Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CẤU TRÚC DA ĐỘNG Vật (bản chính)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.13 KB, 32 trang )

CẤU TRÚC DA ĐỘNG VẬT, CÔNG NGHỆ THUỘC DA VÀ CÁC CHẤT
THẢI ĐẶC TRƯNG, KÈM THEO NGUỒN GỐC CỦA CHÚNG TRONG
CÔNG NGHỆ NÀY.
I.Lịch sử phát triển công nghệ thuộc da.
Công nghệ thuộc da có từ thời Hy lạp cổ đại, sau đó phát triển sang các nước
Ả Rập trong các năm 3000 trước Công Nguyên.
Lúc đó, da thuộc được dùng bằng phương pháp thủ công, dùng chất tanin thảo
mộc với thời gian công nghệ kéo dài, sản phẩm thuộc da đanh cứng có màu nâu
sẫm, ban đầu phổ biến ở Tây Ban Nha sau đó phát triển rộng khắp châu Âu.
Phương pháp thủ công kéo dài đến mửa thế kỉ thứ XVII. Do khoa học ngày một
tiến bộ, sự áp dụng thành tựu khoa học của con người ngày càng rõ nét, họ đã
nghiên cứu để rút ngắn thời gian thuộc bằng cách sử dụng các bể thuộc có nồng
độ chất thuộc khác nhau và theo hướng phát triển. Đầu thế kỉ XIX, kĩ nghệ thuộc
da chuyển sang giai đoạn phát triển rực rỡ, trong thời kỳ này hàng loạt phương
pháp, không những rút ngắn thời gian thuộc mà còn nâng cao chất lượng sản
phẩm. Đặc biệt là phương pháp thuộc da bằng tain thảo mộc của Segum, tác giả
đã nghiên cứu nồng độ hoa chất cho từng bể theo thời gian thuộc mà ngày nay
vẫn được áp dụng.
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, Knapp đã nghiên cứu ra muối Crôm, với
chất liệu này cho ta sản phẩm da thuộc có nhiều đặc tính ưu việt như mềm mại,
chịu đàn hồi tốt, thấu hơi thấu khí cao, khả năng chịu nhiệt, chịu ẩm tốt hơn hẳn
da thuộc bằng tanin thảo mộc, tanin tổng hợp và một số vật liệu giả da thay thế
nó.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, cùng với sự phát triển của ngành hoa chất, hàng
loạt công nghệ tiên tiến được áp dụng trong ngành da thuộc để sản xuất da cứng,


da mềm, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Chính vì thế mà công
nghiệp thuộc da đã trở thành một ngành kĩ thuật trên thế giới, đặc biệt là nghành
da giày chiếm một tỉ trọng đáng kể trong nền công nghiệp nhẹ của các nước.
2. Tình hình phát triển của công nghiệp thuộc da trong nước.


Hiện nay, một số cơ quan đang nghiên cứu và đưa vào khai thác nguồn da đà
điểu một lĩnh vực khá mới mẻ song cũng rất nhiều tiềm năng. Da đà điểu là loại
da cao cấp, dùng để làm túi, cặp sách có giá trị lớn. Quy trình thuộc da thì không
khác nhiều so với các loại da trâu, bò, lợn, chỉ có khâu hoàn tất là cầu kỳ và mất
nhiều công sức. Với giá trị kinh tế cao, da đà điểu rất có tiềm năng trở thành
nguồn nguyên liệu mới cho ngành thuộc da Việt Nam. Hiện nay, Viện nghiên
cứu Da Giày cũng đang mở một lớp đào tạo thuộc da đà điểu phục vụ cho công
tác nghiên cứu và ứng dụng nguồn nguyên liệu mới mẻ này.
Tại Việt Nam, năm 1998, nhu cầu da thuộc mới chỉ có 160 triệu spft, năm
2005 tăng lên khoảng 300 triệu và dự kiến năm 2010 sẽ tăng lên 500 triệu sqft.
Theo đánh giá của chuyên gia, dù chỉ có 15% tổng sản lượng giày sản xuất trong
nước (khoảng 60 triệu đôi) được làm bằng da cũng phải cần 120 triệu sqft cho da
mũ giày.
Nhu cầu da bò nguyên liệu rất lớn và ngày càng tăng nhanh ngành thuộc da
trong nước không theo kịp nhu cầu của thị trương các nhà máy sản xuất giày dép
chủ yếu sử dụng da bò nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này được chứng minh qua
những số liệu thống kê: năm 2003, nhập khẩu 220 triệu sqft da (dùng trong
nguyên liệu mũ giày, vật liệu lót, đế giày). Trong 9 tháng đầu năm 2005, trị giá
nhập khẩu sản phẩm da các loại đạt 463.323.524 USD, tăng 8% so với cùng kỳ
năm 2004. Năm 2005, các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư
tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc
của cả nước (khoảng 60 triệu sqft da), còn lại 80% (240 triệu sqft da) phải nhập


khẩu. Ngành Da Giày đưa ra mục tiêu phát triển ngành thuộc da ở trong nước đến
năm 2010 mức khiêm tốn ở mức 80 triệu sqft ( năm 2005 đạt 60 triệu sqft), quá
bé nhỏ so với tổng nhu cầu dự báo là 500 triệu khoảng 20% nhu cầu da thuộc của
cả nước (khoảng 60 triệu sqft da), còn lại 80% (240 triệusqft da) phải nhập khẩu.
Theo Hiệp hội Da Giày Việt Nam, tính đến nay, đã có hơn 20 nước ở 3 châu
lục (châu Âu, châu và châu Mỹ). Trong đó thị phần các sản phẩm da thuộc nhập

từ Nga vào Việt Nam rất nhỏ, chỉ chiếm 0,16%. Đây chính là cơ hội để nhà máy
thuộc da lớn nhất nước Nga — ZAO " Russkaya Kozhaor" thâm nhập vào Việt
Nam.

Ngành da giày xuất khẩu vẫn đạt mức tăng trưởng 15% - 20%
(SGGP). - Tại buổi giao lưu với hiệp hội da giày các nước Ý, Đức, Hàn Quốc,
Thái Lan, Philippines và vùng lãnh thổ Hồng Công, Đài Loan (Trung Quốc) diễn
ra tại TPHCM vào tối 24-9, Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, ông Nguyễn
Đức Thuấn cho biết, mặc dù ngành da giày VN gặp nhiều khó khăn khi bị EU bỏ
thuế quan ưu đãi GSP, muốn kéo dài áp thuế chống bán phá giá giày mũ da,
nhưng da giày xuất khẩu vẫn đạt được mức tăng trưởng 15% - 20%/năm. Trong
năm 2008, ngành da giày sẽ đảm bảo mức tăng trưởng 15%, đạt kim ngạch xuất
khẩu khoảng 4,5 tỷ USD. Chúng ta cùng xem kết quả sản xuất - kinh doanh năm
2007 về kim ngạch xuất khẩu, năng lực sản xuất, lực lượng lao động và dự kiến
kim ngạch xuất khẩu năm 2008 trong bảng dưới đây:


KẾT QUẢ sx - KD NĂM 2007 VÀ Dự KIÊN NĂM 2008

I.CẤU TRÚC DA ĐỘNG VẬT.
Da là một lớp vỏ bao bọc bên ngoài của bất kỳ loài động vật nào – da bảo vệ
cho cơ thể với tác động của bên ngoài như nóng, lạnh, ... Da không chỉ có một
chức năng bảo hộ, nó còn có vai trò điều tiết nhiệt dộ của cơ thể khi nhiệt độ và
nước bên ngoài thâm nhập vào cơ thể. Da còn có nhiệm vụ bài tiết mồ hôi qua
các lỗ chân lông một lượng lớn các chất độc trong cơ thể được thải ra. Ngoài ra,
da còn có phản xạ cảm ứng. Từ các chức năng khác nhau trên đây, da có một cấu
trúc khá phức tạp.
Da động vật gồm 4 lớp:
- lớp lông: lớp ngoài cùng.
- lớp biểu bì.

- lớp bì cật: cấu tạo từ các protein dạng sợi như collagen, elastin.
- lớp bạc nhac, mỡ.


Có thể chia chi tiết thành 10 thành phần như sau:
1. Lớp biểu bì.

10. Mô mỡ.

2. Lớp bì phụ.
3. Lớp bạc nhạc.

Hình 1.Mặt cắt đứng của da động

4. Tuyến mồ hôi.

dưới kính hiển vi

5. Cơ.
6. Tuyến mỡ.
7. Túi chân lông.
8. Mạch máu.
9. Sợi colagen.


Công nghệ thuộc da

- Lớp biểu bì: là lớp ngoài cùng của da, độ dày chiếm từ 1-2% độ dày của da.
Lớp biểu bì thường bị tẩy cùng với lông trước khi đưa vào thuộc.
- Bì phu: là phần chính của da, được tạo thành từ các búi sợi colagen liên kết

chặt chẽ vào nhau và chia thành 2 lớp:
+ Lớp thượng bì (lớp nhú): là phần trên của bì phu giáp với lớp biểu bì ở
gốc chân lông và tuyến mồ hôi, tại đó tập trong lớp cơ, lông, tuyến mỡ, mạch
máu và bạch huyết. Lớp này có các bó sợi mịn và được kết chặt với nhau, tạo
nên bề mặt da phẳng nhẵn, những chỗ mấp mô của da và độ lõm sâu của chân
lông tạo nên nét đặc trưng của mặt cật da và tạo thành các dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt các loại da súc vật. Lớp này còn được gọi là lớp cật.
+ Lớp hạ bì: là phần chính của da dùng để sản xuất da thuộc. Độ dày của
lớp hạ bì phụ thuộc vào loại và tuổi tác của súc vật. Lớp này có cấu trúc như
mạng lưới, nằm ngay sát dưới nhú và có độ dày lớn hơn. Cấu trúc lớp lưới của
mỗi loại da động vật đều mang đặc tính riêng của loại da đó, đồng thời lớp lưới
là lớp xác định các độ bền cơ học của da thành phẩm, như độ bền mặt cật, bền
kéo đứt, chịu uốn nhiều lần. Tương quan của hai lớp này ảnh hưởng tới tính cật
của da, như độ bền, tỉ trọng, độ dày, độ mài mòn…
- Bạc nhạc: tổ chức dưới da, có các sợi colagen kết hợp lỏng lẻo ở giữa có
lẫn mỡ. Lớp bạc nhạc chiếm 15% độ dày của da và lớp bạc nhạc được nạo sạch
trước khi đưa da vào thuộc.
Trong 4 lớp trên thì chỉ có lớp thứ 3 là lớp cật được sử dụng thuộc da. Các
lớp khác được tách ra khỏi lớp cật bằng các quy trình cơ học, hoá học, đó là giai
đoạn tiền xử lý da. Lớp da cật được thuộc bằng các chất nhuộm như tain, crom
để chuyển hoá da sống thành da thành phẩm có dộ bền, không bị phân huỷ trong
điều kiện bình thường.
Thành phần hoá học của da động vật gồm nước, Prôtit (protein), các chất béo
và một số muối khoáng. Trong các chất trên, quan trọng nhất trong việc sản xuất da
thuộc là protit, protit là phần chính tạo nên sợi colagen và keratin (chất sừng).
6


Công nghệ thuộc da


Công nghệ thuộc da.

I

1. Nguyên liệu sản xuất

Da nguyên liệu dùng trong công nghiệp sản xuất thuộc da là các loại da động
vật như trâu, bò, lợn, cừu, dê, ngựa. ngoài ra còn sử dụng các loại da động
vật quy hiếm như hươu, nai, hổ, cá sấu, trăn, rắn, nhưng số lượng không lớn.
1.1. Cấu tạo da sống.
Trong công nghiệp thuộc da, việc chia diện tích trên một tấm da được quy
định theo các vùng như

-



Phần mông ngực



Phần đầu vai



Phần bụng

Phần mông ngực: là phần trung tâm của da, chiếm 50-60% diện tích con da.
Phần này các chùm sợi ở lớp mạng lưới sắp xếp chặt chẽ, có độ bền cơ học
cao, đây là phần chất lượng nhất trong toàn bộ tấm da


-

Phần đầu vai: độ bền cơ lí thấp do các chùm sợi phát triển yếu, cấu tạo lỏng
lẻo

-

Phần bụng: là phần biên của con da, các chùm sợi colagen mảnh mai sắp xếp
lỏng lẻo và gần như song song với bề mặt vì vậy tính chất xơ lí kém thua
phần mông ngực và phần đầu vai.

-

Thành phần hoa học chính của da sống là: nước, protit, mỡ, chất khoáng,
một lượng nhỏ men và sắc tố. Hàm lượng các chất trong thành phần do
thường không cố định mà biến đổi theo giống, tuổi, loài, điều kiện sinh
trưởng của con vật và từng vị trí trên diện tích da.

-

Nước trong da tươi chiếm khoảng 60-70% và tồn tại dưới hai dạng là: nước
tự do nằm xen kẽ trong các sợi da ( chiếm 60%lượng nước trong da); nước
kết hợp nằm trong cấu trúc của da khó thay đổi được.
7


Công nghệ thuộc da

-


Protit: là thành phần cơ bản của da. Trong da sống đã sấy khô, protit chiếm
khoảng 95% trọng lượng da. Protit tồn tại dưới hai dạng: Protit không có cấu
trúc dạng sợi như anbunia, globulin, muxin và mucoit; Protit có cấu trúc
dạng sợi như collagen.

Trong quá trình thuộc da, nhiều protit không có cấu trúc dạng sợi và Karetin được
loại bỏ hoàn toàn.
1.2.

Bảo quản nguyên liệu.

Thông thường các loại da tươi này trước khi đưa vào thuộc phải được bảo
quản cẩn thận vì các lò mổ, các điểm giết mổ không thể cung cấp một cách
đều đặn, thường xuyên lượng da lớn cho các nhà máy thuộc da, mặt khác
thường quy định trong một lô da xuất thuộc phải có đồng đều về chủng loại,
trọng lượng, chất lượng và phương pháp bảo quản sau khi giết mổ.
Mục đích của bảo quản là loại bỏ sự phá hoại của các vi khuẩn hoặc hạn
chế chúng. Có thể thực hiện bằng cách giảm lượng nước trong da, hoặc hạ
thấp độ pH đến giá trị pH của axit mạnh và cũng có thể thực hiện qua việc hạ
nhiệt độ xuống dưới 0 0 c.
Các phương pháp bảo quản da tươi:


Ướp muối (phương pháp thông dụng nhất).



Phơi khô.




Ướp muối và phơi khô.



Axit hóa



Cho vào phòng lạnh.

+ Bảo quản bằng muối: da tươi được ngâm vào muối hoặc dung dịch
muối bão hoa. Sự hấp thụ muối đạt cực đại sau 12 giờ đối với dung dịch
muối bão hoa và 24 giờ đối với muối hạt, sau đó là quá trình loại nước ra
khỏi da. Trong quá trình này da mất nước và hấp thụ muối, lượng nước mất
lớn hơn lượng muối hấp thụ ( với NaCl).
8


Công nghệ thuộc da

Khi bảo quản bằng muối hạt, trọng lượng giảm 13-19%.
Khi bảo quản bằng dung dịch muối bão hòa trọng lượng giảm 9-12%
Da bảo quản bằng phương pháp dung dịch muối bão hòa ít khuyết tật hơn và định
mức da thành phần tăng từ 1-2% so với phương pháp muối hạt.
Muối dung ở đây là NaCl, nó có khả năng giữ lại khí cacbonic và không cho phép
hòa tan trong môi trường đầy oxy.
Na+ ngăn sự phát triển của vi khuẩn, còn Ca+và Mg+ thì ngược lại vì vậy NaCl
phải sạch hoặc chứa ít CaSO4, MgSO4, FeSO4 và Al2O3. Ngoài ra, có thể thêm

chất ngăn cản hoạt động của vi khuẩn như axit boric, naftalina, cacbonat natri,
beeta maftol, fluosilicat natri.
Da sau khi mổ cần phải được rửa sạch phần máu trên da, phần bản sau đó vắt lên
cho ráo nước và muối ( muối ở nơi tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp hoạc ẩm ướt,
phải thoáng mát).
Da được muối trên sàn gỗ hoạc sàn ximăng có độ nghiêng 3-5độ, trải phẳng con da,
mặt lông xuống dưới, mặt thịt lên trên, sau đó sát muối thật đều và trải con khoác
lên trên, ở độ cao khoảng 5-6m/mẻ.
Sau 5-7 ngày muối, lượng muối cần dùng là 10-14% so với lượng da tươi
+ phương pháp phơi khô: phơi khô phải rừ từ, không bức khô
( phương pháp này chỉ dùng cho thú nhỏ, và thú săn bắn).
Thuận lơi: Không dùng hóa chất, thời gian bảo quản lâu, chất lượng sản phẩm
đảm bảo.
Nhược điểm: Quá trình phơi khô khá lâu, khó đạt công nghệ yêu cầu, da lỏng
mặt và giòn cục bộ.
+ Bảo quản bằng phương pháp phơi khô và ướp muối. ướp ½ lượng
muối sau đó phơi khô đến lượng nước từ 18-20%. Phương pháp này ít dùng.

9


Công nghệ thuộc da

+ Bảo quản bằng axit: Đây là phương pháp da trần (da tẩy lông), sử
dụng 100% dung dịch nước, 15-20% NaCl và 1,5-2%HCl hoặc H2SO4 so với
trọng lượng da tươi.

Quy trình sản xuất thuộc da.

1.3.


Chia thành 3 thành phần chính:




Chuẩn bị thuộc
Thuộc
Hoàn tất
Sơ đồ công nghệ thuộc da

Da tươi

Công đoạn chuẩn bị.
Công đoạn thuộc.
C
ô

Bảo quản da thành phẩm.
Da thành phầm.
Hình2. Sơ đồ công nghệ thuộc da.
1.3.1.Quy trình chuẩn bị thuộc.

10


Công nghệ thuộc da

Công đoạn này có nhiệm vụ loại bỏ những phần không cần thiết như biểu bì, mô liên kết dưới
da, tạo cho sự liên kết của chất thuộc với sợi collagen trong giai đoạn thuộc.

Tất cả nguyên liệu trước khi vào thuộc phải lựa chọn theo loại, trọng lượng, phương pháp bảo
quản để có chế độ xử lý thích hợp.
Các khâu công nghệ trong quá trình chuẩn bị thuộc có thể khác nhau, tùy theo loại nguyên
liệu, phương pháp bảo quản và mục đích sử dụng da thành phẩm.
Những công đoạn như hồi tươi, tẩy lông, ngâm lông, ngâm vôi, tẩy vôi, làm mềm axit hóa được
áp dụng cho tất cả các phương pháp thuộc. Riêng thuộc da để có da sử dụng trong công nghiệp,
công đoạn làm mềm, axit hóa không thực hiện được hoặc thực hiện ở mức độ thấp.

Da tươi

Muối, chất
sát
trùng,
Na2SiF6.
Nước,
NaOCl,
NaHCO3,
chất
hoạt động bề
mặt.
Ca(OH)2,
Na2S, Na2SO3.

Bảo quản, ướp muối.

Các chất hữu cơ, chất
béo, bùn đất.

Rửa, hồi tươi.


Các chất hữu cơ, chất
béo, bùn đất.

Nước chứa NaOCl,
Ca(OH)2, Na2S, các chất
hữu cơ, lông, cặn, bùn vôi,
SO2, H2S.

Khử lông, ngâm vôi.

Xẻ da, xén diềm, nạo
ghét, nạo thịt.
Nước.

Rửa sạch và làm mềm
da.

Magnezit,
H2SO4, HCOOH.

Axit hoá da (làm xốp).

Hình 4. Sơ đồ quy trình công đoạn chuẩn bị.

11

Đầu mẩu da, thịt vụn.

Nước thải chứa kiềm,
vôi, protein, chất hữu cơ.


Nước thải chứa axit,
NaCl.


Công nghệ thuộc da

a) Hồi tươi.

Mục đích: nhằm phục hồi lại lượng nước trong da bị mất đi do quá trình bảo
quản ( từ 60-70% xuống 35-45% đối với da bảo quản bằng muối và giảm đến 18%
với da bảo quản phơi khô), đồng thời làm cho cấu trúc sợi trở lại như ban đầu.
Với da bảo quản bằng phương pháp phơi khô thì hồi tươi khó khăn hơn phương
pháp ướp muối do vậy cần chú ý ngay từ công đoạn này. Da hồi tươi chủ yếu kiểm
tra bằng cảm quan, đạt yêu cầu khi mông có độ mềm mại như khi còn tươi. Nếu
kéo dài thời gian hồi tươi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn hoạt động, da dễ
bị tuột lông, mùi hôi khó chịu và có khả năng làm 1 phần collagen bị phá hủy.
Công đoạn này phải kiểm tra thời gian và nhiệt độ. Các nước châu Âu thường sử
dụng nước ở công đoạn này với nhiệt độ 26-27độ C và hóa chất cần thiết để ngăn
chặn sự phát triển của vị khuẩn.
Nước do có sự phân biệt mùa rõ ràng mùa đông va mùa hè nên công đoạn hồi tươi
khó khăn hơn hơn bao giờ hết. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng trong hồi tươi phải
để nhiệt độ nước là 26-27 độ C. Da bảo quản phổ biến là ướp muối do vậy cần hồi
tươi như sau:


Cân da nguyên liệu (tính trọng lượng da muối)




Dùng 150-200% nước foulons



Nhiệt độ nước là 26-27độ C.
Cho da nguyên liệu vào foulons quay trong 20 phút, thoát nước bẩn ra ngoài,

chắt kĩ và tiếp tục hồi tươi bằng cách bổ sung 150-200% nước vào foulons, tốc độ
quay 4 vòng/phút quay trong vòng 30 phút sau đó đảo 10 phút/giờ.
Yêu cầu da phải ngập nước, thời gian từ 5-12 giờ, phụ thuộc và hóa chất sử dụng
trong quá trình hồi tươi, hóa chất ở đây không có tính thuộc vì nước ảnh hưởng đến
công đoạn tẩy lông làm da cứng.
b. Nạo thịt: là quá trình nạo bỏ lớp bạc nhạc ra khỏi da bằng lô dao sắc. Giai đoạn

này có thể thực hiện bằng tay hoặc bằng máy nạo. Khi nạo bằng tay, dụng cụ
12


Công nghệ thuộc da

cần là bàn nạo và dao nạo. Trong công nghiệp thường sử dụng máy nạo bạc
nhạc.

c. Tẩy lông và ngâm vôi.

Mục tiêu: Tẩy sạch lớp lông, thượng bì và loại bỏ lớp mỡ dưới da. Đây là công
đoạn phức tạp, hóa chất tẩy lông ngâm vôi có tác dụng phá hủy lớp chân lông và
lớp biểu bì trên mặt da đồng thời làm trương nở da, nên cần phải có sự kiểm tra
chặt chẽ viêc sử dụng hóa chất, nước và nhiệt độ, thời gian. Trong quá trình tẩy
lông ngâm vôi, sự tác động kiểm làm sạch lông và chân lông là sunfuanatri đóng

vai trò quan trọng, pH tẩy lông là 12-13. Trong các loại kiềm sử dụng. sử dụng vôi
là tốt nhất, vôi có độ hào tan là 0,15%, pH=12,6. Nếu sử dụng NaOH thì sẽ phá hủy
sợi collagen trong da vì pH quá cao. Nếu ngâm vôi quá mức , sợi collagen sẽ hỏng,
da bị hỏng. Ngược lai, ngâm vôi chưa đạt thì da sẽ cứng do không trương nở hết.
Ngày nay công nghệ hiện đại, ngâm vôi được tiến hành trong foulons với vận tốc là
3-4 vòng/phút, thời gian là 12-18 giờ. Trong quá trình ngâm tác động cơ học nhiều
sẽ làm cho sản phẩm có độ xốp lớn, so vậy chỉ cần đảo 10 phút/giờ nhằm mục đích
đảo đều dung dịch để thấm sau và da.
Nước sử dụng rủa da là nước cứng, trên bề mặt da thạo thành lớp CaCO3 và da
thành phẩm có chất lượng kém. Để tránh hiện này, khỉ rửa cần thêm 0,5% lượng
vôi so với lượng da.
Quy trình tẩy lông ngâm vôi. Thực hiện trong foulons, trọng lượng nước và hóa
chất tính theo lượng da muối nước 200% cho tiếp xúc với hỗn hợp 1,5-16% Na2S
và vôi tôi từ 10-15% quay 60 phút. Sau đó, mỗi giờ đảo 5 phút, thời gian công đoạn
này là 12-24 giờ.
d. Tẩy lông, nạo ghét, nạo thịt: Tẩy lông, nạo ghét là quá trình tách lông ra khỏi

da bằng lô dao cùn. Giai đoạn này cũng có thể thực hiện bằng bàn nạo hoặc máy
nạo lông.
13


Công nghệ thuộc da

e.Xẻ da: Sử dụng máy xẻ ướt để xẻ da, hạ thấp và cân bằng độ dày tấm da. Da
được xẻ thành 2 lớp: da cật và da dáng. Công việc được thực hiện trênmáy xẻ có
lưõi dao chuyển động hoặc cố định. Máy có lưỡi dao cố định thường được dùng để
xẻ phần đầu, còn lại phần lớn da được xẻ trên máy có lưỡi dao chuyển động và nằm
ngang.
f. Xén diềm: Giai đoạn này thường được tiến hành sau khi nạo, riêng đối với da

váng thì cả sau khi xẻ. Mục đích là loại bỏ các phần không sử dụng được ở mép
ngoài tấm da.. Giai đoạn này thường được thực hiện thủ công bằng dao sắc.
h.Rửa sạch da: Dùng nước mềm rửa da. Sử dụng các thùng quay đảo để mặt da
được sạch đều. Giai đoạn này thường sử dụng thùng quay phulong. Đây là thiết bị
hình trụ quay quanh trục nằm ngang. Trong thùng có bố trí hệ thống vú để da được
móc lên rồi rơi xuống khi phulong chuyển động. thùng được làm bằng gỗ hoặc
inox, có thể điều khiển được tốc độ vào chiều quay.
k.Làm mềm da: Khử vôi, làm mềm da với mục đích tách lượng vôi dư còn lại
trong da để tránh hiện tượng làm cứng da và cho da dễ xâm nhập hoá chất thuộc.
Thực chất ở đây là quá trình phá huỷ các sợi đàn hồi của lớp bì phu, làm dãn các
sợi colagen, loại bỏ các sản phẩm phân huỷ của abumin và các túi chân lông, làm
cho da dẻo và mềm, như: da làm mũ giầy, da làm áo...
g. Axit hoá da: là quá trình làm thay đổi pH của da sau công đoạn ngâm vôi để phù
hợp với độ pH của chất thuộc da và tẩy các xà phòng vôi đang bít khoảng không
giữa các sợi da. Quá trình này còn gọi là làm xốp nhằm tạo môi trường pH thích
hợp để các chất thuộc dễ khuếch tán vào da và liên kết các phân tử colagen
Ba giai đoạn cuối của công đoạn thuộc là: rửa sạch da, làm mềm da, axit hoá da có
thể được tiến hành trên một hoặc nhiều thiết bị. Các thiết bị được sử dụng cho công
đoạn này gồm có: bể ngâm, thùng quay bán nguyệt, thùng quay phulong, và hiện
đại nhất là thùng trộn nghiêng có nguyên tắc hoạt động gần giống như thùng trộn
bêtông.

14


Công nghệ thuộc da

1.3.2. Thuộc Da
Thuộc da là quá trình mà qua đó da trần được chuyển hóa thành da thuộc với
những đặc tính tối ưu của nó như chịu nhiệt độ cao, không thối rữa khi tiếp xúc với

nước và các môi trường khác, chịu được tác động phá hoại của vi sinh vật và có độ
thấu khí cao.
Hóa chất dùng để thuộc là kali bicrômat: K 2Cr2O7. Khi thủy phân tạo thành muối
kiềm crôm :
K2Cr2O7 + 3H2SO4 + R- K2SO4 + 2CrOHSO4 + RO + H2O
R là chất khử ( gluco hoặc Na 2S2O4 ). Phản ứng tạo nên hợp chất hyđrôxit là
muối kiềm Crôm, dung dịch mang tính axit. Quá trình thủy phân có thể tiếp tục nếu
ta cho axit vào dung dịch khi dùng quá trình thủy phân và có thể đưa sán phẩm của
quá trình thủy phân trở về dạng sunfat crôm.
Các phân tử phức crôm có thể tạo nên các phân tử phức lớn hơn, làm cho độ
kiềm và tính thuộc biến đổi.
Một số tính chất của muối kiềm crôm:
TT
1
2

Muối crôm
Cr2(SO4)3
Cr(OH)SO4

3
4

Cr2(OH)4SO4
Cr(OH)3

% độ hòa tan
0
33
45

46
100

Tính thuộc
Kém
Tốt
Mạnh
Bề mặt
Không

Độ hòa tan
Rất tốt
nt
nt
Không tan
nt

Độ kiềm là mức đo tính thuộc của muối crôm: tăng độ kiềm, tính thuộc và
lượng muối crôm hấp thụ và da tăng, đồng thời cũng tăng nhóm hydroxit liên kiết
trong phức và làm tăng kích thước phức crom trong dung dịch và làm giảm khả
năng xuyên của muối crom vào bên trong da, cho nên ở giai đoạn này dùng dung
dịch crom có độ bền kiềm thấp tạo khả năng xuyên của chúng vào da sâu hơn.
15


Công nghệ thuộc da

Các anion khác có thể đi vào phức crom (các gốc cacboxyl) làm thay đổi tính
thuộc, thay đổi thành phần của dung dịch điều chế từ bicromat ít hơn, do nguy
hiểm của một số hóa chất như axit cromic đối với sức khỏe người sản xuất.

Việc dùng tác nhân khử là glucoza hoặc hợp chất hữu cơ khác, tạo nên crom với
nhiều phân tử hữu cơ, tùy theo thành phần của chất khử. Ví dụ:
Na2Cr2O7 + H2SO4

H2CrO4 + Na2SO4 + H2O + nhiệt....
Cr2(SO4)3 + Na2SO4 + H2O + nhiệt

PH thấp hơn, quá trình xuyên của chất thuộc crom vào trong da sẽ tốt hơn và
nhanh hơn song tính thuộc crom kém hơn. Tăng PH, tăng khả năng thuộc và tạo sự
liên kết của chúng với các collagen mà không gây kết tủa. Điều quan trọng trong
công đoạn nâng kiềm là mức độ nâng cao sao cho tác dụng thuộc đồng đều, phòng
ngừa kết tủa crom có thể xẩy ra. Natri cacbonat có thể dùng để nâng kiềm, độ kiềm
của dung dịch sẽ tăng ở dạng dịch cấp theo bậc thang.
Hiện nay, người ta dùng các tác nhân trung hòa khác nhau, tác dụng nâng
kiềm của chúng tăng lên một cách từ từ như: Mentrigan MOG, khoáng đôlômit.
Để tiếp tục công đoạn sau, ta cần kiểm tra độ xuyên thấu của axit hóa ( sau 2
giờ quay), sau khi đạt ta cho: 6-8% Cr2O3 dạng bột, quay 6-8 giờ, thử độ xuyên
thấu sau 3-4 giờ, cho tiếp 0.5-1% Mentrigan MOG, quay 1-2 giờ. Thử nhiệt độ và
PH.
Đối với da phèn cần dùng chất chống mốc để phòng mốc, thường dùng 0.30.5% Preventol WB.
1.3.3. Hoàn thành da thuộc:
Da sau khi thuộc độ ẩm còn quá cao 60-65%, chưa có độ mềm dẻo cần thiết, bề
mặt thô và dễ ngấm nước. Vì thế sau khi thuộc nhất thiết phải qua công đoạn chỉnh
lý.
16


Công nghệ thuộc da

Với các loại da khác nhau, yêu cầu khác nhau trong quá trình chỉnh lý. Tuy

nhiên, các loại da sau khi thuộc đều có những khác nhau cơ bản sau: ủ đống, ép
nước, bào mỏng, trung hòa (đối với da thuộc crom), nhuộm ăn dầu, sây khô, để cho
da có độ ẩm là 12-15%, sau đó đem vò mềm, trau chuốt, mục đích làm cho da
thuộc đồng đều về màu sắc, khắc phục những khuyết tật trên bề mặt nhằm đáp ứng
mục đích sử dụng đa dạng của người tiêu dùng.
Trong công nghiệp thuộc da, quy trình thuộc đóng vai trò quyết định của sản
phẩm thì trau chuốt có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với tiêu dùng vì: chỉ tiêu thẩm
mĩ của da thuộc crom với các đồ dùng chế biến từ da được thể hiện chủ yếu ở màu
sắc, độ bóng, độ bền nhiệt, bền uốn gập của lớp màng trau chuốt. Đặc biệt là lớp
màng trau chuốt có vai trò quyết định giá trị của tấm da thuộc khi lưu thông tren thị
trường. Vì vậy, khi trau chuốt đòi hỏi các nhà công nghệ phải tìm hiểu, nắm bắt thị
hiếu của người tiêu dùng, từ đó phân loại, lựa chọn hóa chất, phương pháp trau
chuốt cho phù hợp với công dụng từng mặt hàng mà người tiêu dùng đòi hỏi.
Da nguyên liệu có một số khuyết điểm hình thành khi con vật còn sống hoặc
hình thành qua lột mỏ, khi bảo quản những khuyết điểm này ảnh hưởng đến chất
lượng của da thuộc và da hoàn thành, do đó trước khi trau chuốt phải phân loại da
thành 2 loại: loại để nguyên mặt cật (mặt tự nhiên) và loại phải cải tạo mặt cật.
Với loại để nguyên mặt cật, sau khi nhuộm ăn dầu được đưa vào trau chuốt.
Thành phần trau chuốt bao gồm 2 lớp chính:
+ Lớp cơ sở: chất kết dính là thành phần chính để tạo màng, như chất acrylic
butadien, các chất pigment ( những oxit kim loại) mang màu, dầu mỡ, dung môi
hữu cơ tại màng có độ mềm mại và độ bóng nhất định. Ngoải ra, còn có 1 số hợp
chất làm dày khác.
+ Lớp phủ trên cùng: chủ yếu dùng Lacquers, nitroxenlulo, polymetan hòa tan
dung môi hữu cơ, các hợp chất trên có thể bôi hoặc phun nhiều lớp, cuối cùng là in

17


Công nghệ thuộc da


ở nhiệt độ cao và áp suất khác nhau, phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng mà
công nghệ lựa chọn phương pháp khác nhau cho phù hợp.
Đối với da phải cải tạo trước khi trau chuốt, phải xử lý bằng phương pháp ngâm
tấp và sùng giấy nháp đánh bề mặt, khi ngâm tấp có các hóa chất chủ yếu đó là
Encryl và dung môi hữu cơ. Các loại da mặt cật xấu phải qua công đoạn cải tạo
bằng phương pháp dùng giấy nháp đánh phớt bề mặt sau đó da được ngâm với
dung dịch hóa chất nêu trên nhằm tạo cho da có mặt cật bằng, tiếp đó đem sấy khô
và dùng giấy nháp đánh lại để hóa chất trau chuốt bề mặt da đạt được yêu cầu chất
lượng tốt hơn.

II.Thiết bị ([1], [ 4], [5])
Các thiết bị cần thiết cho quá trình thuộc da là: foulons, máy nạo thịt, máy xẻ,
máy bào, máy ép nước, máy vò mềm, máy in, máy đánh nháp, máy đánh bóng,
máy sấy chân không, trong đó quan trọng là:
+ Máy nạo thịt: là máy dùng để loại bỏ những tổ chức dưới da tạo điều kiện cho
hóa chất xuyên vào sợi da tốt hơn.
+ Máy xẻ, máy bào: có tác dụng điều chỉnh dày chiều dày tấm da đảm bảo độ dày
đồng đều nhất định, giảm sự tiêu hao của 1 số hóa chất trong khi thuộc và làm tăng
khả năng sử dụng của sản phẩm.
+ Foulons: giúp làm tăng quá trình xuyên thấu và kết hợp của hóa chất vào da tạo
sự phân bố đồng đều trên và trong toàn bộ tấm da.
+ Máy vò mềm: tạo cho da có độ xốp và độ mềm mại đáp ứng những nhu cầu tiêu
dùng khác nhau của khách hàng.

18


Công nghệ thuộc da


+ Máy in: dùng để trang trí bề mặt làm tăng tính thẩm mĩ của da thuộc sau khi hoàn
thành.
Qua phần giới thiệu về công nghệ thuộc da và sản xuất da giày ở trên ta thấy
rằng chất thải trong nghành này cũng là vấn đề rất đáng lưu tâm. Nhà nước đã xác
định đây là vấn đề có luật pháp để quản lý nên đã đưa ra tiêu chuẩn lao động áp
dụng riêng đối với da giày.
I.Luật môi trường:
Trích chương 10 _Môi trường:
1.1.Luật pháp môi trường:
1. Doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ môi trường của nước
CHXNCNVN
2. Không tiến hành các hoạt động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường,
cụ thể không tiến hành các hoạt động sau:
+ Các hoạt động làm suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng nguồn nước, ngăn cản trái
phép sự lưu thông của nước, phá hoại công trình bảo vệ, khai thác sử dụng tài
nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra , và không gây ô
nhiễm nước.
+ Các hoạt động gây tác hại đến môi trường sống của các loài thủy sản.
+ Các hoạt động chôn vùi rác thải độc hại vượt quá giới hạn cho phép gây ô nhiễm
đất.
+ Các hoạt động làm suy thoái môi trường, gây ô nhiễm môi trường.
+ Thải vào không khí các loại bụi, chất độc quá tiêu chuẩn vệ sinh cho phép.

19


Công nghệ thuộc da

+ Gây tiếng ồn, rung động vượt giới hạn cho phép làm tổn hại đến sức khỏe của
người xung quanh.

3. Lập và nộp bản kê khai các hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường đúng thời
hạn cho các cơ quan quản lý nhà nước.
4. Lập và nộp báo cáo đánh giá tác động môi trường của doanh nghiệp đúng thời
hạn cho các cơ quan quản lý nhà nước.
5. Không vi phạm quy định về lưu thông hàng hóa ảnh hưởng đến môi trường, cụ
thể không vi phạm các điều sau:
+ Quy định về pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, không sản xuất kinh
doanh các sản phẩm hoặc sử dụng các nguyên vật liệu độc hại gây ô nhiễm môi
trường nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của con người trái với thuần phong mỹ
tục.
+ Quy định về pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, về chứng nhận hợp
chuẩn trong việc sản xuất hàng hóa.
+ Quy định việc nhập khẩu công nghệ công nghệ máy móc thiết bị, phế thải hoặc
các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường cho phép.
6. Không vi phạm các qui định về việc bảo vệ môi trường trong quá trình xử lý chất
thải.
1.1.2. Các chính sách môi trường
1. Xây dựng chính sách bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu các tác hại đối với môi
trường sinh thái và cộng đồng dân cư.
2. Phòng chống ô nhiễm không khí, cải tạo môi trường cảnh quan, trồng cây xanh.
3. Không tiến hành các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước, thu gom nước thải có
chứa hóa chất, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn mới thải ra môi trường.
20


Công nghệ thuộc da

4. Xây dựng quy chế xử lý chất thải: mọi chất thải đều được phân loại tập trung vào
nơi quy định và xử lý bằng những biện pháp thích hợp tránh gây ô nhiễm môi
trường, đảm bảo mức tiêu chuẩn vệ sinh cho phép trước khi thải ra môi trường

xung quanh.
5. Có bộ phận theo dõi giám sát, thự hiện các chương trình bảo vệ môi trường.
Trên đây là quy định của nhà nước, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về các loại chất
thải phát sinh trong các quy trình sản xuất ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe
của chúng ta.
Trước hết chúng ta cũng phải biết rằng ngành giày da đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, đây là ngành xuất khẩu hàng đầu của chúng ta đồng
thời cũng đứng đầu thế giới. Và theo đó lượng chất thải nguy hại Gelatin và Crom (
chất có thể gây ung thư, tử vong cho người và động vật khi tiếp xúc) tử các phế thải
của da cũng là 1 điều đáng lo ngại đối với các cơ sở thuộc da.
Thống kê trung bình trên cả nước mỗi năm lượng chất thải rắn phát sinh trong
ngành thuộc da khoảng 4000 tấn. Đây chính là lượng chất thải nguy hại có chứa
nhiều Crom chiếm (trên 1% khối lượng) và 1 lượng đáng kể Gelatin. Trong quá
trình thuộc da cấu trúc da động vật được thay đổi để cho da bền nhiệt, không cứng
giòn khi lạnh không bị nhăn hoặc thối rữa khi ẩm và nóng. Có nhiều phương pháp
thuộc da tùy theo yêu cầu và mục đích sử dụng. Trong đó thuộc da bằng muối
Crom là phổ biến nhất. Tuy nhiên với phương pháp này lượng Cr(III) còn sót lại
trong da chế phẩm lại gây ô nhiễm đáng kể với môi trường. Điều này nguy hiểm là
Cr(III) khi gặp điều kiện thuận lợi có thể chuyển hóa thành Cr(IV), Cr(V)- có trong
thành phần của chất độc có thể ung thư, tử vong cho người và động vật.
Có thể thu hồi Gelatin và Crom từ da bào theo quy trình sau:
1. Nấu da với dung dịch Ca(OH)2.
2. Lọc và thu hồi dung dịch có chứa Gelatin.
3. Cho bã lọc vào dung dịch axit.
21


Công nghệ thuộc da

4. Lọc.

5. Kết tủa Crom.

Phương pháp này sử dụng hóa chất rẻ tiền, đơn giản có khả năng ứng dụng ở
quy mô lớn có giá trị kinh tế và bảo vệ môi trường.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sâu sắc hơn các loại chất thải, nguồn phát sinh
và biện pháp giảm thiểu, xử lý.
III . Vấn đề môi trường nghành công nghệ thuộc da.
1.Các chất thải phát sinh.
1.1.Nước Thải
Nước thải phát sinh chủ yếu từ các công đoạn ướt. Một số công đoạn cơ khí
cũng phát sinh nước thải với lượng ít hơn. Trong các công đoạn thuộc da, nước
được dùng là thể mang để làm sạch da thô cũng như giúp hóa chất thấm vào để
phản ứng với sợi collagen của da. Lượng nước tiêu thụ cho 1 kg da thô tùy vào
từng nhà máy. Thông thường, lượng nước sử dụng là 50 l/kg, cũng có khi lên đến
150 l/kg. Nước thải đầu ra gián đoạn nên cần phải điều hòa trước khi xử lý.
Nước thải thuộc da có hàm lượng BOD, COD, SS, TKN, độ dẫn điện, sulfate,
sulfide và chrome cao.
1.2.

Chất thải rắn.

Nguồn chất thải rắn chủ yếu là: muối, da thừa của công đoạn xén ướt, xén
khô, đệm... Lượng chất thải rắn thay đổi tùy vào nguyên vật liệu đầu vào, công
nghệ sản xuất và thành phẩm. Hầu hết chất thải rắn phát sinh được cách ly khỏi
nguồn. Tính trên cả nước Việt Nam, năm 2000 có 4300 tấn da phế thải tức 11,8 tấn
da phế thải/ ngày.
Các loại chất thải rắn:

o


Muối: trong quá trình xử lý da, các muối kết dính chứa máu,
lông, bụi và một số loại vi khuẩn được tách khỏi da và thu hồi
22


Công nghệ thuộc da

dưới dạng rắn. Muối này được tái sử dụng 1 phần, còn lại bị thải
bỏ.
o

Rẻo da thô: đây là phần da thô ở phần rìa bị xén bỏ. Da bị xén ở
phần chân, đuôi, bụng, cổ và tai để miếng da được gọn.

o

Thịt nhầy: đây là phần thịt được tách ra khỏi da sau khi làm
sạch lông và ngâm da vào kiềm.

o

Da ẩm tách lớp: Sau khi da đã được thuộc, bề dày da khoảng 6 –
8 mm. Do đó, để đạt chiều dày mong muốn, cần tách da thành 2
lớp. Lớp trên được đưa vào công đoạn chuẩn bị hoàn thiện, lớp
dưới được xem như sản phẩm phụ. Những miếng lớn có thể sử
dụng làm giày thường hoặc da độn, còn những miếng nhỏ bị
loại bỏ.

o


Da bào: sau khi da được thuộc, da được bào để đạt chiều dày
mong muốn. Công đoạn này thải ra vụn da bào có chứa chrome.

1.3.

Khí thải

Khí thải của nhà máy thuộc da có bản chất không ổn định. Hầu hết ở dạng độ
ẩm, mùi, bụi từ các công đoạn cơ khí và một số hơi dung môi. Khí thải phát ra từ 2
nguồn: nồi hơi và các quá trình chế biến. H 2S và NH3 là 2 khí chính thoát ra từ quá
trình rửa trống quay với NH3, sử dụng (NH4)2SO4 để khử kiềm. Ngoài ra còn có bụi
từ quá trình bào da, đệm da và mùi của các dung môi.
Có thể tóm tắt các chất thải chính của quy trình thuộc da theo sơ đồ sau:

23


Công nghệ thuộc da

DA MUỐI 12 000 kg

NƯỚC THẢI 600 m3/ngày

CHẤT THẢI RẮN &

BOD5 = 13680 kg/ngày
COD = 34200 kg/ngày
SS = 2790 kg/ngày
Chrome = 80 kg/ngày
Sulfua = 173 kg/ngày

Bùn = 3280 kg/ngày

CHƯA THUỘC:
Muối: 1000 kg/n
Rẻo da thô: 240
Thịt nhầy: 2500

DA THÀNH PHẨM 1400 kg

ĐÃ THUỘC:
Da bào: 1500kg/
Rẻo da: 240 kg/n
Da đệm: 20 kg/n
Tổng: 5500 kg/ n

Hình 7- Sơ đồ : Cân bằng vật chất của quy trình thuộc da.
Từ sơ đồ cân bằng vật chất trên, ta thấy da thành phẩm chỉ chiếm khoảng 10%
lượng da thô ban đầu. Điều đó chứng tỏ lượng chất thải rắn là rất lớn, gây ô nhiễm
nặng nề cho môi trường. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải có giải pháp xử lý và tận
dụng lưọng da này.
2.Tác động môi trường của các chất thải thuộc da


pH: pH của dòng thải trực tiếp từ nhà máy thuộc da thay đổi từ 3,5 –
13,5. Nước thải pH thấp gây ăn mòn hệ thống dẫn nước và có thể hòa tan
một số kim loại nặng trong nước thải. Nước thải của công đoạn kiềm có
pH rất cao do sử dụng dư vôi, tạo cặn trong đường ống. Ngược lại, pH

24



Công nghệ thuộc da

của các công đoạn acid và thuộc lại rất thấp. pH dao động mạnh gây sốc
cho môi trường nước, giết chết các loài thủy sinh nhạy cảm.
• BOD5: Hàm lượng protein và các sản phẩm phân hủy có rất nhiều trong
nước thải làm cho BOD rất cao (1740 – 11 050 mg/l).
• COD: Giá trị COD rất cao, từ 3800 – 41 300 mg/l.
• Nitrogen: Hàm lượng nitrogen cao trong nước thải gây phú dưỡng hóa
cho các nguồn nước. TKN trong khoảng 1060 – 2570 mg/l.
• Sulfua: Công đoạn làm sạch lông sử dụng sulfua nên trong điều kiện pH
< 8,5, GH2S sẽ tạo thành gây mùi hôi và độc. Khi thải vào cống chung,
nước thải chứa sulfua có tính ăn mòn cao vì tạo thành H2SO4 dưới hoạt
động của vi khuẩn. Lượng sulfua trong dòng chung là 290 mg/l.
• Chrome: Chrome hóa trị III thải ra từ nhà máy thuộc da ít độc hơn
chrome hóa trị VI. Độc tính của muối chrome thay đổi tùy loài thực vật
và động vật. Với hàm lượng cao, chrome làm kết tủa protein, các acid
nucleic và ức chế hệ thống men cơ bản. Chrome xâm nhập vào cơ thể
sinh vật theo 3 đường: hô hấp, tiêu hóa và qua da. Cr(VI) được cơ thể
hấp thu dễ dàng hơn Cr(III) nhưng khi vào trong cơ thể, Cr(VI) sẽ
chuyển thành dạng Cr(III). Người tiếp xúc với Cr hoặc hợp chất Cr thì
các loại bệnh như loét da, loét thủng vách ngăn mũi, viêm da tiếp xúc,
chàm tiếp xúc... đều có thể xuất hiện. Tảo là loài rất nhạy với chrome.
Hiện tại, hàm lượng chrome trong nước thải là 133 mg/l và trong bùn
thải là 3 – 175 mg/l. Nước thải của công đoạn thuộc chrome chiếm 2%
tổng lượng nước thải của nhà máy và có nồng độ chrome là 6000 – 7000
mg/l.
• Chất rắn lơ lửng (SS): Chất rắn lơ lửng không những gây mất cảm quan
mà còn che phủ lớp thực vật khi lắng. Hệ quả là gây cạn nguồn ôxy cục
bộ ở lớp nước đáy và cản sáng làm giảm sự quang hợp do độ đục nước

cao. Giá trị SS thường dao động từ 2000 – 8000 mg/l. 8. Muối: NaCl
được dùng trong các nhà máy thuộc da không gây hại cho thủy sinh nước
ngọt khi ở nồng độ cao. Muối Cr 2(SO4 )3 còn gây ăn mòn cho kết cấu

25


×