản
chưa tổ chức và xây dựng được chính đảng của mình thì ở đó, lúc đó phong
trào hoạt động trì trệ thậm chí khủng hoảng thoái trào. Trong tác phẩm “Bệnh
ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” Lênin đã khẳng định: “ Không có
một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, không có một đảng được
sự tín nhiệm của tất cả những phần tử trung thực trong giai cấp nói trên,
không có một đảng biết nhận xét tâm trạng của quần chúng và biết tác động
vào tâm trạng đó thì không thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh ấy đuợc”6
Giai cấp công nhân ra đời gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại. Ngay từ khi ra đời, giai cấp

công nhân đã liên tục đấu tranh với giai cấp tư sản, các cuộc đấu tranh của
công nhân không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát lên tự giác.
Phong trào công nhân quốc tế trước khi chủ nghĩa Mác ra đời vốn là các
phong trào mang tính tự phát, hoạt động đấu tranh của họ mới chỉ hướng vào
đập phá máy móc, đòi hỏi quyền lợi kinh tế như đòi tăng lương, giảm giờ làm,
chống cúp phạt…Các cuộc đấu tranh tiêu biểu như cuộc khởi nghiã của công
nhân dệt Xi lê di ( ở Đức), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Ly
on ( ở Pháp), hoặc như phong trào hiến chương ở Anh...Kết quả tất cả các
phong trào trên đều bị thất bại và bị giai cấp tư sản đàn áp đẫm máu. Năm
1848 bất mãn trước cảnh cùng cực của mình và chế độ bóc lột tàn khốc của
chính phủ đương thời, giai cấp công nhân châu Âu mà đặc biệt là giai cấp
công nhân ở Pháp và ở Đức đã tự phát cùng với giai cấp tư sản và nhân dân
lao động (giai cấp công nhân là người tiên phong), đã nổi dậy làm lên các
6

V.I. Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1977,tr34


7

cuộc cách mạng tháng hai và cách mạng tháng sáu vang dội Châu Âu; song
khi giành được thắng lợi thành quả cách mạng không phải về tay giai cấp vô
sản mà là giai cấp tư sản. Thật trớ trêu thay giai cấp tư sản, kẻ vừa cùng giai
cấp vô sản “sát cánh” đấu tranh lại quay sang phản bội họ, đàn áp họ trong bể
máu. Những thất bại đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản,
quan trọng là giai cấp công nhân lúc đó chưa có một đảng chân chính lãnh
đạo phong trào, với một hệ tư tưởng cách mạng chỉ lối soi đường. Thậm chí
ngay cả khi chủ nghĩa Mác đã ra đời, đã từng bước thấm sâu vào phong trào
công nhân, giúp giai cấp công nhân đã có một vũ khí lý luận cách mạng soi
đường; nhưng nếu GCCN không tổ chức được ra chính đảng, không có sự

lãnh đạo của đảng, thì phong trào cũng không thể thành công. Công xã Pa ri
(1871) là một điển hình. Công nhân Pari đã giành được chính quyền, bước
đầu bắt tay vào tổ chức xây dựng xã hội mới, nhưng cũng chỉ tồn tại được
trong vòng 72 ngày và rồi cuối cùng cũng thất bại dưới sự đàn áp của giai cấp
tư sản. Thất bại của công xã Pa ri một lần nữa lại chứng minh rằng, nếu không
thành lập được chính đảng Mác xít thì phong trào công nhân không những
không phát triển được, mà còn phải chịu những thất bại thảm hại.
Những bài học thất bại trong lịch sử, cùng với sự thâm nhập từng bước
của lý luận Mác xít vào phong trào công nhân đã giúp cho giai cấp công nhân
có những bước tiến rõ rệt. Những năm 70- 90 của thế kỷ thứ XIX , hàng loạt
các nước Châu Âu giai cấp vô sản đã tổ chức ra chính Đảng của mình, như
Đảng xã hội dân chủ Đức (1875), Đảng công nhân Pháp (1879), Đảng xã hội
dân chủ áo (1889), Đảng xã hội dân chủ Nga (1898)...đến năm 1896 trên lục
địa Châu Âu đã có 15 Đảng của giai cấp công nhân ra đời và đã thành lập
được tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân ( quốc tế II). Có thể nói rằng, với
sự hoạt động của các Đảng công nhân và Quốc tế II, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã thu được những thành tựu rất đáng khích lệ; giai cấp


8

công nhân đã thực sự trở thành lực lượng độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đã ngày càng nhận thức rõ hơn về sứ mệnh lịch sử của mình và đã có
nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh mới; những cuộc đấu tranh của họ
giờ đây đã được các đảng lãnh đạo và tổ chức; họ không những đấu tranh đòi
những quyền lợi về kinh tế mà mục tiêu đấu tranh của họ lúc này đã có tính
chất chính trị đòi xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền
về tay mình để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Tuy vậy, sau khi Mác và Ăng Ghen mất, công tác xây dựng đảng
không được trú trọng và tiến hành thường xuyên, quốc tế II đã bị bọn cơ hội,

xét lại lũng đoạn và kết quả là nó đã làm cho phong trào công nhân khủng
hoảng trì trệ. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại đã biến quốc tế II vốn là cách mạng
thành một tổ chức phản động, tiếp tay hoặc phục vụ cho các luận điệu của giai
cấp tư sản, phản lại lợi ích của giai cấp công nhân, phản lại lý luận chủ nghĩa
Mác.
Trước sự lũng đoạn của bọn cơ hội, xét lại trong quốc tế II, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có xu hướng chệch hướng. Nhận thức rõ vị trí
vai trò của đảng Mác xít đối với sự phát triển của phong trào công nhân,
Lênin đã đấu tranh tích cực chống bọn cơ hội chủ nghĩa, vạch trần bản chất
của chúng bảo vệ chủ nghĩa Mác và cùng những người đảng viên trung kiên
trong đảng dân chủ xã hội Nga đã từng bước đấu tranh thành lập ra tổ chức
đảng kiểu mới, một Đảng thực sự cách mạng trên nền tảng của chủ nghiã
Mác, kết quả tháng 7/1903 Đảng cộng sản Nga – Bônsêvích đã ra đời lãnh
đạo phong trào công nhân Nga.
Với sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, đứng đầu là Lênin, phong trào
công nhân Nga đã phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển đó được đánh dấu bằng
các cuộc cách mạng 1905, 1907 mà đỉnh cao của nó là cách mạng tháng Mười
Nga vĩ đại. Trong cách mạng Tháng Mười vai trò to lớn của Đảng Bônsêvích


9

và Lênin đã thể hiện, thông qua việc đánh giá tình hình trong nước, quốc tế để
xác định nhiệm vụ của cách mạng, xác định lực lượng cách mạng…Đặc biệt
việc xác định hình thức hòa bình của sự chuyển biến cách mạng từ cách mạng
dân chủ tư sản Tháng 2 lên cách mạng XHCN Tháng 10, là một sự sáng tạo,
một phát kiến độc đáo của Đảng Bôn và Lênin. Khi điều kiện cho sự chuyển
biến cách mạng bằng phương pháp hòa bình không còn, một lần nữa Đảng
Bôn và Lênin lại thể hiện sự sáng tạo, không bị động trong việc phát động
khởi nghĩa vũ trang trong tòan quốc. Đỉnh cao của sự sáng tạo và cũng là thể

hiện vai trò quyết định của Đảng Bôn mà đứng đầu là Lênin trong cách mạng
Tháng Mười là việc nắm tình thế, thời cơ và chớp thời cơ, phát động cách
mạng vào đêm 24, rạng ngày 25/10/1917. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bônsêvích và Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã làm
được điều kỳ diệu, đã biến chủ nghĩa Mác từ học thuyết, lý luận thành hiện
thực, bắt tay vào xây dựng Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Thắng lợi
của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên xây dựng CNXH hiện thực; mở ra một thời đại mới thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng
khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất.
Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn
và sâu xa như thế”7
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Nga; giai cấp công nhân và nhân dân Nga đã bảo vệ được
thành quả của cách mạng trước sự bao vây chống phá của chủ nghĩa đế quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã thu được nhiều thành công, tạo ra sức mạnh
để giành thắng lợi trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
7

Hồ Chí Minh, tuyển tập, tập 02, Nxb CTQG, Hà Nội 1980, tr461


10

Với những thành công vang dội ấy, đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ; các Đảng cộng sản, dưới
ngọn cờ của cách mạng tháng Mười Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân nước mình làm cách mạng, dẫn đến sự ra đời của một loạt các nước
XHCN, hình thành lên hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh vào những năm

50, 60 của thế kỷ XX; hàng loạt nước thuộc địa sau khi giành chính quyền đã
lựa chọn con đường CNXH hoặc phát triển theo định hướng XHCN.
Những năm 70- 80 của thế kỷ XX, những thành tựu to lớn của chủ
nghĩa xã hội đã chứng thực đó là một xã hội tốt đẹp; đã luận giải tính đúng
đắn của lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có lý luận về sự lãnh đạo
của Đảng vô sản, lý luận về xây dựng đảng và quy luật về mối quan hệ giữa
xây dựng chính Đảng vô sản vững mạnh với sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX ở các nước xã hội chủ nghĩa đã
bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu trì trệ, nhu cầu phải cải tổ, cải cách, đổi mới
đã trở lên cấp bách. Một số nước do kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin,
kiên định chủ nghĩa xã hội, làm tốt công tác xây dựng Đảng nên đã thu được
những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc đổi mới. Song bên cạnh đó
cũng đã có nhiều nước do sai lầm về đường lối đổi mới, đặc biệt là do không
làm tốt công tác xây dựng Đảng, không kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin,
buông lỏng nguyên tắc tập trung dân chủ, sai lầm trong công tác tổ chức, công
tác cán bộ, để cho kẻ thù lợi dụng và bọn cơ hội xét lại chui vào trong hàng
ngũ của đảng, lũng đoạn Đảng, làm cho Đảng mất vai trò lãnh đạo, cùng với
sự chống phá của kẻ thù; vì vậy công cuộc cải tổ thất bại dẫn đến sụp đổ chế
độ.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất to
lớn của CNXH hiện thực, song cũng đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý


11

báu. Một trong những bài học đó là phải thường xuyên làm tốt công tác xây
dựng Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa chứng
minh mối quan hệ giữa công tác xây dựng Đảng với sự phát triển và sinh tồn
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

2. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CÔNG SẢN
VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
Trong những năm gần đây, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”
chúng hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, lật đổ vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Việt Nam trở thành
trọng điểm chống phá, trong đó xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam là một mũi nhọn. Để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình và đấu tranh
có hiệu quả làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch hơn lúc nào hết, việc xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính
trị tư tưởng và tổ chức không chỉ là nhiệm vụ then chốt của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay nó còn là một vấn đề cấp bách.
2.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tiến trình
cách mạng qua các thời kỳ.
Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất
nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bị chia cắt thành nhiều
mảnh đã trở thành một nước Việt Nam hoà bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ;
dân tộc Việt Nam từ địa vị bị nô nệ, bị bóc lột giã man đã vươn lên thành chủ
nhân chân chính của xã hội. Những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt
Nam xuất phát từ những nhân tố, những tiền đề khách quan và chủ quan khác


12

nhau trong đó đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.

Thật vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước khi
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, dân tộc Việt Nam “chìm đắm” dưới ách đô
hộ của thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, đời sống của nhân dân
vô cùng khổ cực; đã có nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân ta nổ ra mong
muốn giải phóng được dân tộc thoát khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa
thực dân, phong kiến; tiêu biểu như phong trào nông dân của Hoàng Hoa
Thám, phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến của chiếu Cần
vương, hay theo tư tưởng tư sản và tiểu tư sản của Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu, Nguyễn Thái Học… song tất cả các phong trào đó đều dẫn đến thất
bại...Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại là do các phong trào
đó chưa có đường lối cách mạng đúng đắn, chưa được trang bị một hệ tư
tưởng thực sự cách mạng khoa học để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Vượt lên những nhà tư tưởng đương thời, Nguyễn Tất Thành đã ra đi
tìm đường cứu nước, khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt khi đọc
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã thốt lên rằng
con đường cứu nước, cứu dân là đây. Người đã nhận ra một chân lý rằng
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”8 và Người khẳng định, cách mạng Việt Nam:
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.

8

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1981, Tập 2, Tr 163


13

Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy"9.

Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về chính đảng vô sản của
giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản
Việt Nam trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã trở
thành người tổ chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Khi mới
ra đời ngay từ cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã xác định cách mạng Việt Nam
phải trải qua hai giai đoạn là thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
khi hoàn thành tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển
TBCN, vì vậy đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối, đáp ứng
được với đòi hỏi của lịch sử và phù hợp với xu thế mới của thời đại do cách
mạng Tháng Mười tạo ra. Đường lối chiến lược đó đã trở thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với đường lối cách mạng đúng đắn nên ngay sau đó, Đảng đã phát
động được hàng loạt cao trào đấu tranh rộng lớn. Mở đầu là cao trào 30- 31
với đỉnh cao là Xô Viết nghệ Tĩnh. Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách
mạng nước ta, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong quá trình đấu
tranh giành và giữ chính quyền sau này. Tiếp đó là cao trào đòi dân sinh, dân
chủ 1936- 1939, một trong những thành công của cao trào này là Đảng ta đã
tập hợp và xây dựng được lực lượng chính trị quần chúng rộng rãi chuẩn bị
cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 sau này.
Vào đầu năm 1945 khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, Đảng đã phát
động và lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước giành
thắng lợi. Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 thể hiện sự năng
9

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1995, Tập 2, Tr 267-268


14


động, sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trong nắm bắt thời cơ,
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến, tạo thời cơ và nắm thời cơ phát động quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945, chấm dứt gần một thế
kỷ đô hộ của thực dân Pháp, mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới- kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng tháng tám, tình
thế cách mạng nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”, song với đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua thác
ghềnh, chính quyền non trẻ được giữ vững và ngày càng lớn mạnh. Trước
những khó khăn chồng chất dân tộc ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh; với tư tưởng “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc”, chúng ta đã làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu; đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, đưa miền Bắc tiến
lên CNXH, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam. Với
đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng trên hai miền Tổ
Quốc, Đảng phát động lời kêu gọi: “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, “Đánh cho
Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào” quân, dân hai miền dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã làm lên thắng lợi mùa xuân năm 1975, đập tan chế độ thực dân mới của đế
quốc Mỹ ở Miền Nam. Thắng lợi của cách mạng mùa xuân năm 1975 mở ra
một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, thời kỳ độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, cả nước bước vào xây dựng CNXH.
Bước vào xây dựng CNXH với muôn vàn khó khăn thử thách: Điểm
xuất phát thấp, lực lượng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún lại bị tàn phá nặng nề
sau chiến tranh, cơ sở sản xuất hầu như không đáng kể; tập quán, thói quen


15


sản xuất nhỏ ăn sâu bám rễ trong tư tưởng người lao động... Song với đường
lối lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam vẫn được giữ
vững, chính trị ổn định, an ninh được tăng cường tạo điều kiện cho đổi mới và
phát triển đất nước sau này.
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu nóng vội, chủ quan, thực hiện cải tổ cải cách ồ ạt và vấp
phải những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ, thì ở Việt
Nam Đảng ta kiên trì đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định
hệ tư tưởng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến hành đổi mới thận trọng
từng bước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng cộng sản
Việt Nam là một mốc quan trọng đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước. Tiếp đó các Đại hội VII, VIII, IX, X đã lãnh đạo, đưa sự nghiệp đổi
mới của nước ta đạt những thành tựu to lớn, tạo thế và lực mới và khẳng định
bước đi đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn đổi mới toàn diện
đất nước, Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng: “Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”10...
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: dù bất cứ tình huống nào,
đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc xây dựng Đảng vững mạnh là một
nhiệm vụ thường xuyên, then chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, nó đòi hỏi phải được sự quan tâm của không chỉ bản thân những người
đảng viên cộng sản mà là của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trước khi
từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh
đốn Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều làm tròn
nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm

10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.Ctqg,HN,2001,tr.137



16

được như vậy, thì dù công to việc lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất
định thắng lợi”11
2.2. Yêu cầu cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong thời kỳ đổi mới.
Ngay từ khi vừa ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng
nước ta, Đảng ta luôn thể hiện là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá mạnh mẽ
của kẻ thù; trước những bất cập, và hạn chế trong công tác xây dựng Đảng đòi
hỏi Đảng ta cần phải chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, coi
công tác xây dựng đảng không những chỉ là một quy luật thường xuyên mà
còn là vấn đề cấp bách. Tính cấp bách của công tác xây dựng Đảng xuất phát
từ những lý do cơ bản sau:
* Xuất phát từ vị trí, vai trò ngày càng tăng của Đảng trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
Hiện nay chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế. Tình hình trong nước và quốc tế đem lại những vận
hội mới, nhưng cũng đặt ra những nguy cơ, thách thức lớn cho cách mạng
nước ta. Vì vậy một trong những vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta phải
quan tâm hàng đầu đến công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ngang
tầm nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt nam tận dụng những cơ hội,
vượt qua thách thức, đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp đổi mới của Việt nam
đến thắn lợi cuối cùng.
Mặt khác, sự nghiệp đổi mới, với chủ trương thực hiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt những
11


Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1995, t.12, tr512


17

thành tựu vô cùng quan trọng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Trong thực tiễn,
cơ chế thị trường đã tạo ra những bước phát triển mới đối với nền kinh tế
nước ta, kích thích được năng lực sản xuất của xã hội; đẩy mạnh quá trình áp
dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản
xuất để tăng năng xuất lao động làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho
xã hội. Tuy vậy, bên cạnh đó mặt trái của kinh tế thị trường cũng để lại nhiều
vấn đề cần giải quyết, nó làm thay đổi cơ cấu xã hội giai cấp, nới rộng khoảng
cách phân hoá giàu nghèo; đạo đức, lối sống xã hội có nhiều phức tạp; đất
nước đang đặt trước những nguy cơ lớn, đặc biệt là nguy cơ tham nhũng và
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những “mặt trái”, những hạn chế trên đòi hỏi Đảng ta
phải có những quyết sách phù hợp, để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế nhưng
cũng vừa kích thích được tiến bộ xã hội; vừa khuyến khích được tính tích cực,
năng động, sáng tạo của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưng
cũng vừa giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa tiến hành hợp tác,
đầu tư kinh tế vì những mục tiêu kinh tế trước mắt lại vừa đảm bảo sự nghiệp
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản...Tất cả những yêu cầu đó chỉ được thực hiện thông qua các chủ
trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước ta. Để giải quyết những mâu thuẫn
trên đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối, chủ trương đúng đắn , mềm dẻo và
linh hoạt, để vừa thực hiện được nhiệm vụ dân tộc lại vừa giải quyết được
nhiệm vụ giai cấp. Do vậy, Đảng ta một mặt phải không ngừng nâng cao bản
lĩnh chính trị, trí tuệ của mình mặt khác phải thường xuyên làm tốt công tác
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; có như vậy mới đảm bảo cho Đảng ta

có đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giành thắng lợi giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


18

* Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch càng ráo riết chống phá cách mạng thế giới, trong đó
chúng tập trung chống phá hòng xoá bỏ các nước XHCN còn lại, đưa thế giới
phát triển theo quỹ đạo của CNTB. Bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”
chúng đã sử dụng rất nhiều những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt điên
cuồng chống phá các nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng
điểm. Chúng chống phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hoá; chống phá Đảng, Nhà Nước XHCN...một trong mũi nhọn chúng tập
trung chống phá đó là Đảng cộng sản, hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản, coi đây là một mũi nhọn tiến tới xoá bỏ chế độ XHCN.
Bằng những luận điệu phản động chúng ra sức xuyên tạc bản chất giai
cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam, hoặc lợi dụng những thiếu sót
của Đảng, tô hồng, bóp méo sự thật, vu khống, xuyên tạc đường lối lãnh đạo
của Đảng, cho Đảng ta chuyên quyền độc đoán ; đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với toàn thể xã hội, kích động, chia rẽ gây mất đoàn kết trong
Đảng, tạo ra lực lượng chống phá từ bên trong; đòi đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập... Tất cả những âm mưu thủ đoạn đó chúng đã áp dụng thành
công ở Liên Xô và Đông Âu, gây ra sự khủng hoảng dẫn đến sụp đổ CNXH ở
Liên Xô và Đông Âu, gây tổn thất to lớn cho phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế; nay cũng với nhũng âm mưu thủ đoạn đó chúng đem áp dụng
vào để chống phá các nước XHCN còn lại, trong đó có nước ta. Đảng ta và
nhân dân ta đã nhận thức rõ và cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của bọn

chúng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó. Nhưng
trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới; trước sự chống phá điên
cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đáng tiếc có một số đảng


19

viên của Đảng dao động lập trường tư tưởng, hoặc bị lôi kéo móc lối đã ngả
sang hàng ngũ của kẻ thù, phản bội lại lợi ích của Đảng của cách mạng. Do
vậy, để đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, đòi hỏi
Đảng ta phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo ra cho đảng
viên và Đảng có đủ sức “miễn dịch” với chiến lược “diễn biến hoà bình” của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để làm được điều đó đòi hỏi Đảng
ta phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là
quy luật phát triển của Đảng, đảm bảo cho Đảng luôn trong sạch, đủ sức lãnh
đạo cách mạng nước ta.
* Do thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay còn tồn tại nhiều
bất cập, yếu kém.
Nhận thức rõ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, nhận
thức rõ vị trí, vai trò của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngay từ khi ra
đời cho đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đảm bảo cho Đảng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai
đoạn cách mạng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình
nghiêm túc, tại đại hội VI và sau đó được tiếp tục tại đại hội Đảng VII, Đảng
ta đã chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng, ý thức một cách sâu sắc về tầm
quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tại đại hội Đảng VI,
Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới công
tác cán bộ, đổi mới phong cách công tác. Tiếp tục phương hướng này, tại đại
hội Đảng VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tại Hội

nghị Trung ương ba khoá VII(6 - 1992), Đảng ta đã cụ thể hoá chủ trương đó
và nhấn mạnh rằng lúc này xây dựng kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng
là then chốt.Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và tiếp đó trong Hội nghị Trung


20

ương 6 (lần 2), Đảng ta đã đưa ra chủ chương: Toàn Đảng tiến hành cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Để khắc
phục những hạn chế và tạo ra nhữngbước chuyển biến mới trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Bộ chính tri Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX đã ban hành chỉ thị số 03- CT/TW về việc tiếp tục thực hiện nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII
Như vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay Đảng ta đã rất quan tâm đến
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Song bên cạnh đó công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian vừa qua còn nhiều bất cập yếu
kém.
Một là, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê
bình trong các cấp ủy, tổ chức Đảng, đảng viên chưa đạt được yêu cầu đề ra,
chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy
lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Vịêc xử lý kỷ luật đối với những người đứng đầu
để xẩy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kiên quyết
nghiêm minh và kịp thời.
Hai là, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu
sót; tính định hướng ,tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao;
thiếu chủ động và sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu “ diễn biến hòa
bình”, chống tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, bác bỏ quan

điểm sai trái. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống còn
chung chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Trong chỉ đạo, quản lý cũng như hoạt


21

động của báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ còn yếu kém, khuyết điểm
chậm được khắc phục, nhất là chưa ngăn chặn có hiệu quả khuynh hướng xa
rời tôn chỉ mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém,vì lợi ích vật chất cá nhân,
cục bộ.
Ba là, công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu chưa thực hiện đầy đủ
các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ
chức và cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. Còn
thiếu những quy chế cụ thể nhằm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung
dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và
phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ ở một số
nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình
thức.Tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm đúng mức.Không ít cơ sở đảng
yếu kém, năng lực lãng đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt đảng và quản lý
đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình
yếu.
Bốn là, nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được
khắc phục, nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công
tác. Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Chưa kiên quyết và thiếu những quy chế
có hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán
bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, đẻ công việc trì trệ; hầu như chỉ khi

cán bộ bị kỷ luật hoăc vi phạm pháp luật mới thay thế được.Chưa có chính
sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài vào các lĩnh vực quan
trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở các địa
phương, ngành.


22

Năm là, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là
trong việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay. Chậm bổ
sung và sửa đổi một số điểm không còn phù hợp trong quy định 75-QĐ/TW
về một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng. Tổ chức bộ máy và cán bộ
làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ chậm được kiện toàn, nhiều cấp ủy, tổ
chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Sáu là, công tác kiểm tra trong đảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả
kiểm tra chưa cao; nhiều khuyết điểm sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng
chậm được phát hiện, khắc phục.
Bảy là, việc đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng
túng. Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức
Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng cơ chế phối hợp giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện
đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa
thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc thực hiện nói đi đôi với
làm; tình trạng nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm còn diễn ra ở
nhiều nơi.
Trước những yếu kém, bất cập của công tác xây dựng Đảng, hơn lúc
nào hết, để Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước,
hội nhập quốc tế hiện nay, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công
tác xây dựng Đảng, coi đó là vấn đề bức thiết và cấp bách.

2.3. Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu qua 25 năm đổi mới về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
2.4. Một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong xây dựng và chỉnh
đốn Đảng ta hiện nay


23

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề then chốt, là nhiệm vụ thường
xuyên đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Tuy
nhiên, để công tác xây dựng Đảng đạt hiệu quả cao và đi đúng hướng thì
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải chú ý một số vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
Một là, Phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị và lập trường
giai cấp công nhân trong Đảng. Thực tiễn hiện nay, trước những biến động
của tình hình thế giới và trong nước, nhất là từ khi các nước XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ, đã có rất nhiều học thuyết, tư tưởng mới đang nảy nở
như “nấm sau mưa”; nhưng Đảng ta vẫn luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 12 , nên
kể từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình; ngày nay trước những biến
động lớn của tình hình thế giới, Đảng ta vẫn khẳng định chỉ có kiện định với
chủ nghĩa Mác- Lênin thì cách mạng nước ta mới giành được thắng lợi. Thực
tế ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy, do Đảng cộng sản ở các nước này bị một
số phần tử cơ hội xét lại lũng đoạn, nên đã xa rời, xét lại chủ nghĩa MácLênin; lợi dụng cải tổ, đổi mới để xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng làm cho
chế độ khủng hoảng tiến tới sụp đổ. Đó là bài học xương máu mà Đảng ta cần
phải rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, cũng như
trong quá trình xây dựng Đảng

Hai là, thường xuyên chăm lo xây dựng mối đoàn kết trong nội bộ
Đảng tạo thành khối thống nhất ý chí và hành động. Đoàn kết là sức mạnh vô
địch, là yếu tố vô cùng quan trọng trong xây dựng Đảng; đoàn kết đoàn kết,
12

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1995, Tập 2, Tr 268


24

đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công. Trong di chúc của Bác
Hồ, Người đã nhắc nhở Đảng và nhân dân ta: “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta, các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Đoàn kết phải tạo thành khối thống nhất ý trí và hành động;
phải chăm lo xây dựng Đảng, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình giữ nghiêm
kỷ luật trong Đảng.
Bà là, luôn giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Bài học từ
sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng xuất phát từ sự không tuân thủ
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, do đó chưa tạo được sự thống nhất ý trí
và hành động, chưa tập chung được trí tuệ trong Đảng. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đảng ta phải luôn quán triệt và thực hiện tốt
nguyên tắc tập chung dân chủ có như vậy mới tạo ra được sự thống nhất
trong Đảng, tạo ra được sức mạnh cho Đảng trong quá trình lãnh đạo cách
mạng nước ta.
Bốn là, Luôn giữ vững mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Sự sụp
đổ của Liên Xô và Đông Âu là do các Đảng cộng sản ở các nước này xa rời
quần chúng, không tạo ra được mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, thậm
trí đề ra những chính sách phi lý, không tin tưởng và hạ thấp vai trò của trí
thức...Đảng ta, từ khi ra đời đến nay luôn giữ gì mối quan hệ tốt giữa Đảng

với quần chúng; khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận thống nhất luôn
luôn được củng cố và phát triển trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Năm là, luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu chống phá của kẻ thù. Trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng,
phải luôn cảnh giác không được mơ hồ mất cảnh giác trước những thủ đoạn


25

của các thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược “DBHB” của chúng; cần tỉnh
táo, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn từ xa không để bị bất ngờ trong mọi tình
huống.
Trong những năm qua Đảng ta đã quán triệt và thực hiện tốt những
nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, đã đề ra được những phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp sát đúng cho công tác xây dựng Đảng trong
từng thời kỳ. Do vậy đã thu được nhiều thành tựu trong công tác xây dựng
Đảng, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo cho Đảng đủ
sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của nước ta. Ngày nay, khi mà sự nghiệp đổi
mới của Đảng và Nhà nước ta đã bước sang giai đoạn mới, có nhiều thới cơ
vận hội mới, nhưng cũng có nhiều nguy cơ thách thức, tình hình thế giới có
nhiều biến động phức tạp. Hơn lúc nào hết Đảng ta phải quán triệt và thực
hiện tốt những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, có như vậy thì
công tác xây dựng Đảng mới đi đúng hướng và tạo ra những bước đột phá
mới trong công tác xây dựng Đảng.
2.4. Một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay.
Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thật sự trong
sach, vững mạnh, bảo đảm vị thế của Đảng cầm quyền, thiết nghĩ công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần thiết phải thực hiện tốt những vấn đề mang

tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường
bản chất cách mạng và khoa học của Đảng.
Là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo toàn xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với quốc tế, mặt trái của mở cửa hội
nhập và của kinh tế thị trường kiến không ít cán bộ, đảng viên có chức có


×