Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.71 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN

Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Hồ Việt Hạnh

HÀ NỘI, 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính trị học “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền” là hoàn toàn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Ngọc Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN ..............................7
1.1. Đảng chính trị .......................................................................................................7
1.2. Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo chính quyền .........................................................9
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG ....................22
2.1. Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo chính quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh ...22
2.2. Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ........................23
2.3. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong công tác
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh giai đoạn hiện nay. .....................................41
Chương 3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN
CỦA ĐẢNG .............................................................................................................50
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền bằng cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng về chính sách và chủ trương lớn. ...............................................51
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. .................52
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền bằng phương thức kiểm tra,
giám sát. ....................................................................................................................56

3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền thông qua việc thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. ...59
3.5. Thực trạng công tác đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
hiện nay. ....................................................................................................................61
3.6. Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng giai đoạn hiện nay..........................................................................68
KẾT LUẬN ...............................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hộị

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

ĐCS

Đảng Cộng sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện ĐCS Việt Nam. Tên
tuổi và sự nghiệp của người gắn liền với lịch sử vinh quang của Đảng ta, với lịch sử

đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn tám thập kỷ qua. Tư
tưởng của Người là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta, đã và đang soi
đường cho cách mạng Việt Nam phát triển.
Ngay từ khi ra đời, ĐCS Việt Nam đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, trở thành nhân tố chủ yếu đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. ĐCS Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội với tất cả trí tuệ, tài năng và đức hy sinh đã hoàn toàn xứng đáng được nhân
dân cả nước tin yêu, kính phục, nhận là Đảng của mình - người đại diện cho trí tuệ,
lương tâm và danh dự của cả dân tộc. Điều đó được khẳng định cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “…một dân
tộc, một đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến, ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người khẳng định để giữ
vững vị trí, vai trò lãnh đạo cách mạng , Đảng phải trở thành một tổ chức chính trị
lớn mạnh, vững vàng, trong sạch và triệt để cách mạng. ĐCS cầm quyền phải
thường xuyên tiến hành công việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để đề phòng nguy cơ
thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cầm quyền của một
số ĐCS trên thế giới và qua thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta, cho thấy việc
tiếp tục nghiên cứu những chỉ dẫn của các nhà kinh điển, đặc biệt là Chủ tịch Hồ
Chí Minh về ĐCS cầm quyền vẫn đang là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết trong
tình hình hiện nay.
ĐCS cầm quyền ở nước ta là tất yếu. Nhưng yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi thời kỳ
lịch sử đặt ra luôn đòi hỏi Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo,
phải nghiên cứu, nhận thức một cách thấu đáo, toàn diện và hành động phù hợp với
thực tế khách quan, để Đảng cầm quyền ngày càng có hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh
1


đó, lý thuyết về ĐCS cầm quyền đã được nhiều nhà chính trị và khoa học trong và
ngoài nước luận giải. Nhiều chính khách và học giả tư sản, xuất phát từ các hệ quy

chiếu chủ quan, thiên kiến đã trình bày sự cầm quyền của ĐCS ở nước ta một cách
méo mó, thô thiển. Rõ ràng, lý luận về ĐCS cầm quyền là vấn đề còn mới và khó.
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh rất
rõ lý luận và thực tiễn của đảng cầm quyền, đặt ra hàng loạt vấn đề mới cần nghiên
cứu và vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân. Đây là vấn đề rất rộng, cần tiếp cận một cách toàn
diện từ những chiều cạnh và nội dung khác nhau. Đó phải là công sức của tổ chức
Đảng, của nhiều nhà hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế như hiện nay, có nhiều nguy cơ đặt ra đối với ĐCS Việt Nam cầm
quyền, Báo cáo Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ ra bốn
nguy cơ, thách thức: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện
âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ,
những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” có những diễn biến phức tạp”.
Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS cầm quyền có ý
nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; phòng, chống nguy cơ thoái hóa, biến chất trong
Đảng. Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền” làm luận văn thạc sĩ ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có nhiều cuốn sách, đề tài, bài viết của các nhà khoa học
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS cầm quyền. Có công trình nghiên cứu
2



chuyên sâu, chuyên khảo như: Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền,
Trần Đình Huỳnh, Ngô Kim Ngân (2004), Nhà xuất bản Hà Nội. Nội dung cuốn
sách trình bày những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng kiểu
mới, đặc biệt là những luận điểm về Đảng lãnh đạo chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ
thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) cuả Lênin. Tác giả cho rằng, đây là những
chỉ dẫn cực kỳ quan trọng để nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, phần trọng
tâm trình bày của cuốn sách là tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS cầm quyền một cách
tương đối hệ thống, trong đó tập trung đi sâu vào một vài khía cạnh của việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền, Lê Văn Lý (chủ biên), (2002) , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội
dung cuốn sách nhằm thực hiện ba mục tiêu nghiên cứu cơ bản sau đây: Một là, hệ
thống, khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và nâng cao sức chiến
đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Hai là, khẳng định một số nội dung
xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin về ĐCS cầm quyền ở nước ta. Ba là, đề xuất những giải pháp cơ bản
để quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy
vai trò lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng ta trong thời kỳ phát triển mới của
đất nước.
Cuốn Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đặng
Đình Tâm, Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2012), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia – sự thật, Hà Nội. Cuốn sách nhằm làm rõ những nội dung lý luận, thực trạng
cũng như phương hướng, biện pháp xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước góp
phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc đổi mới ở nước ta – nhất là
vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Cuốn sách
được tái bản đã bổ sung một số nội dung mới về đảng chính trị, đảng cầm quyền;
đồng thời bổ sung và chỉnh lý nhiều nội dung mới về đảng chính trị, đảng cầm
3



quyền; đồng thời bổ sung và chỉnh lý nhiều nội dung về lý luận thể chế đảng cầm
quyền, thực tiễn mới trong thể chế các đảng cầm quyền ở một số nước trên thế giới,
những vấn đề mới trong thể chế Đảng cầm quyền ở Việt Nam kể từ Đại hội Đảng
lần thứ IX đến Đại hội Đảng lần thứ XI.
Các luận án luận văn như: Trần Thành (2005), Về nguy cơ thoái hóa của
Đảng cầm quyền – vấn đề và giải pháp, đề tài cấp Bộ năm 2003 – 2005. Nguyễn
Quang Dũng (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS Việt Nam cầm quyền và vận
dụng tư tưởng đó trong quá trình đổi mới hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp lớp Cao
cấp lý luận chính trị Ban Tổ chức Trung ương khóa 3.
Các bài báo khoa học: PGS.TS Thành Duy (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐCS và việc xây dựng đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay, tạp chí Lịch sử Đảng
(9/2005). Bài báo tập trung đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS Việt
Nam, tập trung làm rõ các vấn đề: bản chất, vai trò của ĐCS Việt Nam, mối quan hệ
giữa Đảng với nhà nước. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng công tác
xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. GS.TS Trần Xuân Trưởng, Đảng cầm
quyền và nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí
Cộng sản (5/2005). Bài báo tập trung nghiên cứu các nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về ĐCS Việt Nam cầm quyền, nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân.
Đồng thời, bài báo cũng đưa ra những giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay.
Như vậy nhìn tổng quan có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền được đề cập từ lâu được thể hiện trong các bài viết, bài nói của các nhà
nghiên cứu.
Trong bài này tôi sẽ cố gắng hệ thống hóa lại tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cầm quyền trên một số khía cạnh: tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và
phương thức cầm quyền của Đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
4


Khảo cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền từ đó đề xuất một số
nội dung quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về đảng cầm quyền
- Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và phương thức cầm
quyền của Đảng.
- Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong công
tác xây dựng Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền; từ
khi ĐCS Việt Nam cầm quyền đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của ĐCS Việt Nam.
Luận văn kế thừa kết quả các công trình khoa học, bài báo, bài viết và tài liệu
có liên quan đến nội dung đề tài. Đồng thời, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: tổng kết thực tiễn, phân tích, so sánh, tổng hợp,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cầm quyền trên hai khía cạnh: tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và phương
thức lãnh đạo của Đảng, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong

công tác xây dựng Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Tài liệu được sử dụng làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chính trị học.

5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu thành 03 chương, 6 tiết.
Chương 1: Khái luận chung về Đảng cầm quyền
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức cầm quyền của Đảng.

6


Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1.1. Đảng chính trị
Thế giới hiện đại có hàng trăm đảng chính trị với những nét chung và riêng
biệt, thậm chí rất khác nhau. Có người cho rằng, vì không có đảng nào giống đảng
nào nên không thể đưa ra một quan niệm chung về đảng chính trị. Nhưng có nhiều
nhà đảng học khẳng định rằng, dù các đảng chính trị có khác nhau, nhưng giữa
chúng vẫn có những điểm chung, do đó có thể đưa ra một quan niệm chung. Tuy
nhiên, do có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề đảng chính trị dẫn đến có
nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm này.
Dưới góc độ quyền lực, G. Duvergé (nhà đảng học người Pháp) nhấn mạnh
đảng là tổ chức chính trị hướng đến quyền lực, hướng đến tranh cử, giành chính
quyền. Quyền lực là cái mang lại lợi ích. Quyền lực càng nhiều thì khả năng thực
hiện lợi ích càng lớn. Vì vậy, khát vọng quyền lực đối với mỗi đảng là vô hạn.

Đồng tình với quan điểm này, Trần Thị Hoài Trân, một nhà nghiên cứu chính đảng
cho rằng: "Đảng là một nhóm người cùng chung một ý tưởng chính trị, kết hợp lại
thành một tổ chức để chinh phục chính quyền hay để tham gia vào chính quyền”.
Anthony Down (Mỹ) cũng cho rằng, trong một nền chính trị dân chủ, mục
đích duy nhất của một đảng chính trị là giành quyền lực và thực thi quyền lực nhà
nước. Quan điểm này xuất phát từ mục đích căn bản trước hết của các đảng chính trị
là vấn đề chính quyền. Nếu một đảng không đưa ra được mục đích giành lấy quyền
lực nhà nước, sử dụng có hiệu quả quyền lực nhà nước cho mục tiêu của đảng gắn
với sự phát triển bền vững của toàn xã hội thì đảng đó khó có thể lôi kéo được quần
chúng và giữ được quyền lực lâu dài. Và nếu trong một thời kỳ dài, đảng luôn thất
bại trong tranh cử, không vươn tới giành được quyền lực, không phát triển được đất
nước thì cử tri sẽ dần mất hy vọng ở họ và như vậy, đảng đó cũng có khả năng sẽ
mất dần những cử tri đã từng gắn bó với họ.
Dưới góc độ lợi ích, H.J. Wiauch (Mỹ) cho rằng, đảng là tổ chức đam mê lợi
ích chính trị nhất, nhưng đó là lợi ích của cộng đồng, xã hội. Ngoài lợi ích đó ra,
7


đảng chính trị không có lợi ích nào khác. Tất nhiên, cái để thỏa mãn lợi ích mà mỗi
đảng theo đuổi là quyền lực nhà nước. Từ đó, H.J. Wiauch cho rằng, đảng là tổ chức
của những người đoàn kết với nhau, đảng được lập ra để thực hiện các lợi ích chung
của quốc gia thông qua những nguyên tắc (thể chế) riêng mà họ đã thỏa thuận với
nhau.
Theo góc nhìn của các ứng cử viên (Mỹ), đảng chính trị là nhóm lãnh tụ mà
họ có quyền chấp thuận hay từ chối bằng lá phiếu của cử tri, là những người có
chung quan điểm chính trị với quan điểm của các tổ chức đảng trong nghị viện hay
trong bộ máỵ chính quyền.
Theo góc nhìn của các cử tri, đảng là một hội chính trị có lợi thế để cử tri qua
đó biểu lộ thái độ đối với các chính sách công của chính phủ.
Quan điểm mácxít, đảng chính trị là tổ chức chính trị của một giai cấp, đảng

là hình thức cao nhất của giai cấp, đại biểu cho lợi ích của giai cấp. ĐCS là tổ chức
chính trị cao nhất của giai cấp công nhân; đảng là đội tiền phong bao gồm những
đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành
lấy chính quyền từ các giai cấp bóc lột để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có quan điểm cho rằng, đảng là một tổ chức chính trị có chung một quan
điểm (tất nhiên không loại trừ khả năng có một bộ phận đảng viên chống lại, hoặc
bất đồng với đảng về những vấn đề tương đốỉ không quan trọng) và vai trò của đảng
là rất quan trọng trong việc xiết chặt hàng ngũ hướng tới đắc cử trong các cuộc
tranh cử. Hầu hết các đảng đều cố gắng sửa đổi lập trường của đảng cho phù hợp
với nguyện vọng của dân chúng để không bỏ mất cơ hội trong các cuộc bầu cử.
Tổng hợp các quan điểm trên đây, “đảng chính trị là một tổ chức chính trị
hợp pháp của một giai cấp (hay một lực lượng, một phong trào chính trị), có chung
những tư tưởng bao quát về các chính sách công và những quan niệm rõ ràng về
hành động chính trị, kết hợp lợi thành một tổ chức để giành chính quyền hay để
tham gia vào chính quyền” [21, tr.12].

8


1.2. Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo chính quyền
Đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo chính quyền là những phạm trù đặc biệt
quan trọng trong các khoa học chính trị và trong đời sống chính trị đương đại.Trên
thế giới, phạm trù đảng cầm quyền được sử dụng phổ biến ở tất cả các nước tư bản
và cả các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng phạm trù đảng lãnh đạo thì gần như chỉ
được sử dụng ở một số rất ít quốc gia. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân
biệt hai khái niệm đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền. Cụ thể như sau:
1.2.1. Đảng cầm quyền
Từ sau Cách mạng Tháng Mười (Nga), Lênin đã nhiều lần đề cập đến ĐCS
Bônsêvích với tư cách là một đảng cầm quyền. Trong bản dịch tác phẩm Những vấn

đề của chủ nghĩa Lênin của Xtalin, từ đảng cầm quyền được dịch ra là đảng chấp
chính. Theo Từ điển Hán - Việt, chấp là cầm, giữ. Theo từ điển tiếng Việt, chấp
cũng được giải nghĩa là cầm, giữ, nhận; chấp chính là cầm quyền, nắm chính quyền.
Nhưng cho đến nay, còn có nhiều cách nhìn, cách lý giải khác nhau về
khái niệm, nội dung của phạm trù đảng cầm quyền.
Thứ nhất, đảng cầm quyền có ý nghĩa phân biệt đảng đó ở thời kỳ đã nắm
chính quyền với thời kỳ đảng đó chưa nắm chính quyền. Ví dụ, nói ĐCS Việt
Nam là đảng cầm quyền dùng để phân biệt với Đảng chưa nắm được chính
quyền, thời kỳ từ năm 1930 đến ngày 2-9-1945.
Thứ hai, đảng cầm quyền là khái niệm chỉ một đảng (hoặc liên minh một
số đảng) nắm (có) trong tay chính quyền (chính quyền theo nghĩa rộng là nhà
nước, bao gồm cả ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp).
Thứ ba, đảng cầm quyền (liên minh một số đảng cầm quyền) là các đảng
nắm trong tay chính quyền. Do đảng chi phối được chính quyền nên đảng cầm
quyền có nhiều khả năng để thực hiện ý chí của đảng.
Như vậy, đảng cầm quyền được hiểu là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt
của bộ máy nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi các chính sách
quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa, đảng cầm quyền là đảng điều khiển, kiểm soát

9


người của mình trong bộ máy nhà nước thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng
thông qua các chính sách của nhà nước.
Với cách hiểu như vậy, đảng cầm quyền là đảng trực tiếp có quyền lực nhà
nước; các quyết định của đảng thể hiện qua danh nghĩa quyền lực nhà nước (quyền
lực do người dân ủy nhiệm), thông qua các thủ tục, các quá trình đã được pháp luật
quy định, chứ không phải đưa ra các quyết định nhân danh đảng.
1.2.2. Đảng lãnh đạo chính quyền
Đảng lãnh đạo chính quyền là một khái niệm ít được sử dụng ở các nước

phương Tây. Đây là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác - Lênin sử dụng bắt
đầu vào những năm nửa cuối của thế kỷ XIX, khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản ra đời, đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân, lực lượng tiên phong
thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động thủ tiêu chế độ
bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con người, không còn áp bức và bất
công. Khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công, Đảng Cộng sản
(Bônsêvích) Nga trở thành đảng cầm quyền, có vai trò lãnh đạo trong xã hội Nga.
V.I.Lênin đã viết: Ở nước Nga “chỉ có một đảng cầm quyền duy nhất đang lãnh
đạo” [29, tr.136].
Khái niệm về đảng lãnh đạo đã không được Lênin nêu cụ thể. Tuy nhiên, từ
những phân tích của Lênin về vai trò của Đảng Cộng sản Nga đối với quần chúng
nhân dân lao động trong cách mạng vô sản có thể thấy rằng, đảng lãnh đạo được
hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp; là thực hiện vai trò tiên phong
trong cách mạng vô sản; là sự gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để
làm sao lôi kéo được sự đồng tình ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân
dân lao động đối với đảng. Lênin đã viết rằng: Tầng lớp tiên tiến của giai cấp vô sản
nắm chính quyền nhà nước..., đã tự mình làm gương cho quần chúng lao động thấy
một mẫu mực về lòng trung thành đối với lợi ích của những người lao động; rằng:
“Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên
phong của mình, tức đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực
hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải
10


do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp
lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản để giành lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động
không phải kết thúc khi giai cấp vô sản đã cướp được chính quyền. Sau khi giành
được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có điều là với hình
thức khác mà thôi”.

Từ những phân tích về nội hàm đảng lãnh đạo nêu trên cho thấy, đảng giành
được địa vị lãnh đạo là vô cùng khó khăn không chỉ lúc chưa giành được chính
quyền mà cả sau khi đã giành được chính quyền. Thực tiễn đã cho thấy, ngay cả khi
một đảng giành được vị thế cầm quyền do đảng đó chiếm đa số phiếu qua những
đợt bầu cử vào quốc hội cũng có thể ngay sau đó không giữ được địa vị lãnh đạo.
Một khi đã không đủ uy tín để giữ địa vị lãnh đạo, không thực hiện được vai trò tiên
phong thì tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ đảng đó mất vị thế cầm quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng, đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo là hai khái
niệm không đồng nhất với nhau. Phạm vi của đảng lãnh đạo rộng hơn đảng cầm
quyền vì một đảng chính trị có thể đóng vai trò lãnh đạo (tham gia lãnh đạo hoặc
duy nhất lãnh đạo xã hội) nhưng không phải là đảng cầm quyền. Ví dụ như: Đảng
Cộng sản Đông Dương từ năm 1930 đến năm 1945 là đảng lãnh đạo chính quyền
mặc dù đảng chưa cầm quyền.
Lãnh đạo là một khái niệm không gắn với quyền lực (nghĩa quyền lực ở đây
là quyền lực cứng với sự cưỡng chế bằng bạo lực). Khái niệm lãnh đạo chỉ sự ảnh
hưởng có tính xác định đối với hành vi của một cộng đồng, tập thể hay cá nhân
nhưng sự ảnh hưởng này không thông qua sự cưỡng chế, không mang tính ép buộc.
Lãnh đạo là khái niệm có đặc điểm là tính định hướng, tính thuyết phục. Tính định
hướng này thể hiện trước hết ở sự xác định được ý nghĩa và giá trị chung được cả
cộng đồng hay tập thể chia xẻ và đồng thuận và do vậy mang tính động viên, dẫn
dắt hành động cho cả cộng đồng, tập thể. Lãnh đạo như vậy chính là xác định được
những mục tiêu đúng đắn; chủ thể lãnh đạo hết lòng phục vụ lợi ích của cộng đồng,
tập thể, từ đó mà thuyết phục được cộng đồng, tập thể hướng tới thực hiện mục tiêu.
11


Đảng lãnh đạo tức là đảng có vai trò tiên phong, vạch hướng, xác định mục tiêu
đúng đắn, đồng thời tạo được uy tín để thuyết phục các chủ thể chính trị, cộng đồng
xã hội đi theo và thực hiện các mục tiêu đó.
1.2.3. Các phương thức cầm quyền

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, trong cuộc đấu tranh của mình, giai cấp
công nhân muốn giành được thắng lợi và "thủ tiêu các giai cấp nói chung” thì nhất
thiết phải thành lập chính đảng là Đảng Cộng sản, đội ngũ tiên phong đại diện cho
lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng Cộng sản là bộ phận
lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng việc đề ra chủ trương,
đường lối, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trên nền tảng của chủ nghĩa Mác; bằng
công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận và chuẩn bị đội ngũ
cán bộ cho hệ thống chính trị. Về mặt lý luận và thực tiễn, yêu cầu giải quyết những
vấn đề có liên quan đến Đảng Cộng sản cầm quyền xuất hiện ngay từ khi Đảng bắt đầu
lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau và vào thời điểm đó giai cấp công nhân
chưa giành được chính quyền để xây dựng hệ thống chính trị XHCN, cho nên Mác Ăngghen chưa có điều kiện để bàn nhiều và cụ thể về vấn đề Đảng Cộng sản cầm
quyền cũng như phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Kế thừa những quan điểm của Mác và Ăngghen, bằng thực tiễn của cách
mạng Nga, Lênin cho rằng khi trở thành đảng cầm quyền, nhiệm vụ lãnh đạo của
Đảng Cộng sản sẽ thay đổi về cơ bản, đó là xây dựng đất nước về kinh tế. Bởi, khi
đó, chủ nghĩa cộng sản không còn là một cương lĩnh, không còn là một học thuyết,
mà đã trở thành nhiệm vụ xây dựng kinh tế hàng ngày. Thắng lợi trên lĩnh vực kinh
tế không thể đạt được bằng những cuộc tấn công của các lực lượng xích vệ, mà phải
bằng tổ chức được tiến hành một cách khoa học. Người xem đó là vũ khí duy nhất
để giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến tới mục tiêu căn bản của mình: xây
dựng thành công CNXH và tiến lên chủ nghĩa cộng sản; mang lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò
tổ chức - quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế được xem là trọng tâm của thời
12


kỳ đảng cầm quyền. Vì vậy, việc hình thành phương thức lãnh đạo hiệu quả của
Đảng đối với chính quyền nhà nước là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi
việc xây dựng chế độ mới.

Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Đảng Cộng sản Nga đã
lãnh đạo Chính quyền Xô viết thực hiện công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế,
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vấn đề phân định nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước đã được Lênin đề cập một cách cụ thể hơn.
Song, trên thực tế, trong quá trình xây dựng chính quyền Xô Viết ở Nga, ngay từ
năm 1922, chính Lênin đã phát hiện “những quan hệ không đúng” giữa vai trò của
Đảng Cộng sản và các cơ quan Xô viết - Tức là giữa sự lãnh đạo của đảng với cách
quản lý của nhà nước, và thừa nhận việc “sửa chữa được hiện tượng đó là việc rất
khó”, vì “ở nước Nga chỉ có một Đảng cầm quyền duy nhất đang lãnh đạo”. Người
đề nghị Trung ương Đảng “cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm
vụ của Đảng (và của Ban Chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ của chính
quyền Xô viết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ Xô viết và
các cơ quan Xô viết;… còn về Đảng thì dành quyền lãnh đạo chung công tác của tất
cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá thường
xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt, như hiện nay”, phải chấm dứt cả
tình trạng là tất cả mọi vấn đề vụn vặt cũng đều đưa ra trước Ban Chấp hành Trung
ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy... Bởi, chừng nào mà Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm công tác quản lý hành
chính, nghĩa là quản lý nhà nước, thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được.
Vì vậy, theo Lênin:
Một mặt cần phải khẳng định trách nhiệm và quyền hạn của Đảng trong việc
xây dựng bộ máy nhà nước “Với tư cách là một đảng chiếm đa số tại Đại hội II toàn
Nga các Xôviết, chúng ta có quyền và có nhiệm vụ trước nhân dân thành lập chính
phủ”, nhưng mặt khác Lênin lưu ý rằng, không phải Đảng trực tiếp đứng ra xây
dựng tổ chức bộ máy đó. Mà là Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước
bằng việc đề ra cương lĩnh, nguyên tắc cho tổ chức bộ máy nhà nước, Người nhấn
13


mạnh: "Việc nói rõ đặc điểm của kiểu nhà nước mới phải chiếm một địa vị quan trọng

trong cương lĩnh của chúng ta” [26, tr.69).
Trên lĩnh vực công tác của cán bộ nhà nước, đặc biệt là những chức vụ chủ
chốt, Lênin nhấn mạnh quyền quyết định của Đảng, Người viết: “Chừng nào một
đảng cầm quyền còn quản lý, chừng nào đảng ấy còn phải giải quyết tất cả mọi vấn
đề về những sự bổ nhiệm khác nhau, thì anh không thể để có tình trạng là việc bổ
nhiệm các chức vụ nhà nước quan trọng nhất lại do một đảng không lãnh đạo tiến hành”
[27, tr.204-205].
Giải quyết mối quan hệ giữa vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và chức năng quản lý của Nhà nước sao cho Đảng thực sự là cơ quan lãnh
đạo ở tầm chiến lược và Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân, có thực
quyền, đủ sức mạnh để điều hành mọi hoạt động quản lý. Vấn đề này đã được Lênin
nêu ra từ trước khi Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga giành được chính quyền,
cụ thể là trong tác phẩm Những nhiệm vụ của chúng ta và Xô viết đại biểu công
nhân viết tháng 11 - 1905, Lênin đã viết: “Xô viết đại biểu công nhân hay là Đảng?
Theo tôi, không thể đặt vấn đề như vậy, và giải quyết vấn đề đó nhất thiết chỉ có thể
là: vừa cần có Xô viết đại biểu công nhân, vừa cần có Đảng. Vấn đề - và là vấn đề
hết sức quan trọng - chỉ là ở chỗ làm thế nào phân rõ và kết hợp những nhiệm vụ
của Xô viết và những nhiệm vụ của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga”
[24,tr.73-74].
Từ việc phân định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, theo Lênin, để
bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây
dựng thành công CNXH, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm
quyền đối với Nhà nước và toàn thể xã hội phải được thể hiện như sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chủ trương, đường lối,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Lênin cho rằng, ở vị trí đảng cầm quyền, trọng trách của Đảng là lãnh đạo
Nhà nước và toàn xã hội trên mọi phương diện, trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Những vấn đề thuộc về đường lối, quan điểm chính trị và nguyên tắc tổ chức liên
14



quan tới chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục và truyền
bá hệ tư tưởng cũng như đào tạo cán bộ, xây dựng bộ máy nhà nước thuộc về trách
nhiệm của Đảng. Song, không phải Đảng trực tiếp thực hiện những công việc đó,
đồng thời cũng không phải lãnh đạo bằng các mệnh lệnh từ trên ban xuống, mà
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Lênin chỉ rõ: “trong nước cộng hoà của chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay
tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng” [28, tr.181). Khi thực hiện chính sách kinh
tế mới, một vấn đề đặt ra là Đảng có trực tiếp bắt tay vào giải quyết những vấn đề
về kinh tế thuần tuý không, hay Đảng, Đại hội của Đảng chỉ đề ra đường lối,
nguyên tắc về vấn đề phát triển kinh tế? Về câu hỏi này, Lênin trả lời rằng: “Nếu
tưởng rằng đại hội này có thể giải quyết được vấn đề thì lầm mất. Những quy định
về pháp luật của chúng ta sẽ giải quyết vấn đề ấy; nhiệm vụ của chúng ta chỉ là định
đường lối nguyên tắc và nêu ra khẩu hiệu. Đảng ta là một đảng cầm quyền và những
quyết định do Đại hội của Đảng thông qua là những điều mà toàn nước Cộng hoà
phải tuân theo; cho nên, ở đây, chúng ta cần phải giải quyết vấn đề ấy về nguyên
tắc” [28, tr.74].
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng trong bộ máy nhà nước
Người cán bộ, đảng viên đại diện cho Đảng trong bộ máy nhà nước, vừa phải
có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ của Đảng; vừa có nhiệm vụ thực thi
quyền lực nhà nước do quần chúng uỷ nhiệm.
Cơ sở của quan điểm này được Lênin chỉ ra thông qua nguyên tắc hoạt động
của Nhà nước Xô viết: trong hoạt động của mình, Nhà nước Xô viết phải dựa vào
đường lối, cương lĩnh của Đảng, đường lối đó đã được rút ra từ toàn bộ cuộc đấu
tranh của Đảng, nó thể hiện bản chất cách mạng của chủ nghĩa Bônsêvích và lại
được Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn, đó là đường lối mà tất cả đảng viên
của Đảng phải tuyệt đối tuân theo. Bởi vậy, những cán bộ, đảng viên của Đảng
trong bộ máy nhà nước - những người đã được “hàng triệu công dân, binh sĩ và

15


nông dân, trao chính quyền ấy cho đại biểu của Đảng” [25, tr.53] - phải chấp hành
các chủ trương, đường lối của Đảng, phải tổ chức thực hiện các chủ trương, đường
lối đó trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước.
Về nhiệm vụ của những cán bộ, đảng viên của Đảng trong bộ máy nhà nước,
tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Nga (27-3-1922), Lênin đã chỉ rõ: “các đồng chí
là những người cộng sản, các đồng chí là công nhân, các đồng chí là bộ phận giác
ngộ của giai cấp vô sản, các đồng chí là những người đảm nhiệm việc lãnh đạo Nhà
nước, các đồng chí hãy làm thế nào cho Nhà nước mà các đồng chí nắm trong tay
phải hoạt động như các đồng chí mong muốn” [29, tr.103].
Theo Lênin, những cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong bộ máy nhà
nước có hai tư cách với hai nhiệm vụ tương ứng: với tư cách là cán bộ, đảng viên
đại diện cho Đảng trong bộ máy nhà nước, họ có trách nhiệm thực hiện những
nhiệm vụ của Đảng; với tư cách là đại biểu của dân, được nhân dân ủy quyền tham
gia quản lý nhà nước, họ có nhiệm vụ của người đại biểu cho quần chúng nhân dân
để thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy, “người cán bộ ấy phải nhớ rằng anh ta
không những là người tuyên truyền bằng lời nói, không những phải giúp đỡ những
tầng lớp nhân dân mê muội nhất, đó là nhiệm vụ chủ yếu của anh ta và không làm
như vậy anh ta sẽ không còn là người cán bộ của Đảng, không làm như vậy anh ta
không thể tự coi mình là người cộng sản được. Nhưng ngoài ra, anh ta phải là người
đại diện chính quyền Xô viết (…). Anh ta không được là người kiểm tra theo ý
nghĩa là kiểm soát và thanh tra nhưng anh ta là người đại diện cho Đảng nắm chính
quyền hiện đang thông qua bộ phận giai cấp vô sản mà điều khiển toàn bộ nước
Nga”
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra, nhờ đó Nhà nước
sẽ chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm minh nếu biểu hiện hoặc có sai phạm trong
quá trình quản lý
Lênin cho rằng, Đảng còn phải nhận thức rõ và thi hành đúng vấn đề mấu

chốt, vấn đề trung tâm của toàn bộ công tác của đảng cầm quyền, đó là công tác
kiểm tra, kiểm soát đối với tổ chức, con người và công việc. Buông lỏng kiểm tra
16


cũng có nghĩa là buông lỏng lãnh đạo và quản lý “không kiểm tra coi như không
lãnh đạo”. Mọi sự buông lỏng này đều dẫn tới sự suy yếu tổ chức và bộ máy, sự hư
hỏng và thoái hóa của không ít cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh: điểm trung tâm của công tác tổ chức là việc chọn người, giao việc và kiểm
tra hiệu quả chấp hành. Người chỉ thị: hãy dành thời gian để tiến hành kiểm tra công
việc. Kiểm tra công tác, xoáy vào thực chất của vấn đề, ra chỉ thị, giáo dục, thưởng
phạt nghiêm minh, lựa chọn những công nhân thành thạo. “Kiểm tra nhân viên công
tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác mấu chốt của toàn bộ công tác, của
toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy” [25, tr.19].
Lênin cho rằng phải đi từ công tác kiểm tra để, một mặt,tác động tới bộ máy
Nhà nước, coi đây là điểm xuất phát và khâu trung tâm của phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với các cơ quan nhà nước; mặt khác,thông qua công tác kiểm tra mà
xem lại tính đúng đắn, tính phù hợp của các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng so với thực tiễn, từ đó có những sửa đổi, bổ sung, phát triển sáng tạo các chủ
trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trong tác phẩm “Thà ít mà tốt”
(tháng 3 - 1923), Lênin đã viết: “Phải nghĩ đến chuyện kiểm tra lại những chủ
trương mà chúng ta tuyên bố hàng giờ, quyết định hàng phút, rồi từng giây chứng
minh tính chất không vững chắc, không kiên định và khó hiểu của những chủ
trương đó” [29, tr.443]. Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra mà Đảng phát hiện,
sáng tạo ra cái mới, cái tốt hơn, tìm ra phương thức lãnh đạo phù hợp với thực tiễn
hơn.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác vận động quần chúng
nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Nhà nước phải xây dựng cơ chế phù hợp, tạo
điều kiện tốt nhất cho nhân dân tham gia quản lý xã hội
Theo Lênin, đây là một hình thức hết sức quan trọng, không thể thiếu trong

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Bởi vì, cách mạng XHCN phụ
thuộc vào lòng tin và khả năng vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng
nhân dân đi theo Đảng và tiến hành các hành động cách mạng dưới sự lãnh đạo của

17


Đảng. “Chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh
động của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền” [25, tr.68].
Từ sự khẳng định vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng Nhà nước XHCN, Lênin chỉ rõ rằng, Đảng phải
giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà
nước. Nếu không có sự tham gia giám sát và quản lý nhà nước của quần chúng, thì
Đảng không những không lãnh đạo được Nhà nước, mà bản thân bộ máy của Đảng
và Nhà nước cũng sẽ tiêu tan. Bởi vì, như Lênin đã khẳng định: “trong quần chúng
nhân dân, chúng ta chỉ tựa như một giọt nước trong đại dương, và chỉ khi nào biểu
hiện được đúng ý nguyện của nhân dân, thì chúng ta mới quản lý nhà nước được.
Nếu không, Đảng Cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã” [29,
tr.134].
Mặc dù những quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm
quyền đã được Lênin đề cập tới cách nay gần một trăm năm. Nhưng đó vẫn là
những quan điểm hết sức giá trị đối với tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền trong
đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2.4. Nội dung công tác xây dựng Đảng cầm quyền
Kế tục một cách xuất sắc tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Mác và Ăngghen,
Lênin đã xây dựng học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong tác
phẩm Làm gì? Những vấn đề cấp bách trong chúng ta và một số tác phẩm tiếp theo,
Lênin thông qua việc đấu tranh chống chủ nghĩa kinh tế, chủ nghĩa cơ hội, bè
phái… đã trình bày những nguyên lý xây dựng một Đảng cách mạng chân chính, là

người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân, người tổ chức và lãnh tụ của cuộc
đấu tranh cách mạng, chống chế độ chuyên chế và chống chủ nghĩa tư bản.
Đối với công tác xây dựng Đảng, Lênin đã chỉ rõ những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, vấn đề tư tưởng, Lênin đề cao vai trò của công tác tư tưởng, nhấn
mạnh ý nghĩa đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng đối với một Đảng mác xít
chân chính. Ông đã viết: “Vấn đề đặt ra chỉ là như thế này, hệ tư tưởng tư sản hoặc
18


hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa…mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có
nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”.
Theo Lênin, ý thức xã hội chủ nghĩa không phải phát sinh từ phong trào tự
phát của công nhân mà là do Đảng mác xít cách mạng đưa vào phong trào công
nhân. Đảng đó phải được vũ trang bằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, phải
nâng mình lên ở tầm lý luận tiên tiến của thời đại vì “chỉ đảng nào được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”.
Hai là, về vấn đề chính trị, Đảng phải tố cáo, vạch trần ách áp bức, bóc lột
của chế độ chuyên chế, chế độ tư sản. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, không thể
chỉ hạn chế ở đấu tranh kinh tế, nghề nghiệp. Lênin đã chỉ rõ, một đường lối theo
phái công liên chủ nghĩa, phái cơ hội như thế nhất định sẽ đưa phong trào công
nhân tới chỗ phụ thuộc vào hệ tư tưởng tư sản và chính trị tư sản. Trái với đường lối
cơ hội chủ nghĩa đó, Lênin đã nêu lên và luận chứng luận điểm quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác về ý nghĩa hàng đầu của đấu tranh chính trị trong sự phát triển của
xã hội và trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội… “những quyền lợi chủ yếu, quyết định của các giai cấp nói chung, chỉ có thể
thỏa mãn bằng các cuộc cải biến chính trị căn bản, còn quyền lợi kinh tế trọng yếu
của giai cấp vô sản nói riêng chỉ có thể thỏa mãn được bằng một cuộc cách mạng
thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chuyên chính vô sản. Như vậy, có
thể thấy rằng, theo Lênin nhiệm vụ cách mạng của một Đảng mác xít là tổ chức một
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đạt được mục đích

cuối cùng là giành chính quyền và tổ chức, xây dựng xã hội mới cao hơn xã hội tư
bản – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Lênin nhấn mạnh: Chủ nghĩa Mác
giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiền
phong này đủ sức dẫn dắt chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội,
đủ sức lãnh đạo và tổ chức một xã hội mới, đủ sức làm người dẫn đường, làm lãnh
tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời
sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản.

19


Sau khi có chính quyền, giai cấp công nhân và đảng tiền phong của nó có
nhiệm vụ lãnh đạo toàn thể nhân dân cải tạo và xây dựng xã hội mới bằng những
hình thức và phương pháp phù hợp với đặc điểm từng nước. Từ chỗ lãnh đạo đấu
tranh giành chính quyền, đảng trở thành đảng cầm quyền, đó là bước ngoặt vĩ đại,
một sự chuyển biến mới về chất lượng và phạm vi rộng lớn trong hoạt động của
đảng. Đảng có trách nhiệm định ra đường lối đối nội, đối ngoại của nhà nước, định
ra những chính sách và những phương pháp chủ yếu để thúc đẩy xã hội phát triển về
mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng phải phân phối lực lượng của
đảng, bố trí một mạng lưới đảng viên và cán bộ vào mọi lĩnh vực hoạt động của nhà
nước và xã hội; sử dụng sức mạnh của tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên
đó để động viên, lãnh đạo quần chúng thực hiện có hiệu quả mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của đảng và nhà nước.
Ba là, về tổ chức, Lê nin phê phán phái kinh tế đã hạ thấp nhiệm vụ của
Đảng dân chủ - xã hội xuống mức chủ nghĩa công liên, lẫn lộn hai loại hình tổ chức
của giai cấp công nhân. Lê nin nhấn mạnh: nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất
của những người xã hội dân chủ Nga là một tổ chức của những người cách mạng,
tức là một chính đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, có khả năng lãnh đạo cuộc
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Để có một Đảng chính trị như vậy,
theo Lê nin, Đảng chính trị cách mạng của giai cấp vô sản phải là một đảng chiến

đấu không khoan nhượng với kẻ thù, có cương lĩnh đấu tranh cho việc thiết lập
chuyên chính vô sản nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đảng đó bao
gồm bộ phận tiên tiến nhất trong phong trào công nhân và được trang bị bằng học
thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác. Đảng đó cần tập trung, thống
nhất, theo nguyên tắc tự giác và dân chủ, có kỷ luật, tức là nhờ tịnh thần tự giác
đoàn kết với nhau, tự nguyện đấu tranh vì sự nghiệp chung của giai cấp vô sản và có
liên hệ chặt chẽ với đông đảo quần chúng lao động, có khả năng tổ chức và lãnh
đạo, dẫn dắt giai cấp và dân tộc đấu tranh cho sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội.

20


×