Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế đổi mới cơ CHẾ QUẢN lý của NHÀ nước đối với DOANH NGHIỆP vừa và NHỎ ở THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.32 KB, 189 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xác định cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đảm bảo mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân là một trong
những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong đổi mới quản lý kinh tế các
cấp ở nước ta hiện nay.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, quá trình phát triển kinh tế nhiều
thành phần từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986) đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Đóng góp vào thành tựu đó có hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, một lực lượng đông đảo và năng động khi chuyển sang
kinh tế thị trường và đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta. Tuy nhiên, việc khai
thác tiềm năng của hệ thống này, cũng như định hướng sự phát triển của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào những mục tiêu kinh tế - xã hội của thành
phố còn nhiều hạn chế và bất cập.
Nguyên nhân cơ bản cơ chế quản lý chưa phù hợp để huy động toàn
bộ nguồn lực của các loại hình doanh nghiệp khác nhau, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có diện rộng, phổ cập, nhưng thiếu cơ chế quản lý có
khả năng tạo ra sự liên kết, hỗ trợ trong quá trình phát triển. Do đó, các doanh
nghiệp này vẫn chưa phát huy được tất cả tiềm năng vốn có của nó. Là một
trung tâm kinh tế lớn, năng động của cả nước nên việc định hình cơ chế quản
lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh trên
phương diện lý luận và thực tiễn đã trở thành vấn đề lớn, thiết thực cho quá
trình phát triển kinh tế không chỉ riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh mà
trong một chừng mực nhất định còn mang tính bức thiết chung đối với cả
nước.


2



Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh" để làm luận
án tiến sĩ kinh tế thuộc chuyên ngành kinh tế quản lý và kế hoạch hóa kinh tế
quốc dân, hy vọng có thể đóng góp vào vấn đề mà thành phố đang quan tâm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã được một số nhà khoa học và
các trung tâm hoạt động kinh tế quan tâm nghiên cứu. Cụ thể đã có các
công trình đã được công bố như sau:
- Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
- Đỗ Đức Định, Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa
và nhỏ ở một số nước trên thế giới, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999.
- Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam đến 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Vương Liêm, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nxb Giao thông vận tải,
Hà Nội, 2000.
- Nghiêm Xuân Đạt, Phát triển và quản lý các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2002.
Các công trình trên đã tập trung giải quyết các vấn đề về cơ chế quản
lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng cấp độ khác nhau, nhưng chưa có
công trình nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề này ở Thành phố Hồ Chí Minh
một cách có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn, những bài học kinh nghiệm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích của luận án


3


Góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh theo yêu cầu của công cuộc
đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
- Xây dựng lý luận về cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Điều tra, thu thập số liệu, phân tích các dữ kiện để làm rõ đặc
trưng, thực trạng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 1993-2001.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp đổi mới cơ chế quản lý
của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh
trước yêu cầu phát triển hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu các đặc trưng, xu hướng vận động doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh với góc độ là đối tượng quản lý và cơ chế
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ với góc độ là phương
thức tác động, vận hành của chủ thể quản lý - hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị học mácxít cùng với lý luận
khoa học kinh tế chuyên ngành và quan điểm, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sự phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, nội dung của đề tài được triển khai theo các
phương pháp: phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, trong đó đặc biệt
coi trọng phương pháp thống kê và phân tích kinh tế để lượng hóa các nội
dung nghiên cứu.


4


6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Đề tài hướng đến sự giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn
quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh nên có thể được
sử dụng như một tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu những
vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân.
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đóng góp nhất định
trong quá trình triển khai, ứng dụng cơ chế quản lý mới đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả
nước nói chung.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 3 chương, 8 tiết.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1.1. Đặc trưng doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là hình thức tổ chức sản xuất tất yếu
khách quan, có lịch sử phát triển và giá trị lâu dài trong từng quốc gia.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu phát triển cho chính bản thân mình.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định ở quy mô vốn, lao động sử
dụng trong doanh nghiệp. Giới hạn về quy mô vốn, lao động là tiêu thức
hiện nay các nước thường sử dụng để nhận dạng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Giới hạn này thay đổi theo thời gian và có sự khác biệt về không gian qua
từng thời kỳ biến đổi kinh tế - xã hội của từng quốc gia.
Ở Việt Nam, trước yêu cầu bức thiết cần phải hình thành khung pháp
lý cho quá trình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà
nước đã xây dựng những quy ước quy định về quy mô vốn, lao động để nhận
dạng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1998, văn bản 681/CP-KTN ngày 20
tháng 6 năm 1998 có quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có
vốn điều lệ dưới 5 tỷ VND, lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Gần đây, trong Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày
23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Điều 3, chương I
đã định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập và
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.


6

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những đặc trưng cơ bản sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có qui mô đầu vào, đầu ra nhỏ và tỷ lệ
kết hợp kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các ngành, nghề có
sự khác biệt. Sự khác biệt này do đặc tính kinh tế, kỹ thuật của từng dạng
sản phẩm qui định. Tỷ lệ kết hợp kỹ thuật không chỉ quyết định mức tổng
chi phí đảm bảo cân bằng ở mức sản lượng tối ưu nhất mà còn quyết định
năng lực cạnh tranh sản phẩm trên các mặt: giá cả, chất lượng, mẫu mã ở
các ngành doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia.
Tỷ lệ kết hợp kỹ thuật còn chịu ảnh hưởng của trình độ công nghệ
sử dụng trong các ngành trên hai mặt: giảm chi phí, giá thành và đảm bảo yêu
cầu về vệ sinh môi trường. Trong điều kiện quan hệ cạnh tranh phát triển, yêu
cầu đảm bảo sự cân bằng môi trường lớn thì đây là hai mặt cần lưu ý.

Sản phẩm các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất thường chịu ảnh
hưởng của hai nhân tố cơ bản: năng lực sản xuất doanh nghiệp và nhu cầu
thị trường - Bên cạnh đó, trong điều kiện có sự quản lý của Nhà nước còn
những qui định của Nhà nước về các ngành, nghề kinh doanh mà doanh
nghiệp thực hiện. Từ những nhân tố ảnh hưởng này, sản phẩm của doanh
nghiệp vừa và nhỏ và thị trường tiêu thụ có những đặc trưng.
- Sản phẩm doanh nghiệp vừa và nhỏ là những dạng sản phẩm, dịch
vụ mà quá trình tổ chức sản xuất ra nó có thể thực hiện trong điều kiện tổ
chức qui mô vừa, nhỏ.
- Sản phẩm - dịch vụ của doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thuộc các
hình thức: sản phẩm, dịch vụ được sản xuất hàng loạt, sản phẩm dịch vụ
đơn chiếc, hoạt động gia công cho các doanh nghiệp lớn.
Những đặc trưng về sản phẩm đã qui định thị trường tiêu thụ của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đa dạng, bao gồm:


7

+ Thị trường địa phương, ngoài địa phương, ngoài nước.
+ Đơn đặt hàng, hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu giữa
doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, giữa các doanh nghiệp vừa
và nhỏ với nhau.
Qui mô, tỷ trọng các loại thị trường trên trong từng thời kỳ phản
ánh rất rõ năng lực hoạt động, xu hướng phát triển sản phẩm của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn chung, thị trường doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là thị
trường cạnh tranh (trong cả lãnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ), các
doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó thực hiện thị trường độc quyền. Thường
các doanh nghiệp dừng ở mục tiêu tìm kiếm một thị phần phù hợp, thị
trường nhỏ, thị trường ngách, ổn định thị trường, thị phần để ổn định hoạt

động sản xuất kinh doanh trong mỗi chu kỳ kinh doanh nhất định.
1.1.2. Xu hướng vận động, phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Là một thực thể kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn nằm trong
trạng thái vận động với những nội dung: khởi sự, thành lập, tổ chức sản
xuất kinh doanh với những qui mô khác nhau, tương ứng với các mức độ
phát triển mà nó đạt được. Quá trình vận động này của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gắn với hai nhân tố tác động nhân tố bên ngoài và nhân tố bên
trong.
- Những nhân tố bên ngoài:
+ Xu hướng và yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp, các ngành và
của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Nhân tố này tạo nên các điều kiện thị
trường, quan hệ hiệp tác cần thiết cho quá trình vận động doanh nghiệp vừa và
nhỏ.


8

+ Nội dung và cơ chế quản lý của Nhà nước, tạo nên cơ sở pháp lý,
môi trường kinh doanh, điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội cho sự phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Những nhân tố bên trong:
+ Năng lực điều hành, tổ chức của chủ doanh nghiệp.
+ Năng lực kinh tế, kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp.
Hai nhân tố này còn tạo tác động đến nội dung, xu hướng biến đổi
của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nội dung biến đổi của doanh nghiệp vừa và
nhỏ được biểu hiện ở sự biến đổi cơ cấu vốn, tài sản, sản phẩm, thị trường
theo các hướng khác nhau và từ đó hình thành các xu hướng biến đổi:
Thứ nhất: Phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Thứ hai: Không phát triển mạnh về mặt qui mô sản lượng, chỉ nâng
cao năng suất, sản lượng, qui mô đầu tư trong giới hạn của doanh nghiệp

vừa và nhỏ.
Thứ ba: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải giải thể, phá sản sau
một thời gian hoạt động do không vượt qua được áp lực của cạnh tranh.
Ba xu hướng như trên đã tạo nên một khoảng thời gian tồn tại của
doanh nghiệp vừa và nhỏ, được tính từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc
chuyển hình thức kinh doanh - gọi là chu kỳ sống của doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Độ dài chu kỳ phụ thuộc vào chu kỳ sống của sản phẩm kinh doanh
và có quan hệ với tỷ lệ các doanh nghiệp phá sản, các doanh nghiệp mới
thành lập và tổng số các doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến sự ổn định và
các nội dung phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng thời
kỳ.


9

Xu hướng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được
xem xét dưới góc độ hệ thống doanh nghiệp.
Hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ là tập hợp các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trên một địa bàn, được phân bổ theo các ngành nghề, trình độ công
nghệ, loại hình tổ chức, thành phần kinh tế khác nhau trong qui mô hoạt
động vừa và nhỏ.
Như vậy, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa mang tính đồng
nhất (về qui mô) nhưng lại mang tính đa dạng về sản phẩm, ngành nghề,
mô hình tổ chức, hình thức sở hữu… Tính đồng nhất qui định sự vận động
phải đạt được mục tiêu chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và nền kinh
tế. Mục tiêu này là nền tảng đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh
nghiệp vừa và nhỏ cùng sự tồn tại của cả hệ thống. Sự biến động, vận động
của hệ thống diễn ra theo các hướng:
- Sự chuyển dịch cơ cấu phân bổ ngành nghề các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trong hệ thống nhằm đạt được cơ cấu hợp lý, được biểu hiện ở sự thay đổi
tỷ trọng sản lượng, số lượng doanh nghiệp phân bổ trong từng ngành nghề.
Cơ cấu phân bổ thể hiện sự phân công lao động xã hội của hệ thống
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình tổ chức, phát triển.
Tính hợp lý trong nội dung phân công lao động xã hội không chỉ
tạo điều kiện phát huy cao nhất các tiềm lực trong phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ mà đứng về mặt quản lý, tự nó tạo ra khả năng tự hỗ trợ lẫn
nhau về thị trường; về tài chính, về kỹ thuật, về thực hiện sự phân công trên
cơ sở chuyên môn hóa và từ đó, làm giảm được áp lực hỗ trợ từ phía nhà
nước. Như vậy, một cơ cấu hợp lý sẽ không chỉ nâng tiềm lực của cả hệ
thống mà nó còn nâng tiềm lực các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hệ
thống.
- Sự biến đổi về qui mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, qui mô sản lượng
hệ thống - được biểu hiện ở tốc độ tăng, giảm qui mô.


10

Qui mô doanh nghiệp vừa và nhỏ và qui mô sản lượng phản ảnh
mức độ, qui mô hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng thời kỳ. Qui
mô này - sự biến đổi của nó - cũng coi như một nội dung phát triển, biến
đổi của hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Sự thay đổi về những nội dung phản ảnh trình độ, chất lượng của
hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ: năng suất lao động, mức chi phí ngành,
mức thu nhập bình quân, trình độ lao động…
Sự biến đổi với nội dung trên của hệ thống doanh nghiệp vừa và
nhỏ dựa vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc hệ thống,
đây không phải là những hoạt động đơn lẻ, độc lập mà là những hoạt động
mang tính phổ quát, xu hướng, quan hệ hiệp tác trong sự phân công giữa
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau. Nó dựa trên cơ sở năng lực hoạt

động của hệ thống, khả năng giải quyết các vấn đề đặt ra từ thị trường, từ
quan hệ cạnh tranh, từ các điều kiện tài chính xuất hiện mà tạo những tác
động khác chiều đến quá trình vận động của hệ thống. Đó là nội dung tự
điều chỉnh khách quan, là phản xạ cần thiết để hệ thống doanh nghiệp vừa
và nhỏ vượt qua được, thỏa mãn được những biến động của thị trường, của
nền kinh tế theo yêu cầu. Nội dung tự điều chỉnh bao gồm:
- Điều chỉnh qui mô hệ thống, qui mô hoạt động bình quân (vốn, lao
động, sản lượng) các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu trình độ công nghệ, cơ cấu các
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, cơ cấu thị trường, cơ cấu đầu tư.
- Điều chỉnh lại các mối quan hệ hiệp tác, quan hệ doanh nghiệp Nhà nước, quan hệ doanh nghiệp với xã hội.
Những đặc trưng mang tính hệ thống của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là căn cứ để hoạch định cơ chế chính sách của Nhà nước đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ


11

1.1.3.1. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ giữ những vai trò cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ là nội dung
tất yếu để hoàn thiện các mô hình tổ chức doanh nghiệp theo yêu cầu phát
triển các ngành, các khu vực kinh tế.
Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở nhiều nội
dung phát triển, trong đó có nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành,
thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được thực hiện ở nội dung
thay đổi số lượng, tỷ trọng các ngành nghề - mà sự thay đổi đó được trực

tiếp tạo ra từ hoạt động của các doanh nghiệp trong các ngành, nghề kinh
doanh. Mỗi ngành nghề, do những đặc trưng kinh tế kỹ thuật đòi hỏi phải
có một mô hình doanh nghiệp về qui mô hoạt động tương xứng mà trong
đó, không phải mô hình doanh nghiệp lớn là phù hợp với yêu cầu phát triển
của tất cả. Do vậy, trong cấu trúc hệ thống doanh nghiệp, sự tồn tại, phát
triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như một nội dung tất yếu để hoàn
thiện các loại hình doanh nghiệp theo yêu cầu.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó phát triển các khu
vực kinh tế ngoài nhà nước nhằm tạo tính cạnh tranh, năng động và tạo nền
tảng cho việc thực hiện các nội dung kinh tế - xã hội khác là nội dung cơ
bản của mục tiêu cấu trúc lại cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện của Việt Nam, khi kinh tế tư nhân là thành phần chủ
yếu là của doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc thực hiện nội dung phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần được khởi sự và hoàn thiện bằng chính sự
phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qui mô trình độ phát
triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức độ nào sẽ tạo những điều
kiện:


12

- Thực hiện lại quá trình phân công lao động, phân bổ ngành nghề
kinh doanh các thành phần kinh tế, đặc biệt là tổ chức - sắp xếp lại hệ thống
doanh nghiệp nhà nước.
- Tạo môi trường cạnh tranh từ khả năng linh hoạt, năng động trong
hoạt động của hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo các điều kiện cho các
yếu tố, qui luật thị trường phát huy tác dụng.
Với yêu cầu chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh
tế nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với việc chọn lựa mô hình

tổ chức doanh nghiệp để thực hiện yêu cầu trên. Những điều kiện đặc thù
về vốn, lực lượng lao động dư thừa, khả năng nguồn nguyên liệu để phát
triển công nghiệp dồi dào. Hơn nữa, mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại,
kinh tế hợp tác - những mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
thủy sản hiện nay - chính là mô hình thích hợp với doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn gắn liền với quá trình
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại khu vực này.
Mặt khác, tiến trình đô thị hóa hiện nay ở một số khu vực cũng
được thực hiện và đẩy nhanh tiến độ bằng sự phát triển hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ. ở
những khu vực này, những nhân tố từ quá trình đô thị hóa đã tạo ra những
áp lực rất lớn cho việc chuyển dịch rất nhanh cơ cấu kinh tế để từ đó, tạo
nền tảng thay đổi nội dung xã hội khu vực cho tương ứng với qui chế quản
lý hành chính khu vực đô thị, là một trong những căn cứ định hướng cơ cấu
kinh tế khu vực đô thị.
- Thay đổi cơ cấu lao động, dân cư, từ đó thay đổi ý thức, tập quán,
quan hệ khu vực.


13

- Tạo khả năng chuyển đổi vốn sản xuất - từ vốn nông nghiệp chuyển
sang vốn phi nông nghiệp, tránh tình trạng xuống cấp về kinh tế - xã hội do
không chuyển hợp lý, kịp thời nội dung sản xuất, kinh doanh của khu vực.
Thứ hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự đa dạng các loại hình tổ
chức (công ty, doanh nghiệp, hộ…) sẽ tạo cơ sở đa dạng hóa hình thức đầu
tư, mở rộng và nâng cao khả năng khai thác các nguồn lực, yếu tố sản xuất
cho quá trình phát triển.
Những yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện nay của nền

kinh tế, của các địa phương, khu vực đòi hỏi phải đa dạng hóa các loại hình
khai thác các nguồn lực, yếu tố sản xuất như vốn, lao động, tài nguyên. Bởi
nội dung các nguồn lực đa dạng về hình thức sở hữu qui mô, mức độ nên
để khai thác được các nguồn lực cần đa dạng hóa các hình thức đầu tư, mở
rộng các hình thức đầu tư để mọi đối tượng có khả năng, nhu cầu đầu tư ở
các mức độ khác nhau đều có thể tham gia, thực hiện đầu tư. Do vậy, việc
phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, với sự đa dạng mô hình
tổ chức theo ngành nghề, nội dung hoạt động, qui mô sẽ mở ra các kênh
khác nhau để tổ chức hoạt động sản xuất - kinh doanh theo yêu cầu phát
triển.
Với đặc trưng quá trình đầu tư, xây dựng cơ bản, đầu tư vào hoạt
động chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, việc phát triển các loại hình
doanh nghiệp vừa và nhỏ còn là giải pháp để khắc phục tình trạng suy thoái
kinh tế xảy ra trong khi các giải pháp dựa vào doanh nghiệp lớn không thực
hiện được hoặc chưa kịp phát huy tác dụng. Nói cách khác, đây là một
trong những giải pháp để điều tiết tổng cung, tổng cầu trong nền kinh tế
trên cơ sở phát triển nhanh số lượng, qui mô hoạt động của hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, từ đó nhanh chóng tạo việc làm, thu nhập, nhanh chóng
đưa các nguồn lực vào sản xuất, giải tỏa các áp lực của thị trường tiền tệ,
hàng hóa, lao động v.v… Đặc biệt, việc sử dụng các doanh nghiệp vừa và


14

nhỏ từ đặc trưng khả năng phát huy tác dụng nhanh (do quá trình đầu tư xây dựng - hoạt động ngắn) cũng cần coi như giải pháp tình thế để luôn
nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả, chất lượng sản phẩm dựa vào trình
độ công nghệ cao.
Việc phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được sử
dụng với tính cách như công cụ phản ứng nhanh để tạo nên những chuyển
biến của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian trong quá trình phát

triển trên các nội dung, mục đích sử dụng ưu thế của doanh nghiệp vừa và
nhỏ: Nhỏ - linh hoạt - số đông nhỏ, có hợp lực - qui mô, sản lượng, tác
động lớn. Đó là:
- Điều tiết qui mô việc làm, sản lượng, nền kinh tế.
- Điều tiết áp lực cạnh tranh thị trường về những sản phẩm thuộc
qui định tự do hóa.
- Điều tiết quan hệ cung - cầu.
- Điều tiết các mối quan hệ thị trường trong hệ thống Doanh nghiệp.
Thứ ba, dưới góc độ xã hội, sự phát triển hệ thống doanh nghiệp
vừa và nhỏ góp phần thực hiện, giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong
quá trình phát triển.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là các tổ chức xã hội
nhưng chúng lại giải quyết hữu hiệu các vấn đề xã hội thông qua những nội
dung kinh tế trong hoạt động.
Trước hết, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những mô hình để
chuyển tải các nội dung xã hội vào các hoạt động kinh tế, góp phần thực
hiện phát huy các truyền thống xã hội. ở đây, do đặc điểm các doanh nghiệp
vừa và nhỏ rất gần với gia đình (như một hoạt động trong hoạt động của hộ
gia đình) cho nên hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu ảnh hưởng
rất lớn tập tục, truyền thống, phong cách của mỗi gia đình thông qua sự


15

quan hệ lao động, chủ kinh doanh - chủ hộ, các thành viên trong gia đình.
Do vậy, khả năng tiềm ẩn trong văn hóa gia đình sẽ trực tiếp chuyển tải qua
kết quả kinh doanh, đạo đức kinh doanh và sự sáng tạo sản phẩm. Hơn nữa,
do các sản phẩm của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gắn trực tiếp với
việc thỏa mãn những nhu cầu tiêu dùng về vật chất, tinh thần của các hộ
dân cư, của xã hội trên địa bàn cho nên, việc giữ gìn bản sắc dân tộc cũng

được thực hiện từ chính hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
địa bàn.
Thứ đến, sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn để giải
quyết các vấn đề xã hội phức tạp hiện nay: việc làm, thất nghiệp, thu nhập,
mức sống. Ở đây, ý nghĩa của việc phát triển không chỉ đơn giản là nó tạo
được bao nhiêu việc làm, thu nhập mà cái chính là nó đã tạo cơ hội cho mọi
tầng lớp trong xã hội có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế để giải
quyết những vấn đề của riêng mình cũng như của xã hội. Đây là điều mà
các doanh nghiệp lớn, khó thực hiện được.
Không những thế, sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
tạo ra sự đa dạng, phong phú về các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu cầu
đa dạng và luôn phát triển của xã hội. Đây là các sản phẩm mà chu kỳ sống
ngắn, tính đa dạng, phong phú về chủng loại cao mà trong sự phân công tự
nhiên, sản xuất nó là ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chứ không
phải là các doanh nghiệp lớn. Do vậy, ở một góc độ nhất định, phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ như một giải pháp để xử lý xu hướng chu kỳ sống
sản phẩm ngắn lại và thỏa mãn sự biến động càng ngày càng cao về nhu
cầu sản phẩm xã hội.
1.1.3.2. Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong kinh tế thị trường, sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
vừa giữ vai trò tích cực nhưng đồng thời cũng tạo nên những tác động tiêu
cực đến sự phát triển - đó là mặt trái phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ


16

Những tác động tiêu cực này sẽ tạo ra những nhân tố kìm hãm sự phát
triển, đe dọa sự chệch hướng về mục tiêu, yêu cầu đặt ra cho nó, bao gồm:
Thứ nhất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ mục tiêu hoạt động là lợi
nhuận và những điều kiện hạn chế về tài chính, trình độ quản lý trong rất

nhiều trường hợp, là nguyên nhân dẫn đến sự hủy hoại, tàn phá môi trường,
hệ sinh thái trong quá trình phát triển. Đặc biệt đối với các khu vực đô thị,
tập trung dân cư thì tác động trái này dễ xuất hiện do hầu hết các cơ sở sản
xuất - kinh doanh dịch vụ đầu thường sử dụng nhà mình làm đơn vị sản
xuất kinh doanh. Trong khi cấu trúc của nó là khu dân cư chứ không phải
khu vực sản xuất kinh doanh với những điều kiện cơ sở hạ tầng phù hợp.
Ở đây, việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu dân
cư có thể là một trong những đặc thù tâm lý kinh doanh của người Việt
Nam, nó có nguồn gốc của nó:
- Phát triển trong khu dân cư các doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở
để giảm chi phí các yếu tố sản xuất bỏ ra khi khởi sự và tiến hành các hoạt
động doanh nghiệp, phù hợp với tâm lý kinh doanh của các đơn vị với xuất
phát từ sở hữu tư nhân, sở hữu hộ gia đình. Cho phép:
+ Giảm chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, đất đai, mặt hàng kinh
doanh. Bởi trong nhận thức tài sản kinh doanh đăng ký không có nhà cửa,
diện tích sản xuất vì đó là nơi ở.
+ Sử dụng nhân lực gia đình là lao động, từ đó giảm thiểu các chi
phí cho lao động.
+ Giữ được mối quan hệ xóm giềng, cộng đồng trong hoạt động
kinh doanh của làng nghề của khu vực, đảm bảo sử ổn định, tin tưởng trong
kinh doanh của cộng đồng, xóm giềng.


17

+ Dần hình thành các khu vực trung tâm về một ngành, nghề kinh
doanh nào đó để tạo thị trường tập trung cho mình, nâng cao khả năng cạnh
tranh và vốn vô hình từ giá trị địa lý kinh tế của khu vực.
Sự phát triển như vậy sẽ dần hình thành các khu vực sản xuất, kinh
doanh trong khu vực dân cư một cách tự phát. Các doanh nghiệp chỉ quan

tâm đến công nghệ sản xuất sản phẩm chứ không quan tâm đến công nghệ
bảo vệ môi trường, tất yếu sẽ dẫn đến môi trường ô nhiễm, mặt bằng đất
công cộng bị chiếm dụng cho mục đích sản xuất. Điều này sẽ làm cho phần
chi phí công để giải quyết những hậu quả ô nhiễm do các doanh nghiệp vừa
và nhỏ gây ra có thể lớn hơn rất nhiều những gì các doanh nghiệp làm
được.
Thứ hai, điều kiện khởi sự các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ một mặt
tạo nên khả năng điều chỉnh tăng qui mô số lượng doanh nghiệp rất nhanh,
tạo độ linh hoạt cao song tự bản thân nó cũng chứa đựng và phát sinh
những yếu tố mất ổn định như:
- Điều kiện khởi sự dễ, không tạo được áp lực buộc các chủ doanh
nghiệp phải có tầm nhìn, phương án chiến lược và chuẩn bị đủ những điều
kiện thực hiện phương án, làm cho doanh nghiệp tổ chức hoạt động trong
tâm lý tranh thủ thời cơ phi vụ xuất hiện hoặc theo trào lưu từ sự lây lan
tâm lý. Từ đó, nền tảng đảm bảo sự ổn định không vững, dẫn đến tỷ lệ
doanh nghiệp giải thể thành lập của doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn các
doanh nghiệp lớn rất nhiều. Điều này đã làm tổng cung - tổng cầu trong nền
kinh tế không ổn định, nhiều lúc là giả tạo và từ đó, tạo nên những cú sốc
trong hoạt động của nền kinh tế.
- Điều kiện dễ thành lập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn là
một trong những thủ đoạn được một số cá nhân sử dụng để thực hiện các
quyền lợi kinh tế không hợp pháp.


18

- Với đặc trưng qui mô nhỏ, số lượng đông lại chủ yếu phân bổ ở
các khu dân cư phân tán, khả năng kiểm soát hoạt động toàn bộ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ theo luật là điều khó khăn. Trong điều kiện các doanh
nghiệp thực hiện quyền tự chủ, tự quản trong kinh doanh, cộng với khả

năng khó kiểm soát nêu trên sẽ dẫn đến việc hình thành cơ hội cho các hoạt
động phạm luật trên các lĩnh vực tài chính, thương mại…
- Các hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ gắn bó chặt chẽ với các
vấn đề xã hội, dân cư mà trực tiếp liên quan đến vấn đề việc làm, thu nhập,
mức sống của một bộ phận lớn dân cư, đặc biệt là khu vực đô thị. Do vậy, sự
mất ổn định hoặc những tác động tiêu cực tạo ra từ khu vực này trong trường
hợp diễn ra trên diện rộng sẽ trực tiếp tạo nên sự rối loạn trong việc làm, thu
nhập, mức sống, sinh hoạt xã hội, ảnh hưởng đến các nội dung quản lý xã
hội.
1.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ

1.2.1. Cơ sở khách quan hình thành cơ chế quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động doanh nghiệp trong kinh tế thị trường chịu ảnh hưởng của
các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, thị trường, môi trường kinh
doanh v.v... Nội dung của các quan hệ này, đặc biệt là vai trò của doanh
nghiệp, của thị trường, của Nhà nước trong mối quan hệ sẽ hình thành cơ sở
khách quan để xác định cơ chế vận hành doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
1.2.1.1. Quan hệ giữa thị trường với doanh nghiệp
Thị trường được hiểu dưới các góc độ khác nhau. Dưới góc độ mục
tiêu: Thị trường là nơi thực hiện hành vi mua, bán hàng hóa của các chủ thể
trong xã hội, theo những qui luật và phương thức, hình thức tổ chức nhất
định trong từng thời kỳ của nền sản xuất hàng hóa. Dưới góc độ cấu trúc, thị


19

trường là hệ thống thị trường bao gồm thị trường hàng hóa và thị trường cung
ứng yếu tố sản xuất, có mối quan hệ tác động qua lại thông qua quan hệ giữa

người sản xuất, ngoài tiêu dùng - những nhóm người có những mục đích riêng
cho hành vi của mình, nhưng khả năng thực hiện mục đích của nhóm này
lại tùy thuộc vào những điều kiện của nhóm kia tạo ra. Do đó, hệ thống thị
trường - về mặt cấu trúc, không chỉ bao gồm hai thị trường mà còn bao
gồm mặt định chế tổ chức quan trọng là doanh nghiệp và các cơ sở kinh
doanh.
Trong quá trình lưu thông giữa hai thị trường, doanh nghiệp giữ vị
trí trung tâm. Đối với thị trường hàng hóa - dịch vụ; doanh nghiệp là người
bán hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu người tiêu thụ, đối với thị
trường yếu tố sản xuất, doanh nghiệp là người mua, người sử dụng. Từ đây,
nhiệm vụ của doanh nghiệp trong hệ thống thị trường là: thu hút, sử dụng
các yếu tố sản xuất để tạo sản phẩm, hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu thụ qua thị trường.
Song doanh nghiệp còn là tổ chức kinh tế, có mục đích riêng cho
hoạt động sản xuất của mình - đó là lợi nhuận. Việc thực hiện mục tiêu lợi
nhuận trong kinh doanh của doanh nghiệp không tách khỏi những nhiệm vụ
doanh nghiệp trong hệ thống thị trường mà ngược lại, nằm trong quan hệ
thống nhất. Mục tiêu doanh nghiệp được thực hiện ở mức độ nào là tuỳ thuộc
vào khả năng xử lý vấn đề đầu vào, đầu ra trong hoạt động doanh nghiệp.
Việc xử lý đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của cơ
chế thị trường. Đây là cơ chế điều tiết khách quan hoạt động các doanh
nghiệp tham gia thị trường với nội dung: Cung - cầu hàng hóa là cơ chế
điều tiết hành vi; giá cả, lợi nhuận. là cơ chế phân phối nguồn lực, tạo động
lực trong hành vi và cạnh tranh là cơ chế phát triển, cơ chế tác động thường
xuyên đối với doanh nghiệp.


20

Như vậy, trong kinh tế thị trường, thị trường thực hiện những tác

động mang vai trò chủ thể đối với doanh nghiệp như quyết định phương án
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với nội dung: sản xuất cái gì, thế
nào, cho ai, điều tiết, điểu chỉnh hoạt động doanh nghiệp... Trong mối quan
hệ như vậy, doanh nghiệp cần có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh đầy đủ
để: thứ nhất, khẳng định vai trò chủ sản xuất kinh doanh hàng hoá của
mình và thứ hai, có khả năng tiếp cận, thực hiện những yêu cầu của thị
trường theo những tác động khách quan của cơ chế thị trường.
Sự tác động của cơ chế thị trường đến doanh nghiệp là khách quan
nhưng những nội dung điều tiết của nó lại không có chủ đích, do đó thị
trường tác dộng không phân biệt đối tượng, mang nặng tính ngẫu nhiên, tự
phát. Trước thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn, vừa, nhỏ đều nhận
được điều kiện môi trường kinh doanh như nhau. Doanh nghiệp nào có đủ
năng lực để tranh thủ thời cơ, giải toả rủi ro, áp lực trong môi trường kinh
doanh thị trường, doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển và ngược lại.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với quy mô, trình độ của yếu tố đầu
vào, đầu ra nhỏ, thấp hơn các doanh nghiệp lớn tất yếu không thể có năng
lực kinh tế, kỹ thuật ngang bằng và do vậy, cơ hội để tranh thủ thời cơ, giải
toả áp lực sẽ ít hơn các doanh nghiệp lớn. Do vậy, sự can thiệp của Nhà
nước bằng các nội dung thích hợp để giảm ruỉ ro, nâng cao năng lực kinh
doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết, tất yếu cho quá trình hoạt
động, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong kinh tế thị trường.
Trên đây là nội dung mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường
trong giải quyết các vấn đề kinh tế vi mô doanh nghiệp vừa và nhỏ song
quan hệ này có xuất hiện quan hệ thị trường với vấn đề kinh tế vĩ mô của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới góc độ hệ thống hay không?


21

Hoạt động kinh tế - kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo

chức năng sản xuất - kinh doanh được sắp xếp, phân nhóm theo các ngành
kinh tế - kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân và được phân bổ trên địa bàn,
địa phương, vùng lãnh thổ nhất định. Hơn nữa, mỗi doanh nghiệp lại nằm
trong một lực lượng xã hội, thành phần kinh tế nhất định (tùy theo chế độ
sở hữu) tham gia vào hoạt động của nền kinh tế quốc dân cho nên nội dung
cơ cấu kinh tế của nền kinh tế (bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần
kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế) phản ánh nội dung phân bố các loại hình
doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Do vậy, nội dung hoạt động, vận động,
phát triển của hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ phản ánh trực tiếp nội
dung cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, của nền kinh tế
quốc dân trong từng thời kỳ.
Cơ cấu kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với cơ cấu thị trường, từ
mối quan hệ liên ngành trong quá trình sản xuất xã hội giữa các ngành với
nhau và được thực hiện thông qua vai trò, nội dung hoạt động của hệ thống
doanh nghiệp. Chính điều này đòi hỏi các nội dung chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu thị trường và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải nằm
trong nội dung mục thống nhất.
Sự thống nhất này - sự thống nhất có chủ đích theo các mục tiêu
quản lý - không phải là sự thống nhất ngẫu nhiên, tự phát mà phải là kết
quả của một quá trình chủ động tổ chức, quản lý. Việc hình thành có chủ
đích một mô hình cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng thực hiện được các
nhiệm vụ phát triển chiến lược đặt ra cho quá trình phát triển của nền kinh
tế quốc dân đòi hỏi phải có nội dung tổ chức quản lý phù hợp, đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nội dung tổ chức quản lý này phải đảm bảo hình
thành được hệ thống thị trường theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Song, hoạt động của doanh nghiệp với mục tiêu lợi nhuận, trong điều kiện
chịu sự tác động của những nhân tố không ổn định như giá cả, cạnh tranh


22


lại mang tính chất ngẫu nhiên, tự phát. Tính ngẫu nhiên, tự phát hoạt động
doanh nghiệp sẽ đối lập với yêu cầu phát triển có tổ chức của hệ thống
doanh nghiệp và từ đó, phá vỡ nội dung thống nhất cần thiết về nội dung
biến đổi, chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, cơ cấu thị trường và hệ thống
doanh nghiệp. Do vậy, nội dung vận động các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đặt dưới nội dung tổ chức quản lý của Nhà nước để đảm bảo sự thống
nhất cần thiết đó.
1.2.1.2. Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong hình thái kinh tế - xã hội, trong cơ cấu tổ chức xã hội và
trong cơ chế hiện hành, nhà nước là chủ sở hữu tài nguyên, tài sản công của
nền kinh tế, do vậy tất yếu giữ vai trò chủ thể quản lý cao nhất của nền kinh
tế quốc dân.
Doanh nghiệp là thực thể kinh tế, là tế bào nền kinh tế và do vậy, là
bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế quốc dân. Hoạt động của Doanh
nghiệp là nội dung chính, cốt yếu trong hoạt động của nền kinh tế, quyết
định sự vận động, phát triển của ngành, của địa phương, của cả nền kinh tế
quốc dân. Do vậy, hoạt động doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà
nước, quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp trong kinh tế thị trường là
quan hệ chủ thể quản lý với đối tượng quản lý, dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội, pháp lý nhất định.
Trong kinh tế thị trường, Nhà nước không trực tiếp quản lý doanh
nghiệp ở những nội dung căn bản nhất thuộc ba vấn đề kinh tế mà chỉ tác
động, quản lý quá trình tương tác giữa doanh nghiệp với thị trường và các
nội dung, bộ phận khác của nền kinh tế quốc dân. Đó là nội dung quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp ở tầm vĩ mô, nó xác định đối tượng tác
động căn bản, trực tiếp của Nhà nước là thị trường và thông qua đó, tạo nên
tác động gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Sự tách biệt này không
chỉ để cho nhà nước, doanh nghiệp đều thực hiện đúng vai trò, của mình


23


mà còn là cơ sở để nội dung quản lý nhà nước có hiệu lực, hoạt động doanh
nghiệp đảm bảo tính năng động, hiệu quả cần thiết của nó. Mặt khác, do thị
trường không thể chủ động định hướng các nội dung phát triển doanh
nghiệp, không chủ động các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khi cần thiết
cho nên Nhà nước phải đóng vai trò chủ thể thực hiện các nội dung quản lý
này. Với vai trò trên, các chức năng quản lý nhà nước doanh nghiệp bao gồm:
Thứ nhất: Chức năng định hướng, hỗ trợ hoạt động doanh nghiệp
Nhà nước định hướng hoạt động doanh nghiệp bằng các nội dung,
phương thức, công cụ thích hợp của mình nhằm:
- Phòng ngừa, hạn chế sự không ổn định, kém hiệu quả, xu hướng
tự phát trong nội dung phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể xuất hiện
từ tác động định hướng tự phát của các quan hệ cung - cầu, giá cả cạnh
tranh, lợi nhuận thị trường.
- Đảm bảo xu hướng phát triển ổn định, có hiệu quả của doanh
nghiệp vừa và nhỏ từ những nội dung định hướng chiến lược, chính sách
Nhà nước.
- Đảm bảo xu hướng phát triển phù hợp của hệ thống doanh nghiệp
vừa và nhỏ với xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: Chức năng điều tiết
Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có định
hướng chịu tác động ảnh hưởng rất lớn của thị trường, yếu tố thị trường và
các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không
thoát khỏi xu hướng đó mặc dù, trong chừng mực nhất định, mức độ ảnh
hưởng có khác với các doanh nghiệp lớn và ngay trong hệ thống các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khả năng nắm bắt thời cơ, giải tỏa áp lực giữa các loại
hình vừa và nhỏ cũng có những sự khác biệt nhất định. Mức độ ảnh hưởng


24


lớn đã tạo nên sự ràng buộc về hoạt động, sự vận động của doanh nghiệp
vừa và nhỏ với sự biến đổi thị trường theo những qui luật nhất định của
kinh tế thị trường như qui luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh … Đó là qui
luật biến đổi đồng thời và do vậy, những nội dung biến đổi thị trường, biến
đổi các yếu tố, môi trường kinh tế, tài chính vĩ mô trở thành những nội
dung, lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra
những nội dung tự điều chỉnh các doanh nghiệp và những nội dung này có
thể phù hợp hoặc không phù hợp với yêu cầu định hướng theo nội dung đã
hoạch định.
Do vậy, nhà nước cần tác động điều tiết các yếu tố cung - cầu trên
thị trường theo yêu cầu. Hơn nữa, do các biến động thị trường có thể xảy ra
thường xuyên, trong dự đoán và ngoài dự đoán nên hoạt động điều tiết
cũng diễn ra thường xuyên, trở thành chức năng thường xuyên của hệ
thống cơ quan quản lý nhà nước. Nó đòi hỏi nhà nước phải hết sức nhạy
cảm với thị trường, chủ động dự đoán mọi tình huống để đưa ra giải pháp
điều tiết bằng chính sách, công cụ, trí tuệ nhà nước.
Thứ ba: Chức năng kiểm tra
Nội dung Nhà nước kiểm tra doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm
việc nắm thông tin về hiện trạng hoạt động doanh nghiệp trên các mặt, các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiến hành đối chiếu, so sánh với các tiêu
chuẩn hoạt động theo định kỳ và có những kết luận, đánh giá về thực hiện.
Với nội dung như vậy, kiểm tra là cần thiết đối với hoạt động quản
lý doanh nghiệp vì về phía nhà nước, kiểm tra là cơ sở cung cấp thông tin,
dữ kiện cho thực hiện các chức năng quản lý, kiểm soát mức độ, hợp lý các
quyết định quản lý, đảm bảo trật tự, kỷ cương phép nước và khả năng kiểm
soát, định hướng hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ.


25


Về phía doanh nghiệp, tuân thủ các nội dung kiểm tra một mặt, để
doanh nghiệp tự kiểm tra, đánh giá chính xác kết quả hoạt động, song mặt
khác, chấp hành đúng các nội dung kiểm tra theo luật, qui định cũng là điều
kiện để doanh nghiệp nâng cao trình độ sản xuất, hạch toán của mình.
Thứ tư: Chức năng tạo môi trường, điều kiện kinh doanh cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ bao giờ cũng đặt trong môi
trường, điều kiện kinh doanh nhất định.
Môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường pháp lý, môi trường
xã hội, môi trường kinh tế, môi trường kết cấu hạ tầng cho hoạt động doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường xã hội, phản ảnh thái độ, dư luận, quan điểm của cộng
đồng cư dân về hoạt động doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm:
+ Sản phẩm doanh nghiệp.
+ Phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
+ Quan hệ doanh nghiệp với xã hội…
Môi trường xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung hoạt động
và kết quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó là cơ sở để bổ sung,
điều chỉnh những nội dung hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ mà
pháp luật không điều chỉnh, nó tạo áp lực dư luận để ngăn chặn những hoạt
động xâm hại môi trường, đạo đức, truyền thống xã hội hoặc tạo động lực
khuyến khích sự phát triển doanh nghiệp (trên cơ sở tạo quan tâm xã hội
đến đầu tư doanh nghiệp, sản phẩm doanh nghiệp...). Để tạo động lực, môi
trường xã hội luôn phù hợp với môi trường kinh tế. Nói cách khác, nó tạo
nền tảng xã hội để tạo ra các môi trường kinh tế phù hợp với yêu cầu phát
triển trong từng thời kỳ như: muốn tạo ra thị trường vốn đầu tư cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ cần có lòng tin xã hội đối với hoạt động doanh nghiệp



×