Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH vận DỤNG QUAN điểm mác lê NIN, tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về dân CHỦ và THỰC HÀNH dân CHỦ TRONG xây DỰNG CHẾ độ dân CHỦ XHCN ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.48 KB, 25 trang )

1

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG
XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội, phản ánh mối quan hệ giai cấp, nhà
nước và mối quan hệ giữa người với người. Dân chủ có quá trình ra đời, hình thành và
phát triển hoàn thiện phụ thuộc vào trình độ phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Nội dung, bản chất của dân chủ do bản chất giai cấp cầm quyền chi phối. Thuật ngữ
dân chủ ra đời ra đời rất sớm và chế độ dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện giai
cấp, nhà nước và nó được bổ sung, phát triển và hoàn thiện qua các giai đoạn lịch sử.
Dân chủ tư sản là bước đột phá lớn trong sự phát triển của dân chủ, nó phá tan đi “đêm
trường trung cổ” của đế chế phong kiến, trong đó sự kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền
với vương quyền đã hạn chế rất lớn quyền dân chủ của con người. Tuy vậy, đó cũng
chỉ là “thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ, giả dối”. Chỉ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời
mới có quan điểm đúng đắn, khoa học về dân chủ và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Chỉ có chủ nghĩa xã hội (CNXH), dân chủ mới được thực thi rộng rãi, triệt
để, thực sự đem lại quyền lực cho đại đa số quần chúng nhân dân lao động, con người
mới thực sự tự do, bình đẳng, phát triển toàn diện cá nhân. Nghiên cứu dân chủ và dân
chủ XHCN của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh để thấy rõ cơ sở của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN hiện nay.
Đồng thời là cơ sở cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG XÃ HỘI.


2


1.1. Lịch sử với những tiền đề dẫn đến sự hình thành tư tưởng dân chủ của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội, vừa mang tính lịch sử, vừa mang
tính giai cấp sâu sắc. Lịch sử phát triển của dân chủ gắn liền với những điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội nhất định. Dân chủ là sản phẩm của giai cấp và đấu tranh giai cấp,
là tổ chức quyền lực của giai cấp cầm quyền đối với xã hội.
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ rất sớm, khi xã hội loài người có tình trạng
người bóc lột người, có sự phân chia giai cấp đối kháng, có nhà nước. Từ thời Hy lạp
cổ đại đã có dân chủ, nhưng chỉ là dân chủ đối với công dân tự do, còn người nô lệ chỉ
được coi là “những công cụ biết nói”; có đại hội nhân dân, có bầu cử, ứng cử, có biểu
quyết trực tiếp công khai, có hiến pháp và cơ chế giám sát đối với mọi vụ dân cử, với
viên chức đại diện cho quyền lực công cộng, nhưng rồi quyền lực công cộng, quyền
lực làm chủ qua nhiều quá trình đấu tranh đã dần dần về tay giai cấp chủ nô, để cuối
cùng xuất hiện đế chế.
Theo dòng phát triển của lịch sử xã hội loài người, những tư tưởng về dân chủ
cũng không ngừng phát triển và mở rộng. Song, trong xã hội phong kiến, dân chủ bị
chôn vùi trong sự thống trị của vua chúa và tôn giáo thời trung cổ, dân chủ chỉ tồn tại
trong những khát vọng của các nhà tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
Những năm cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, nhiều những thành tựu phát triển
về khoa học - kỹ thuật đã làm chuyển biến mới về trình độ sản xuất. Sản xuất hàng hóa
tư bản chủ nghĩa (TBCN) phát triển thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp và hàng
hải. Đây là thời kỳ tích lũy ban đầu gắn liền với quá trình quan hệ sản xuất TBCN tiến
bộ thay thế cho quan hệ sản xuất phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu. Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế, về mặt chính trị - xã hội và văn hóa - tư tưởng cũng thay
đổi về chất. Phong trào văn hóa phục hưng khởi đầu vào thế kỷ XIV, phong trào cải
cách tôn giáo thế kỷ XVI phát triển mạnh mẽ. Cả hai phong trào này đều phản ánh hệ
tư tưởng của giai cấp tư sản và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản mới ra đời, đang


3


sung sức, chống lại hệ tư tưởng giáo hội - phong kiến phản động. Chính vì vậy, tư
tưởng dân chủ lại có điều kiện để củng cố, bổ sung và phát triển. Đánh dấu sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội không tưởng với tư cách là trào lưu tư tưởng của nhân loại. Tô
Mát Morơ (1478 - 1535) với tác phẩm “UTOPI” đã kế thừa, bổ sung và phát triển tư
tưởng dân chủ nhân loại. Trong tác phẩm của mình, ông đã mơ ước đến xã hội tương
lai, xã hội đó là một khối thống nhất về kinh tế, nền kinh tế đó dựa trên sở hữu chung
về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, xã hội được tổ chức một cách bình đẳng cho
mọi thành viên. tuy nhiên, trong xã hội đó, ông thừa nhận có nhà nước, nhà nước tổ
chức ra do nhu cầu của xã hội và vì hạnh phúc của nhân dân, “...chức năng cơ bản của
nhà nước là kiểm kê và phân phối, điều hành lao động, làm ngoại thương, kiểm duyệt
công việc của các gia đình...”1
Thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đánh dấu sự phát
triển lớn của lịch sử xã hội loài người. Những tiến bộ của kinh tế - xã hội, khoa học kỹ
thuật đã tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giai cấp tư sản
(GCTS) nhân danh tự do dân chủ của đa số, đại diện cho người lao động tiến hành
cách mạng tư sản, với khẩu hiệu: “tự do, bình đẳng, bắc ái” đã tập hợp lực lượng tiến
hành cách mạng xã hội, lật đổ sự thống trị của đế chế phong kiến, thiết lập nên chế độ
TBCN ở châu Âu. trước sự thắng lợi của GCTS và sự phát triển của nền kinh tế
TBCN, tư tưởng dân chủ có điều kiện phát triển và thực thi trong xã hội. Nền dân chủ
tư sản hình thành, phát triển và là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử xã hội lúc
bấy giờ. Nhưng, rốt cục nội dung, cơ chế dân chủ do nhà nước tư sản đặt ra làm cho
quyền lực tập trung về tay GCTS, tạo ra một kiểu dân chủ mà dân chúng không có
thực quyền chính trị. Tuy có bầu cử, ứng cử, tam quyền phân lập, tự do ngôn luận, tự
do cá nhân, nhưng quyền lực nhà nước thực sự vẫn nằm trong tay GCTS, thậm chí
trong tay một số nhà tư bản đầu sỏ. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra bản chất của
hiện tượng xã hội ấy và cũng chỉ rõ những hình thức bề ngoài của dân chủ mà các giới
1

Đỗ Tư, Lược khảo những tư tưởng XHCN và CSCN, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 76.



4

cầm quyền đã sử dụng. Lênin viết: “...chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong
khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó luôn luôn là
chế độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng
những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi.”1
Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử tư tưởng
dân chủ nói riêng, chủ nghĩa Mác ra đời (1848) đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại. Kế
thừa, phát triển tư tưởng dân chủ trong lịch sử, chủ nghĩa Mác đã phân tích rõ bản chất
dân chủ nói chung, dân chủ XHCN nói riêng. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, dân chủ
là một phạm trù chính trị - xã hội mang tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc. Quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của dân chủ gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể. Bản chất cốt lõi của dân chủ là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, dân chủ
phản ánh mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp (kết quả của quá trình đấu tranh
giai cấp), dân chủ ra đời không phải tự nhiên, mà nó là sản phẩm, thành quả trực tiếp
của cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân lao động. Dân chủ là sự phản ánh mối quan
hệ công dân theo nguyên tắc bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, dân chủ
mang tính xã hội sâu sắc, là thước đo trình độ giải phóng con người, trình độ làm chủ
của con người cả về ý thức và năng lực. Do vậy mỗi nền dân chủ ra đời, vừa mang tính
giai cấp sâu sắc, vừa mang giá trị xã hội, là thước đo trình độ phát triển tiến bộ, văn
minh của xã hội.
Để thực hiện dân chủ trong thực tiễn xã hội, theo quan điểm chủ nghĩa Mác,
cần phải có một thiết chế dân chủ, đó là hình thái nhà nước. Nhà nước là sự “tự quy
định” của nhân dân, do nhân dân bầu ra và bãi miễn khi cần. Trong xã hội có giai cấp,
nhà nước luôn mang tính giai cấp sâu sắc, nhà nước là cơ quan quyền lực bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp giữ địa vị thống trị xã hội và thực hiện trấn áp đối với các giai
cấp khác. Do vậy, dân chủ bao giờ cũng gắn liền với chuyên chế, chế độ dân chủ tiến
bộ hay không, phụ thuộc vào việc nó thực hiện dân chủ với ai và chuyên chế với ai.

1

V.I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ, M. 1976, T.33, tr. 107.


5

Đối tượng thực hiện dân chủ càng được mở rộng, thì bản chất của chế độ dân chủ càng
tiến bộ và ngược lại.
Trình độ phát triển của chế độ dân chủ phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế chính trị - xã hội lịch sử cụ thể. Dân chủ tư sản là một bước phát triển vượt bậc so với
các nền dân chủ trước đó trong lịch sử, nhưng đó chỉ là dân chủ hình thức nằm trong
sự mất dân chủ lớn nhất, cơ bản nhất là mất tự do. Nền dân chủ tư sản được xây dựng
trên cơ sở tước đoạt quyền tự do chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động, bảo vệ lợi ích tối đa cho thiểu số GCTS thống trị. Lênin viết: “vậy là trong xã
hội tư bản chủ nghĩa, chúng ta chỉ có một thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ giả dối, một
thứ dân chủ chỉ dành riêng cho bọn giàu có, cho số ít.” 1. Vì vậy, dân chủ tư sản không
phải là cái đích cuối cùng mà loài người hướng tới. Với khát vọng bao đời của con
người muốn vươn lên làm chủ và được quyền làm chủ không chỉ bản thân mình mà
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, dân chủ tư sản cần phải được thay thế
bằng một nền dân chủ mới tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn, đó là dân chủ XHCN.
Dân chủ XHCN là một thể chế chính trị, trong đó quyền lực xã hội thuộc về
nhân dân, là một hình thức tự quy định của nhân dân để chi phối các cá nhân, các tổ
chức và toàn xã hội, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, được bảo đảm
bằng pháp luật của nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự ra đời
của dân chủ XHCN được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước XHCN. Suy cho cùng,
chế độ dân chủ cũng là một hình thức nhà nước, đấu tranh cho thắng lợi của CNXH
cũng là đấu tranh cho thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn. Lênin viết: “Không thể có
chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn, giai cấp vô sản
cũng không thể nào chuẩn bị để chiến thắng giai cấp tư sản được nếu nó không tiến
hành một cuộc đấu tranh toàn diện, triệt để và cách mạng để giành dân chủ.”2.

Như vậy, nền dân chủ XHCN được xây dựng trên chế độ XHCN, đó là chế độ
được xây dựng trên nền tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; xã hội do
1
2

V.I.Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ, M. 1976, T. 33, tr. 110.
V.I.Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ, M. 1976, T. 27, tr. 324.


6

nhân dân lao động là chủ trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công
nhân. Nền dân chủ XHCN được xây dựng trên cơ sở thống nhất về lợi ích của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động, chuyên chính với thiểu số giai cấp bóc lột, các lực
lượng phản động đi ngược lại lợi ích của quần chúng nhân dân. Lênin viết: “chỉ có xã
hội cộng sản chủ nghĩa, khi sự phản kháng của bọn tư bản đã hoàn toàn bị đập tan, khi
bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa là giữa các thành viên
trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ của họ đối với
những tư liệu sản xuất xã hội), chỉ lúc đó nhà nước mới không còn nữa và mới có thể
nói đến tự do. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế,
mới có thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu
vong vì lý do đơn giản là khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa”1.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động,
được thực thi trên thực tế, được pháp luật XHCN thừa nhận và đảm bảo. Trong nền
dân chủ XHCN, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền được
hưởng những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội; có quyền tham gia kiểm tra, giám
sát, bàn bạc và quyết định các vấn đề cơ bản của xã hội; có quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ công dân đối với xã hội. Lênin viết: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đưa lại
một chế độ dân chủ thật sự hoàn toàn và nó càng hoàn bị bao nhiêu thì càng mau trở

nên thừa và tự tiêu vong bấy nhiêu.”2
Nền dân chủ XHCN ra đời là sự kế thừa và phát triển các giá trị dân chủ của
nhân loại, là nền dân chủ mang bản chất GCCN. Đây là nền dân chủ cuối cùng trong
lịch sử xã hội loài người. Tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi khi xã hội không còn
giai cấp, không còn nhà nước, khi xã hội cộng sản đã phát triển trên cơ sở của chính
nó.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ trong xã hội.
1
2

V.I.Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ, M. 1976, T.33, tr. 109 - 110.
Sđd, tr. 110.


7

Vào những năm đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc khủng hoảng mới
do sự phát triển không đều vốn có của CNTB. Sự tranh giành thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc đã trở nên gay go quyết liệt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã trở nên tột
đỉnh, đẫn đến nổ ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất. ảnh hưởng của cuộc chiến tranh
đã lan rộng khắp các thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, trong đó có nước ta. Để bù lại
những thiệt hại trong chiến tranh, thực dân Pháp đã tăng cường bóc lột nhân dân ta hết
sức thậm tệ. Trước cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than cực khổ, nhiều phong
trào yêu nước liên tiếp nổ ra, như: phong trào Cần vương phò vua cứu nước, phong
trào Duy tân của Phan Bội Châu, cuộc khởi nghĩa của Phan Chu Trinh, tư tưởng của
Quốc dân đảng... song tất cả các phong trào đó đều dẫn đến thất bại. Nguyên nhân dẫn
đến sự bế tắc, khủng hoảng đó là sự lựa chọn sai con đường cách mạng trước xu thế
phát triển mới của xã hội loài người. Vượt lên tầm nhìn của các nhà tư tưởng đương
thời, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác Lênin, đặc biệt là khi đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc” của Lênin, Người đã tìm
thấy con đường cho cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa

cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho loài người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho
đến nay chỉ là vách tường dày ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau
và yêu thương nhau.”1. Đó là kết quả tư duy của Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, đi theo con đường XHCN.
Sinh thành trong cảnh nước mất, nhà tan, Hồ Chí Minh thấu hiểu nỗi nhục của
người dân mất nước. Khát vọng của Người cũng như khát vọng của hàng vạn người
dân khác đó là độc lập dân tộc. Tư tưởng đó được Hồ Chí Minh khái quát trong mệnh
đề nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc là cơ sở cho sự

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T 2, tr. 224.


8

hoàn thiện giá trị dân chủ trên con đường thực hiện mục tiêu đấu tranh cách mạng, giải
phóng xã hội.
Từ thực tiễn lịch sử xã hội của một số nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí
Minh đặt ra yêu cầu đầu tiên là dân tộc phải được độc lập. Quyền tự quyết của dân tộc
phải được thực hiện một cách đầy đủ, nước Việt Nam là của người Việt Nam, nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. đối với một nước thuộc địa nửa phong
kiến, Hồ Chí Minh xác định rõ vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, nền tảng của vấn đề
dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng đông đảo nhất để chống phong
kiến, chống đế quốc. Nhưng để cho quyền lợi của dân tộc đến được với đại đa số nhân
dân, cuộc cách mạng phải được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chỉ có
giai cấp công nhân lãnh đạo, thì cách mạng mới thắng lợi. Hồ Chí Minh viết:
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì tổ chức vận động và tổ chức

dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.” 1.
Trong khi xác định đối tượng và lực lượng lãnh đạo đấu tranh thực hiện dân quyền, để
mở rộng thế và lực của cách mạng, Hồ Chí Minh trú trọng đến việc liên minh các giai
tầng trong xã hội, phát động tinh thần yêu nước hướng về giải phóng dân tộc.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: mâu thuẫn giữa nông dân với tầng lớp địa chủ phong kiến - đó là
mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc - là tiền đề cho cuộc đấu tranh cho dân chủ; mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược là tiền đề của cuộc đấu tranh vì
CNXH. Hai mâu thuẫn này phải được giải quyết đồng thời trong tiến trình cách mạng.
Đấu tranh cho dân chủ tất yếu chuyển sang đấu tranh vì CNXH; đấu tranh cho CNXH
là tiếp tục hoàn thiện đấu tranh cho dân chủ. Trong chính cương vắn tắt, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ:
“Tư sản dân quyền cách mạng, thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”.
1

Sđd, tr. 267, 268.


9

Như vậy, việc xác định con đường cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam và lực lượng trong cuộc cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ rõ với mục đích
cuối cùng là: “...làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 2. Mục đích của
Người đó cũng chính là khát vọng của hàng vạn con người Việt Nam trong gần một
thế kỷ dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. ý chí vươn lên tự khẳng định mình, đấu tranh
cho độc lập tự do của dân tộc, đưa người dân lên làm chủ và quyền làm chủ không chỉ
bản thân mình mà trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, được Hồ Chí Minh khái quát:
“Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”. Đó là sự biểu đạt quyền lực của nhân

dân trong xây dựng, bảo vệ và sử dụng quyền lực nhà nước. Đấu tranh cho độc lập dân
tộc, đem lại quyền lợi cho nhân dân trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa bằng
cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công
nhân. Trên mọi phương diện của đời sống xã hội Hồ Chí Minh coi dân chủ là cái đáng
quý nhất của con người. Dân chủ là sức mạnh, là khát vọng vươn lên làm chủ của mỗi
cá nhân được tập hợp lại trong sức mạnh của cả cộng đồng giành quyền làm chủ và thể
hiện năng lực làm chủ.
Dân chủ là quan hệ chính trị, là một chế độ nhà nước, theo Hồ Chí Minh chế độ
dân chủ là chế độ nhà nước của dân, do dân xây dựng nên, phục vụ cho lợi ích của
nhân dân, do nhân dân quyết định mọi hoạt động của nhà nước. Hồ Chí Minh viết:
“Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân; công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc là công việc của dân; chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra;
đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”1. Do vậy, các tổ chức chính trị - xã hội trong tổ chức và hoạt
động đều phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung - dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
2

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, T4, tr.161.

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, T5, tr.698.


10

phụ trách là tập trung, là tổ hợp ý chí của số đông thành ý chí của lãnh đạo. Đối với
cán bộ lãnh đạo Hồ Chí Minh căn dặn phải: “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của
quần chúng, rồi phân tích nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó

tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng,
làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó.” 2. Như vậy, dân chủ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là quần chúng biết, quần chúng bàn, mà người lãnh đạo
cần phải thu thập, tập hợp các ý kiến lại, tạo điều kiện cho quần chúng làm.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là phải xây dựng nền dân chủ thực sự, nền
dân chủ được thực thi trên thực tiễn, chứ không phải là thứ dân chủ giả hiệu, dân chủ
trên khẩu hiệu “tư do, bình đẳng, bác ái”, để rồi quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp
thống trị. Đấu tranh cho nền dân chủ thực sự, làm cho quần chúng được tự do làm chủ,
nền dân chủ mang tính nhân dân sâu sắc. Người viết: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách
làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức
và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì phải có gan đề nghị cấp trên
để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có
sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra rồi báo cáo sau,
miễn là được việc”1.
Từ việc chỉ ra bản chất và cơ chế của dân chủ, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra mối
quan hệ biện chứng, thống nhất không tách rời giữa dân chủ và chuyên chính. Người
coi dân chủ và chuyên chính là hai vấn đề hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng là tiền đề
cơ sở cho nhau. Người viết: “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chuyên chính
là cái chìa khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại. Nếu hòm không có khóa, nhà không
có cửa thì sẽ mất cắp hết, cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân
chủ cũng cần có chuyên chính để giữ lấy dân chủ”2

Sđd, T5, tr.290.
Sđd, T5, tr.246.3
2
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, T.8, tr.279.
2
1



11

Trong khi đề cao, nhấn mạnh vấn đề dân chủ, song Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở, đó không phải là thứ dân chủ vô hạn độ, dân chủ vô chính phủ, mà nó phải luôn
gắn chặt với kỷ cương, pháp luật. Đó là sự giải quyết hài hòa giữa quyền hạn và trách
nhiệm; giữa cống hiến và hưởng thụ của mỗi công dân. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở:
“không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã
quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành
cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện, phải cấm chỉ những
hành động tự do quá trớn như vậy.”1. Lúc khác Hồ Chí Minh viết: “đối với mọi vấn đề,
mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý..., đã tìm thấy chân
lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì
có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân...ra sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân - tức
là phụng sự chân lý.”2. Với những cách lý giải ngắn gọn, súc tích, giản dị đó, Hồ Chí
Minh đã làm rõ nguyên tắc tự do tư tưởng. Đây là cơ sở cho sự thống nhất nội bộ,
thống nhất trên - dưới tạo ra được sức mạnh tổng hợp của trí tuệ đông đảo mọi người
trong thực thi công việc.
Như vậy, trong suốt quá trình tìm đường cứu nước, cũng như lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, quan điểm về dân chủ chưa được Hồ Chí Minh đề cập đến một tác
phẩm riêng lẻ. Song mục đích, lý tưởng của Người là tìm đến với ngọn nguồn của “tự
do, bình đẳng, bác ái”, do vậy, hầu hết các tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của Hồ
Chí Minh đều đề cập đến tự do, bình đẳng thực sự của con người. Con người sinh ra
đều có quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc, đó là kết quả của chặng đường dài
đầy khó khăn, gian khổ bôn ba tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Bằng sự vận
dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan điểm dân chủ nói
riêng, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa dân chủ bằng lời lẽ đơn giản, dễ hiểu và từng bước
xây dựng nền dân chủ thực sự cho mọi người dân Việt Nam. Tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh đã, đang và sẽ là cơ sở quan trọng cho Đảng ta xây dựng và hoàn thiện cơ
1
2


Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, T.6, tr.108.
Sđd, T.8, tr.216.


12

chế “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH
hiện nay.
2. Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Quá trình hình thành và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh - Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam, do vậy, quá trình trưởng thành của Đảng gắn liền với công lao hoạt động của Hồ
Chí Minh. Đường lối cách mạng Việt Nam nói chung; quan điểm, đường lối về dân
chủ nói riêng luôn gắn liền với tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Thắng lợi của cách
mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, hay những đường lối, quan điểm đó phù hợp với tâm tư, khát vọng
của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Quan điểm “người cày có ruộng” là
động lực to lớn của cách mạng đối với đất nước thuần nông như nước ta trước khi
giành chính quyền. Gác lại mâu thuẫn giai cấp, giải quyết mâu thuẫn dân tộc nổi dậy
cướp chính quyền khi thời cơ đến, đó là những chiến lược, sách lược của Đảng hết sức
linh hoạt và mềm dẻo. Đường lối đúng đắn đó là kết quả tư duy Hồ Chí Minh: “Dễ
mười lần, không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”1.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
đứng trước tình thế cách mạng hết sức khó khăn: thù trong, giặc ngoài, “nghìn cân treo
sợi tóc” của chính quyền non trẻ. Đảng ta và Hồ Chí Minh vẫn quyết tâm tiến hành
tổng tuyển cử. Hồ Chí Minh chỉ rõ: tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự
do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước. Đã biết bao

hy sinh xương máu để toàn thể quốc dân mới có được cái tự do lựa chọn người gánh
vác việc nước, việc chung. Không thực hiện đúng quyền tự do lựa chọn, không những
vi phạm dân chủ mà còn có tội với người đã khuất. Trước ngày tổng tuyển cử, Bác kêu
1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, T.12, tr.212.


13

gọi: “Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày tổng tuyển
cử, vì ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng
thụ quyền dân chủ của mình...ngày mai dân ta sẽ tự do lựa chọn bầu ra những người
xứng đáng thay mặt cho mình gánh vác việc nước.” 2. Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngay từ đầu đã là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
quyền lợi của nhân dân là điểm xuất phát, biểu hiện của nội dung và bản chất của nhà
nước. Nhà nước dân tộc - dân chủ - nhân dân là yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh
cho độc lập dân tộc. Đây là hiện thân của quyền lực nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo
vệ nền độc lập dân tộc, là phương tiện để huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân,
tiến hành bạo lực cách mạng để đánh đổ đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai.
Thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ (1954), đất nước tạm thời chia cắt thành hai
miền: miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân; miền Bắc bước
vào khôi phục nền kinh tế, bước đầu xây dựng những tiền đề vật chất cho CNXH. Nền
dân chủ nhân dân ở miền Bắc từng bước được mở trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, do vậy, đã trở thành hậu phương vững chắc cho tuyền tuyến miền Nam, đồng
thời phải trực tiếp chiến đấu đánh bại chiến tranh ra miền Bắc của đế quốc Mỹ. Tuy
vậy, giai đoạn này, độc lập dân tộc vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của cả hai miền Nam,
Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tập trung cho chiến tranh giải phóng thống
nhất đất nước là chủ yếu.
Thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, cả nước thống nhất đi lên xây

dựng CNXH, bộ máy nhà nước từng bước được cải cách hoàn thiện. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân từng bước được
hoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Ngay sau khi thống nhất đất nước,
đại hội IV (12/1976) của Đảng đã nhấn mạnh: “nắm vững chuyên chính vô
sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng…xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” 1. Nội
2
1

Hồ Chí Minh, toàn tập Nxb CTQG, T.4, tr.145.
Nghị quyết Đại hội IV cuả Đảng, Nxb sự thật, H.1977, tr.29.


14

dung làm chủ tập thể XHCN từng bước được thực hiện trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, mọi người đều được tự do vươn lên làm chủ bản thân, làm
chủ xã hội, làm chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua sự quản lý
của Nhà nước XHCN. Đây là giai đoạn lịch sử mới của cách mạng Việt Nam
- giai đoạn thực hiện dân sinh, mở rộng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN giai đoạn đầy rẫy những khó khăn, phức tạp và cả những hạn chế của tư duy,
nhận thức trước sự chuyển biến mới của cách mạng cũng như xu thế vận động
mới trên thế giới.
Trước tình hình cách mạng giai đoạn mới, yêu cầu của cải tổ, đổi mới
đặt ra cho tất cả các quốc gia, trong đó có nước ta, trước hết bắt đầu từ đổi
mới tư duy, nhận thức. Thực hiện dân sinh chính là thực hiện yêu cầu cơ bản
của dân chủ trên lĩnh vực kinh tế đó là công bằng xã hội. Trong đó kinh tế
luôn vận động, phát triển theo quy luật khách quan của nó, do vậy, thực thi
dân chủ trên lĩnh vực kinh tế để giải phóng sức lao động sản xuất, huy động
được những tiềm năng, nâng cao năng suất lao động. Từ thực hiện dân chủ
trong lĩnh vực kinh tế tiến đến thực hiện dân chủ tự quản của nhân dân, dần

giải phóng người lao động thoát khỏi sự tha hóa, đem lại tự do cho mỗi cá
nhân, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của một chế độ xã hội mới. Kết quả
của hướng đi đúng đó đã được Đảng ta đánh giá: “Công cuộc đổi mới qua hơn
bốn năm đã đạt được những thành tích bước đầu rất quan trọng. Tình hình
kinh tế - xã hội có những chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định
con đường chúng ta đang đi là đúng.”1. Thông qua công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước mà nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH đã dần
sáng tỏ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH của
Đảng đã xác định rõ mô hình CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là: “ Do
nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
1

ĐCSVN - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.4.


15

lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” 2. Đây
là mô hình xã hội cho thời kỳ quá độ cần xây dựng hướng tới, đồng thời mở
ra cơ chế thông thoáng cho con người tự do, bình đẳng, phát triển toàn diện cá
nhân để hướng tới “Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, theo con đường XHCN”.
Chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế
hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời những quan điểm về xây
dựng chế độ dân chủ XHCN không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và phát
triển. Với phương hướng: “Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo”1. Từ phương hướng cơ bản trên, qua các kỳ Đại hội của Đảng đều được
bổ sung, hoàn thiện, thực thi dân chủ trên thực tế ngày càng được quan tâm
giám sát, bầu không khí dân chủ trong quần chúng nhân dân lao động được
cởi mở.
Bước sang thiên niên kỷ mới, với “Đại hội trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới” của
Đảng, Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng là nguyên nhân của
mọi thành công của cách mạng Việt Nam, đồng thời khẳng định dân chủ XHCN vừa là
mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Đại hội IX của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Nhà nước ta là cộng cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân” 2, và nhấn mạnh: “Thực hiện
ĐCSVN - cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Nxb ST, H.1991, tr 8 - 9.
Sđd, tr.9.
23
ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG. H.2001, tr.131,134.
2
1


16

tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục
mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng luật trưng cầu ý dân.” 3 Đến Đại hội X của
Đảng, một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong phương hướng phát triển kinh tế – xã
hội 5 năm (2006- 2010) Đảng ta xác định: “Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xó hội chủ
nghĩa, tạo bước chuyển rừ rệt về cải cỏch hành chớnh, ngăn chặn và đẩy lùi tệ
quan liêu, tham nhũng, lóng phớ".

Như vậy nền dân chủ XHCN ở nước ta có quá trình ra đời, phát triển và
từng bước hoàn thiện gắn liền với quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và
Hồ Chí Minh. Những đường lối, chủ trương của Đảng qua các kỳ Đại hội đã
không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận động, phát triển cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy còn nhiều mặt hạn chế ở lĩnh vực này hay lĩnh vực
khác, song công dân Việt Nam ngày càng trở thành người làm chủ thực sự
bản thân, làm chủ đất nước. Chế độ dân chủ XHCN ngày càng thể hiện rõ tính
ưu việt hơn tất cả các nền dân chủ đã tồn tại trong lịch sử của dân tộc.
2.2. Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn
thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2.1. Thực trang thực hiện chế độ dân chủ trong thời gian vừa qua.
Trải qua hơn 20 năm thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã
thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt đất nước đã
thoát khỏi khủng hoảng, nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tiền đề vật chất, khoa
học kỹ thuật đảm bảo cho đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong lĩnh vực cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế, chúng ta đã thu được những thành tựu
quan trọng cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Hệ thống quan
3


17

điểm, nguyên tắc về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân được từng bước hoàn thiện. Hiến pháp 1992 và nhiều bộ luật, luật,
pháp lệnh đã được ban hành, tạo ra khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý
bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Quyền
làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực được phát huy, chính sách và quy chế
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở bước đầu được thực hiện. Cụ
thể trên lĩnh vực dân chủ XHCN được đánh giá trên một số mặt sau:

Thứ nhất, tạo lập được cơ sở kinh tế nhất định cho nền dân chủ
XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Do vậy, lực
lượng sản xuất được giải phóng, quan hệ sản xuất được mở rộng trên cơ sở đa
dạng quyền sở hữu. Sở hữu cá nhân là quyền tự do dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế, là cơ sở, động lực để mở rộng dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, văn
hóa, xã hội.
Thứ hai, tạo ra những cơ sở chính trị, hệ thống chính trị ngày càng
phát triển và hoàn thiện. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
từng bước được đổi mới, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch vững mạnh là trọng tâm của đổi tổ chức bộ máy và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị. Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng đề ra
những biện pháp đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát
huy dân chủ, tăng cường hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước bằng pháp
luật.
Thứ ba, quyền làm chủ thực tế của nhân dân ngày càng được bảo đảm,
nội dung quyền làm chủ của nhân dân được đưa vào hiến pháp, pháp luật. Hệ
thống pháp luật được cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, tạo ra được hành
lang thông thoáng cho người dân tự do, dân chủ, sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật.


18

Thứ tư, từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây là
cơ sở hết sức quan trọng cho Nhà nước quản lý, điều hành xã hội bằng pháp
luật. Hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung, công tác luật pháp được tăng
cường, quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật được đổi mới. Nhiều bộ
luật được bổ sung, ban hành kịp thời trước yêu cầu vận động và phát triển của
nền kinh tế và các vấn đề mời nảy sinh.

Thứ năm, nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng được nâng cao, ý
thức chấp hành pháp luật được nâng cao. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt. Người dân ngày càng quan tâm
đến các vấn đề chính trị, xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, trong lĩnh vực dân chủ còn
tồn tại nhiều yếu kém, khuyết điểm. Đảng ta đánh giá “Tình trạng mất dân
chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, lãng phí còn
nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân”. Tình
trạng trên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, những yêu cầu chính đáng của nhân
dân không được giải quyết, mâu thuẫn ngày càng tăng, khiếu kiện kéo dài...
Biểu hiện dân chủ hình thức còn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở miền núi và
đồng bằng nông thôn, khu dân cư có trình độ dân trí thấp. Văn bản nghị quyết
đúng, song quy trình thực thi sai, vi phạm dân chủ ở nhiều nơi, vi phạm công
bằng xã hội còn nhiều. Những hạn chế tiêu cực trên có thể khẳng định có cả
yếu tố khách quan và chủ quan trong việc thực thi dân chủ. Điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, trình độ dân trí còn thấp dẫn đến người dân còn thờ ơ với
chính trị. Vai trò chức năng của hệ thống chính trị còn chưa được phát huy
cao độ. Đặc biệt chủ nghĩa quan liêu, tham những chậm được khắc phục, đây
là vật cản hữu hình trong việc thực hiện dân chủ XHCN trong đời sống xã
hội. Khắc phục điều này không phải một lần, một lúc của Đảng, mà đây là


19

việc làm lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự tham gia đông đảo mọi cấp,
mọi ngành, mọi cá nhân, toàn xã hội.
2.2.2. Một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Dân chủ gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí. Xây
dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN là một quá trình lâu dài gắn với
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng chế độ

dân chủ XHCN cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN. Thực chất việc
đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là xây dựng nền
dân chủ XHCN. Mục đích cuối cùng của hệ thống chính trị là thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động, giữa quyền lực chính trị và quyền lực xã hội
quan hệ chặt chẽ với nhau, có quyền lực chính trị là có quyền lực xã hội,
quyền lực xã hội được thực hiện thì quyền lực chính trị mới được giữ vững và
phát huy. Do vậy, xây dựng ché độ dân chủ XHCN, điều kiện tiên quyết là
phải xây dựng được hệ thống chính trị vững mạnh. Hệ thống chính trị là điều
kiện căn bản nhất để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, giữ vững định
hướng cho sự phát triển. Đồng thời là khâu then chốt để xây dựng và hoàn
thiện dân chủ XHCN và hiện thực hóa sự lãnh đạo của Đảng về quyền làm
chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị còn giữ vai trò chủ đạo chi
phối, quyết định các hệ thống khác trong xã hội như: văn hóa, đạo đức..., và
tác động trực tiếp đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội và ngay cả bản
thân hệ thống chính trị. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cần phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng vững chắc cho sự vận hành của cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”. Đảng
lãnh đạo thông qua đường lối chính trị là những định hướng cơ bản cho việc


20

xây dựng hiến pháp, pháp luật, đồng thời Đảng lãnh đạo việc xây dựng, mở
rộng các hình thức hiệp thương của các tổ chức chính trị - xã hội, thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào việc xây dựng, giám sát
các hoạt động của chính quyền nhân dân các cấp, làm cho nhân dân thực sự
tham gia vào những công việc nhà nước. Xây dựng hệ thống chính trị phải
được tiến hành đồng bộ các thành tố, cả tổ chức, phương thức, nội dung hoạt
động, đặc biệt cần phải có bước đi vững chắc, thận trọng, tiếp thu có chọn lọc

thành tựu đổi mới của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong mỗi thành tố
của hệ thống chính trị trong tình hình hiện nay đặt ra phải nâng tầm trí tuệ và
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội, có như vậy mới bảo đảm cho Đảng đưa ra được đường lối, chiến lược,
sách lược đúng đắn; phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, có hệ thống pháp luật
ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, các cơ quan của Nhà nước có sự phối hợp
chặt chẽ trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, đẩy mạnh
cải cách nền hành chính Nhà nước từ cơ cấu bộ máy đến thể chế, thủ tục và
đội ngũ cán bộ công chức của Nhà nước, làm cho Nhà nước phát huy tốt vai
trò tổ chức và quản lý xã hội; đối với các tổ chức chính trị xã hội phải đổi mới
tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động để tập hợp, quy tụ đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy
sức mạnh để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Hai là, nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân. Đây là giải
pháp rất quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả thực thi dân chủ
trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Do
vậy, cần phải nâng cao trình độ dân trí của nhân dân trong đó chú trọng đồng
bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; tăng cường giáo dục pháp luật và


21

ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; bồi dưỡng kiến thức dân chủ đến mọi
người dân, nâng cao kiến thức về pháp luật và tạo ra dư luận lành mạnh trong
xã hội. Với tư cách là chủ thể dân chủ của xã hội, mỗi công dân cần phải được
bồi dưỡng, nâng cao năng lực thực hành dân chủ. Có như vậy mọi người dân
mới quan tâm và tham gia tích cực vào các vấn đề chính trị xã hội của đất
nước, từng bước hình thành tập quán dân chủ của mỗi người dân và cộng

đồng trong ứng xử các quan hệ xã hội ở các môi trường xã hội như ở gia đình,
khu dân cư, nơi cộng đồng và ngoài xã hội. Bên cạnh đó phải kiên quyết đấu,
phê phán các quan điểm dân chủ sai trái như các quan điểm dân chủ tư sản,
dân chủ siêu giai cấp, dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, dân chủ vô hạn độ...
Ba là, tạo mọi điều kiện để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý
xã hội, thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng. Khắc phục biểu hiện
dân chủ hình thức. Muốn được như vậy cần phải nâng cao trình độ mọi mặt,
người dân cần phải được thông tin đầy đủ các vấn đề của đất nước. Đặc biệt
cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế dân chủ để nhân dân được quyền tham gia,
giám sát trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, xây dựng luật trưng
cầu dân ý, lấy ý kiến của nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước. Thành lập và kiện toàn hệ thống thanh tra, kiểm tra, tòa án, kiểm sát.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp chế XHCN,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quản lý đất nước bằng pháp
luật. Dân chủ và pháp luật có mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn
nhau, luật pháp là cơ sở để phát huy dân chủ, là sự cụ thể hóa cả về thể chế,
nội dung của dân chủ. Trình độ dân chủ của quần chúng càng cao, thì pháp
luật càng được thực hiện nghiêm chỉnh. Xây dựng hệ thống pháp luật phải
được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời
có những văn bản dưới luật để cụ thể hóa và trực tiếp tổ chức kịp thời. Đào


22

tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngành luật và chấn chỉnh các tổ chức, cơ
quan thi hành luật. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng luật cần phải kiểm tra, xử
lý nghiêm minh các vụ vi phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng cực đoan, hô
hào dân chủ mà không đề cập đến việc giữ vững kỷ cương xã hội.
Năm là, coi trọng đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao trình độ

phát triển kinh tế. Đi từ nền tảng vật chất của xã hội Dân chủ có phát triển
hay không, trước hết dựa vào thành tựu sản xuất, phát triển kinh tế, chỉ có
phát triển kinh tế, sản xuất mới mở rộng phát huy được quyền làm chủ của
nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân hiện nay trước hết là làm chủ kinh tế,
từ đó vươn lên làm chủ các lĩnh vực khác. Phát triển sản xuất, phát triển kinh
tế tạo cơ sở cho phát huy dân chủ XHCN. Do đó trong tình hình hiện nay cần
có chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với xu thế phát
triển kinh tế của thế giới, điều kiện của đất nước, trong đó chú trọng mở rộng
quy mô sản xuất các ngành, nghề các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước,
có chiến lược đầu tư, phát triển khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất,
quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhân dân.
Sáu là, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền,
đặc lợi và tham nhũng. Những biểu hiện trên không phải là bản chất của xã
hội XHCN, song trong thời kỳ quá độ lên CNXH những biểu hiện này đang
diễn ra một cách phổ biến. Quan liêu, đặc quyền, đặc lợi và tham nhũng đang
là lực cản lớn nhất trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân; là kẻ thù của
quá trình thực hiện dân chủ XHCN và Đảng ta xác định nó là một trong bốn
nguy cơ đối với cách mạng nước ta. Đấu tranh chống quan liêu, đặc quyền,
đặc lợi và tham nhũng cần phải chống cả ý thức, tác phong, lề lối làm việc và
những điều kiện kinh tế - xã hội làm nảy sinh quan liêu, tham nhũng. Đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực đó trước hết là trong bộ máy nhà nước,


23

đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên quyết loại trừ những phần tử sâu mọt trong
bộ máy nhà nước, lợi dụng chức quyền, buôn lậu, làm giàu bất chính...
Xây dựng chế độ dân chủ XHCN là một tất yếu khách quan trong sự
nghiệp xây dựng CNXH hiện nay. Đảng ta xác định: xây dựng chế độ dân chủ

XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nước ta. Nghiên cứu
vấn đề dân chủ để thấy rõ sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư
tưởng dân chủ nói riêng vào cách mạng nước ta của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh. Là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước, đồng thời là một
lực lượng chính trị đặc biệt; thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình quân
đội ta có ví trí, vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trước hết, quân đội phải
quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng trong xây dựng chế độ dân
chủ XHCN hiện nay, làm tròn chức năng nhiệm vụ của mình, đặc biệt là chức
năng chức năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Thường xuyên chú
trọng xậy dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, để nâng cao sức mạnh chiến
đấu của quân đội. Thường xuyên rèn luyện và nâng cao ý thức cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động xâm lược của các thế lực
thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ,
độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Thường xuyên
chăm lo xây dựng và kiện toàn hệ các tổ chức chính trị – xã hội trong quân
đội vững mạnh, trong đó dặc biệt chú trọng xây dựng tổ chức đảng các cấp
trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn diện trên các mặt công tác. Hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
của tình hình mới, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội; phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của người
chỉ huy, vai trò của các tổ chức quần chúng tăng cường đoàn kết, giữ nghiêm
kỷ luật. Ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở đơn vị


24

cơ sở, bảo đảm các quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, quân sự của cán bộ,
chiến sỹ, các quyền và nghĩa vụ của quân nhân. Đồng thời, đấu tranh không
khoan nhượng với các quan điểm sai trái, lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống

phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Đấu tranh với tệ quan
liêu, tham nhũng, quân phiệt, gia trưởng, chuyên quyền độc đoán, thiếu dân
chủ, vô tổ chức kỷ luật, mọi biểu hiện tham nhũng , lãng phí...góp phần xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN tạo cơ sở bảo đảm được thực thi trên
thực tế. Làm tốt công tác dân vận. Tích cực bám sát dân, tuyên truyền vận
động nhân dân hiểu và chấp hành đường lối chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, chống âm mưu thủ đoạn chia rẽ phá hoại của các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá
cách mạng làm mất ổn định chính trị –xã hội của địa phương trên địa bàn
đóng quân. Thường xuyên giáo dục cho bộ đội kỷ luật quân dân, năng lực
hướng dẫn, tuyên truyền, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương trên địa
bàn, cũng cố mối quan hệ quân dân, Chủ động tích cực tham gia xây dựng hệ
thống chính trị, tăng cường mối quan hệ phối hợp, kết hợp với hệ thống chính
trị địa phương và cơ sở để nắm chắc tình hình trên địa bàn. Từ đó đề xuất,
tham mưu với chính quyền địa phương xây dựng cơ sở chính trị – xã hội,
cũng cố thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc.Tăng cường các hoạt động
giao lưu, kết nghĩa tham gia xây dựng và phát động các phong trào thi đua
xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh ở địa phương. Trên cơ sở đó, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN. Phát huy tính tích cực tối đa và sức mạnh tổng hợp của cả nước trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Đối với bản thân là người giáo viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự
tham gia xây dựng và phát triển hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở


25

nước ta hiện nay. Trước hết, ra sức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
chủ động làm tốt công tác giáo dục quân nhân ý thức chấp hành nghiêm đường

lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kỷ luật, điều lệnh, điều lệ của
quân đội. Tích cực làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân trên địa bàn
đóng quân xây dựng nếp sống chấp hành ý thức pháp luật. Tích cực tham gia xây
dựng các thể chế, thiết chế dân chủ ở đơn vị cơ sở và địa phương trên địa bàn
đóng quân, bảo đảm góp phần làm cho môi trường dân chủ ở đơn vị được phát
huy.


×