Tải bản đầy đủ (.doc) (201 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế VAI TRÒ của CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG sản và DỊCH vụ đối với sự PHÁT TRIỂN nền NÔNG NGHIỆP HÀNG hóa ở CỘNG hòa dân CHỦ NHÂN dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.8 KB, 201 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) là một nước
nông nghiệp kém phát triển, 80% dân số và 85% lao động xã hội sống và
lao động bằng sản xuất nông nghiệp (NN), NN chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển kinh tế, việc
chuyển nền NN độc canh mang tính chất tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng
hóa (HH) là quá trình có tính tất yếu. Việc thực hiện quá trình này không
thể chỉ dựa vào sự nỗ lực chủ quan của NN, mà luôn đòi hỏi có sự trợ giúp
của công nghiệp (CN) và dịch vụ (DV), trong đó trực tiếp nhất là công
nghiệp chế biến nông sản (CNCBNS) và các hoạt động DV NN. Ngược lại,
sự phát triển của NNHH lại là điều kiện quan trọng để phát triển CNCBNS
và các hoạt động DV liên quan. Thấy được vai trò quan trọng của mối quan
hệ ấy, Đảng nhân dân cách mạng Lào (ĐNDCM Lào) đã xác định: "Để
chuyển kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, ngay từ đầu
hướng đi là phải phát triển nông - lâm nghiệp toàn diện gắn với phát triển
công nghiệp và dịch vụ. Coi nông nghiệp là cơ bản và lấy việc xây dựng
công nghiệp chủ yếu làm trọng điểm; khuyến khích và phát triển mạnh
ngành dịch vụ théo hướng từng bước hiện đại hóa... Đẩy mạnh và khuyến
khích phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nhằm chế
biến sản phẩm nông - lâm nghiệp" [106, tr. 32; 37].
Song, trong những năm qua, tuy ngành CNCBNS và DV ở Lào đã
từng bước phát triển và góp phần khá nhiều vào việc thúc đẩy phát triển
NN, nhưng so với yêu cầu mới của phát triển sản xuất NNHH thì quả thực
là còn ít ỏi. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với CHDCND Lào là việc nâng
cao vai trò của CNCBNS và DV trong quá trình phát triển nền NNHH là



6

vấn đề mang tính cấp thiết bức bách. Cho nên để góp phần làm rõ về mặt lý
luận, thực tiễn và tìm cách giải quyết trong vấn đề này, tác giả chọn đề tài:
"Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát
triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, phát
triển công nghiệp và dịch vụ, cũng như vấn đề chuyển kinh tế tự nhiên, tự
cung, tự cấp lên kinh tế hàng hóa đã có một số công trình khoa học đề cập
đến. Nhưng việc nghiên cứu vai trò, sự tác động của công nghiệp chế biến
nông sản và dịch vụ đối với phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Lào thì
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống.
Liên quan đến vấn đề này ở Việt Nam có một số công trình nghiên
cứu đã được công bố trên sách báo, tạp chí như:
- GS.TS Ngô Đình Giao: Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt
Nam [17];
- PTS Phạm Thị Cần: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc giải
quyết mối quan hệ giữa nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ [2];
- Lê Đoãn Hợp: Công nghiệp dịch vụ gia đình - tiềm năng và triển
vọng [20];
- Nguyễn Văn Tuấn: Dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho hộ tự chủ sản
xuất, kinh doanh để phát triển sản xuất hàng hóa ở đồng bằng Bắc Bộ [55].
Ở CHDCND Lào những vấn đề trên, đặc biệt là những nghiên cứu
trực tiếp giải quyết những vấn đề thực tiễn của Lào trong lĩnh vực này còn
ít và chỉ bắt gặp nhân khi đề cập đến trên một số khía cạnh nào đó, như:
- Khăm Phơi Tha Chọn: Quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và
công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của CHDCND Lào [24];



7

- Công Chắc No Kẹo: Đổi mới quản lý nhà nước nhằm phát triển
ngành công nghiệp trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
CHDCND Lào [3];
- Khăm Pao: Phát triển nông nghiệp Lào theo hướng sản xuất
hàng hóa [44];
- Bun Thi Khưa My Say: Phát triển thị trường nông thôn ở
CHDCND Lào [1];
Do đó, đây là một đề tài độc lập, không trùng với các đề tài luận án
phó tiến sĩ hoặc luận án tiến sĩ đã bảo vệ trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích
Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò
của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển nên
nông nghiệp hàng hóa, từ đó nêu lên những phương hướng và giải pháp chủ
yếu nâng cao vai trò công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ nhằm thúc
đẩy sự phát triển nên nông nghiệp hàng hóa ở Lào trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên luận án đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Phân tích vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ
đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.
- Phân tích thực trạng vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và
dịch vụ trong việc thúc đẩy nền nông nghiệp ở Lào những năm vừa qua.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao vai trò công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa ở Lào trong những năm tới.


8


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và quan điểm của Đảng, Nhà nước Lào về công nghiệp chế
biến nông sản và dịch vụ trong quá trình chuyển kinh tế tự nhiên tự cấp tự
túc sang kinh tế hàng hóa, đặc biệt là quan điểm về sự tác động của công
nghiệp chế biến và dịch vụ đối với sự phát triển nên nông nghiệp hàng hóa.
Luận án sử dụng phương pháp: Phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch
sử, các phương pháp thống kê so sánh, tổng kết từ thực tiễn để nghiên cứu,
cố gắng rút ra những vấn đề mang tính khái quát có ý nghĩa thực tiễn và lý
luận nhằm định hướng cho việc thực hiện vai trò công nghiệp chế biến và
dịch vụ đối với vấn đề phát triển nông nghiệp hàng hóa.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về vai trò tác động
của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ nông nghiệp đối với sự phát
triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở Lào trong khoảng thời gian từ
khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Lần đầu tiên có một công trình nghiên cứu một cách cơ bản và
tương đối có hệ thống về vai trò của NCBNS và DV đối với sự phát triển
nền NNHH ở Lào.
- Làm rõ khái niệm, vai trò của CNCBNS và DVNN đối với sự phát
triển nền NN HH, đồng thời nêu lên những điều kiện cần thiết để phát huy
vai trò của CNCBNS và DVNN đối với nền NNHH.
- Luận án đã khái quát một số bài học kinh nghiệm thành công và
không thành công của một số nước ASEAN, nhất là Việt Nam và Thái Lan
về tác động của CNCBNS và DVNN đối với nền NNHH có thể vận dụng
một cách sáng tạo vào Lào.



9

- Phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến việc
thực hiện vai trò của CNCBNS và DVNN ở Lào; tình hình thực hiện vai trò
của CNCBNS và DV; đối với sản xuất NNHH ở Lào trong những năm vừa
qua. Từ đó đã nêu lên một số vấn đề bức xúc đặt ra để nâng cao vai trò của
CNCBNS và DV đối với sự phát triển nền NNHH ở Lào.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao vai
trò của CNCBNS và DVNN đối với sự phát triển nền NNHH ở Lào trong
những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu và tổ chức thực tiễn góp thêm những căn cứ
khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và phát triển CNCBNS, DV và sản xuất NNHH nói riêng ở
CHDCND Lào
8. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 3 chương, 8 tiết.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ
CỦA CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN VÀ DỊCH VỤ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1. CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN, DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP
VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP

HÀNG HÓA

1.1.1. Quan niệm về công nghiệp chế biến nông sản và vai trò
của nó đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp chế biến nông sản
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất - một
bộ phận cấu thành nên sản xuất vật chất của xã hội. CN bao gồm ba loại
hoạt động chủ yếu: khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên
liệu; sản xuất và chế biến sản phẩm của CN khai thác và của NN thành
nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội;
khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản
xuất và trong sinh hoạt. Để thực hiện ba loại hoạt động cơ bản đó, dưới sự
phân công lao động xã hội trên cơ sở tiến bộ của khoa học và công nghệ,
trong nền sản xuất kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành CN:
khai thác tài nguyên khoáng sản; sản xuất và chế biến sản phẩm và các
ngành CNDV sửa chữa. Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của
toàn bộ quá trình sản xuất CN. Tính chất tác động của hoạt động này là cắt
đứt các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên. Chế biến là hoạt
động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thủy, tạo
ra các sản phẩm trung gian và các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng
trong sản xuất và trong sinh hoạt. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm


11

được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất CN tiếp theo. Sản phẩm cuối
cùng là các sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất CN để đưa vào sử dụng
trong sản xuất hoặc tiêu dùng trong sinh hoạt. Sửa chữa là một hoạt động
không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao
động trong các ngành sản xuất và kéo dài trong thời gian sử dụng của các

sản phẩm dùng trong sinh hoạt. CN sửa chữa là hình thức có sau so với CN
khai thác và chế biến. Lúc đầu các hoạt động này được thực hiện ngay
trong các ngành CN khai thác, chế biến và trong đời sống sinh hoạt của dân
cư, do lực lượng lao động trong các ngành và lĩnh vực đó thực hiện. Sau
đó, do sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành sản xuất,
dịch vụ, do sự phát triển đa dạng hóa của sản phẩm tiêu dùng trong sinh
hoạt, hoạt động sửa chữa được tách thành một ngành chuyên môn hóa DV
sửa chữa có tính chất xã hội.
Từ những nội dung trình bày ở trên, có thể hiểu CN là một ngành
kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các
ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất
kinh doanh thuộc nhiều loại hình khác nhau. Trên góc độ trình độ kỹ thuật
và hình thức tổ chức sản xuất, CN còn được cụ thể hóa bằng các khái niệm
khác nhau như: CN và tiểu thủ công nghiệp; CN lớn; CN vừa và nhỏ; CN
nằm trong NN; CN nông thôn; CN quốc doanh và CN ngoài quốc doanh...
Sự hình thành CN chế biến cho đến thời đại ngày nay là cả một quá
trình diễn biến lâu dài của sự phát triển lịch sử xã hội loài người. Từ xã hội
nguyên thủy đến chủ nghĩa tư bản hiện đại trải qua ba lần phân công lao
động xã hội. Xét trong mối quan hệ phân công lao động xã hội giữa hai
ngành CN và NN, thường trải qua một chu trình bao gồm ba giai đoạn cơ
bản: sản xuất CN ra đời trong NN - một hoạt động nằm trong NN; tách ra
khỏi NN thành ngành độc lập; quay trở lại kết hợp với NN bằng nhiều hình
thức tổ chức, mối liên hệ sản xuất đa dạng ở trình độ hoàn thiện và tiên tiến


12

hơn. Sự phân công lao động xã hội mang lại kết quả công cụ lao động ngày
càng cải tiến, năng suất lao động ngày càng cao, giá trị thặng dư ngày càng
nhiều và sự phát triển các ngành sản xuất kinh doanh, DV ngày càng phong

phú đa dạng như nông lâm hải sản, CN xây dựng, giao thông vận tải,
thương mại du lịch v.v... Sự phân công trong nội bộ ngành CN đã hình
thành và phát triển ngành CN chế biến. Trong tác phẩm về Sự phát triển
chủ nghĩa tư bản ở Nga, Lênin đã nêu:
Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Công
nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi ngành
công nghiệp đó lại chia ra thành nhiều loại nhỏ và phân loại nhỏ,
chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hóa, những sản phẩm đặc
biệt và đem trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác. Như vậy
kinh tế hàng hóa phát triển đưa đến chỗ làm tăng thêm số lượng
các ngành công nghiệp riêng biệt và độc lập; xu hướng của sự
phát triển này là nhằm biến việc sản xuất không những từng sản
phẩm riêng mà cả việc sản xuất từng bộ phận riêng của sản
phẩm; và không những việc sản xuất sản phẩm thậm chí cả từng
thao tác trong việc chế biến sản phẩm thành sản phẩm tiêu dùng,
thành một ngành riêng biệt [31, tr. 21].
Như vậy, do phân công lao động xã hội đã hình thành nên những
ngành riêng biệt trong nền kinh tế, trong đó có ngành CN và do kinh tế
hàng hóa phát triển, số lượng các ngành CN ngày càng tăng và chia thành
nhiều ngành CN nhỏ riêng biệt hơn trong đó có CN chế biến.
Công nghiệp chế biến nông sản là một nhóm ngành chế biến tiến
hành chế biến những nguyên liệu từ NN. Trong nền kinh tế tiểu nông tự
cấp tự túc, việc chế biến nông sản chủ yếu được thực hiện trong phạm vi các
hộ gia đình. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa việc chế biến nông sản
trở thành DV kỹ thuật và được thực hiện cả trong và ngoài các hộ gia đình


13

nông dân và trở thành ngành CNCBNS ở nông thôn. Nguyên liệu và sản

phẩm chế biến rất đa dạng, do đó CNCBNS có nhiều ngành nghề: chế biến
lương thực, cụ thể là lúa, gạo, ngô, khoai, sắn; chế biến thực phẩm như cá,
tôm, thịt, sữa, đường, rượu, dầu thực vật; chế biến rau quả v.v... trong đó
chế biến lương thực chiếm vị trí quan trọng nhất vì chiếm khối lượng lớn,
địa bàn rộng.
Công nghiệp chế biến nông sản là một bộ phận hợp thành của CN
chế biến, thực hiện các hoạt động bảo quản, gìn giữ, cải biến và nâng cao
giá trị sử dụng của nguyên liệu từ NN thông qua quá trình cơ nhiệt - hóa,
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm NN và
đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Qua khái niệm nêu trên, CNCBNS gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Sơ chế và bảo quản. Giai đoạn này được tiến hành
ngay sau khi thu hoạch, nằm ngoài xí nghiệp chế biến, chủ yếu sử dụng lao
động thủ công với phương tiện bảo quản và vận chuyển chuyên dùng. Nó
quyết định mức độ tổn thất sau thu hoạch và chất lượng nguyên liệu đưa
đến xí nghiệp chế biến. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa xác định thứ
hạng sản phẩm ở giai đoạn sau.
- Giai đoạn 2: Chế biến công nghiệp. Giai đoạn này diễn ra trong
các xí nghiệp CN chế biến. Nó sử dụng lao động kỹ thuật cùng với máy
móc thiết bị công nghệ cần thiết. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định mức
độ chất lượng sản phẩm chế biến và mức độ tăng giá trị của sản phẩm.
1.1.1.2. Vai trò của CNCBNS đối với nền NNHH
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quốc dân, một trong những bộ
phận chủ yếu của sản xuất vật chất, sản xuất lương thực thực phẩm cho xã
hội và nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến. NN theo nghĩa hẹp
bao gồm hai ngành: trồng trọt và chăn nuôi, song theo nghĩa rộng bao gồm


14


cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trong nền kinh tế tự nhiên NN chiếm
vị trí thống trị, sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên, sản xuất chủ yếu là để tiêu
dùng. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tự nhiên là lực lượng sản xuất hết sức
thấp kém, lạc hậu, công cụ lao động thủ công. Nói chung làm không đủ ăn.
Nền NNHH là nền sản xuất NN mà sản phẩm được sản xuất ra không chỉ
để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà trao đổi mua bán là chính. Trong NN,
việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với các quá trình kinh tế mà
cũng gắn liền với các quá trình tự nhiên của tái sản xuất.
CN và NN có quan hệ với nhau rất khăng khít. CN có nhiệm vụ của
CN, NN có nhiệm vụ của NN, mỗi ngành sản xuất ra những sản phẩm khác
nhau và đáp ứng những yêu cầu khác nhau của nền kinh tế song hai ngành
phát triển không tách rời nhau mà có quan hệ với nhau rất hữu cơ, ngành
này phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy ngành kia phát triển và ngược lại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ví CN và NN như "hai chân của con người",
"hai chân của nền kinh tế", "hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ
nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích" [40, tr. 215].
NN là cơ sở của CN, NN phát triển không những giải quyết nhu cầu
lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, tạo nguồn cung cấp nguyên liệu
cho CN mà còn tạo ra hàng nông sản xuất khẩu để tích lũy ngoại tệ, nhưng
NNHH không thể phát triển mạnh nếu không có sự tác động của CN và
trực tiếp nhất là CNCBNS. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp sản xuất để
tiêu dùng là chủ yếu. Khi chuyển sang nền NNHH sản xuất ra sản phẩm là
để bán mà muốn bán được sản phẩm và bán được giá cao thì phải thông
qua chế biến. Sự phát triển các ngành CNCBNS sẽ tạo thị trường tiêu thụ
các sản phẩm NN, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động, chuyển đổi cơ cấu NN theo hướng công nghiệp hóa NN nông
thôn, làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Chính sự phát triển của CN chế biến,
sự tác động của CNCBNS vào nên NNHH tạo cơ sở giải quyết những vấn



15

đề xã hội, nâng cao trình độ dân trí... là mục tiêu của quá trình phát triển,
song cũng là cơ sở xã hội của quá trình phát triển CN. Vai trò của
CNCBNS đối với nền NNHH thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, CNCBNS là nhân tố có ý nghĩa quan trọng đến sự
phát triển nền NNHH có hiệu quả
Tính chất tự nhiên của nông sản là những sản phẩm tươi sống rất dễ bị
hư hỏng. Nông sản thường đạt khối lượng lớn vào mùa thu hoạch. Muốn bảo
đảm và giữ được chất lượng cần phải chế biến hoặc tiêu thụ ngay. Lúa phải
làm khô ngay, nếu không sẽ bị nẩy mầm hoặc ảnh hưởng đến chất lượng gạo
khi xay xát. Tôm cá nếu không ướp, làm đông lạnh, chế biến sẽ bị ươn thối.
Vật nuôi đến thời kỳ phải thu hoạch để bán, nếu ế đọng, chi phí đầu vào sẽ
tăng lên, dẫn tới kém hiệu quả kinh tế. Theo FAO (Tổ chức Nông nghiệp và
Thực phẩm của Liên Hợp Quốc) đánh giá tỷ lệ hao hụt lương thực ở các nước
đang phát triển sau khi thu hoạch thường là từ 15-30% [45, tr. 36]. Ở Việt Nam
"nếu tính mức hao hụt đối với lúa là 13-15%, rau quả 25 - 30%" [38, tr. 24]. Ở
CHDCND Lào, từ sản xuất đến tiêu dùng hao hụt rất lớn, vì địa hình cách
trở, kỹ thuật thấp kém. Với đặc tính như vậy, vào mùa thu hoạch giá cả các
loại nông sản thường dễ bị ép giá khi bán, người nông dân phải gánh chịu
nhiều thiệt thòi. Sau sự thiệt thòi đó, dễ làm cho người nông dân chuyển
sang trồng loại cây khác hoặc lĩnh vực sản xuất khác do sự điều tiết của
quy luật kinh tế hàng hóa, và điều đó chính là một trong những nguyên nhân
gây mất ổn định trong sản xuất nông sản hàng hóa.
CNCBNS có mối quan hệ gắn bó và tác động qua lại với sản xuất
NN, hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sản xuất NN phát triển khối
lượng, chủng loại nông sản nhiều, đa dạng tạo điều kiện cho CNCBNS hoạt
động thường xuyên. Ngược lại, CNCBNS góp phần nâng cao hiệu quả của
sản xuất NN, tạo điều kiện thúc đẩy NNHH phát triển. CNCBNS được coi



16

như bà đỡ cho phát triển nền NNHH trong thời kỳ công nghiệp hóa, là
hướng quan trọng để nâng cao hiệu quả khai thác thế mạnh tài nguyên.
Vai trò có ý nghĩa quan trọng của CNCBNS đối với sự phát triển
nền NNHH thể hiện như sau:
1- CNCBNS tiêu thụ nguyên liệu chủ yếu từ NN. Những nguyên liệu
đó là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của CN chế biến nông sản
CNCBNS rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, về trình độ kỹ
thuật công nghệ, mức độ chế biến, về sở hữu. Sản phẩm của CNCBNS
được nhiều người sử dụng, ngày càng trở thành sản phẩm thiết yếu của con
người. CNCBNS gắn bó rất mật thiết với NN, nguyên liệu chính chiếm tỷ
trọng cao trong giá trị sản phẩm của CNCBNS (thường từ 70-80% giá
thành sản phẩm) là những sản phẩm của ngành NN và hầu hết được sản
xuất trong nước. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu của CNCBNS
phụ thuộc rất lớn vào quy mô tính chất và trình độ phát triển của sản xuất
NN. Nhưng mặt khác, do việc chế biến các sản phẩm của NN nên
CNCBNS lại là ngành đảm bảo đầu ra cho sản xuất NN, tạo động lực cho
sản xuất NN phát triển. Vì sản phẩm NN khó bảo quản, dễ bị thối nát, hư
hỏng nên sự phát triển của nó chỉ có thể được đảm bảo vững chắc nếu tổ
chức được cả hệ thống các cơ sở CN sơ chế và tinh chế.
Một khi đầu ra cho hàng hóa nông sản được bảo đảm ổn định sẽ là
chất kích thích mạnh đối với người sản xuất, nông dân tìm cách tháo gỡ các
khó khăn tăng cường sản xuất. CNCBNS càng phát triển đòi hỏi những
nguyên liệu càng nhiều và có chất lượng cao. Sự chuẩn hóa nguyên liệu để
chế biến sản phẩm chất lượng cao trở thành yêu cầu đòi hỏi phải ứng dụng
công nghệ mới vào sản xuất NN, đồng thời nó cũng đòi hỏi người sản xuất
mạnh dạn chuyển sang nuôi trồng chuyên canh, chuyên con trên cơ sở đó
nâng cao năng suất, chất lượng sản lượng hàng hóa trong NN tạo điều kiện

thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa phát triển.


17

Chính sự tác động nêu trên của CNCBNS sẽ thúc đẩy nền NNHH
phát triển mạnh hơn.
2- Công nghiệp chế biến nông sản làm cho nông sản hàng hóa tăng
giá trị và đa dạng hóa giá trị sử dụng
Đặc trưng chủ yếu của nền NN tự nhiên, tự cấp tự túc là hầu hết
những sản phẩm do NN sản xuất ra được tiêu dùng dưới dạng thô trong
từng hộ gia đình. Số còn lại được sơ chế bằng phương pháp thủ công lạc
hậu nên giá trị thấp và chủng loại giá trị sử dụng cũng rất ít. Do đó để nâng
cao hiệu quả sản xuất NN, phát triển NNHH, cần phải phát triển CNCBNS
nhằm làm tăng giá trị và đa dạng hóa giá trị sử dụng các sản phẩm NN.
CNCBNS tạo điều kiện để NN phát triển thuận lợi qua việc nâng
cao hiệu quả kinh tế của sản xuất NN, từ đó tăng khả năng tích lũy, tăng
khả năng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hóa quá trình sản xuất
NN. Tác động này trước hết thể hiện ở chỗ: "Sau khi đưa vào chế biến, giá
trị của nông sản tăng lên rất nhiều. Theo tính toán của các chuyên gia
trong ngành, sau khi tinh chế giá trị của nông sản có thể tăng từ 4 - 10 lần so
với giá trị lúc chưa chế biến" [17, tr. 18]. "Tính ra một tấn cà phê hòa tan
trên thị trường quốc tế có giá trị bằng 10 tấn cà phê hạt, trong khi đó chỉ
cần 3 đến 4 tấn cà phê hạt đã chế biến được 1 tấn cà phê hòa tan. Một tấn
hạt điều thô bán được khoảng 800 USD, nhưng qua chế biến bán tới 4.800
USD" [45, tr. 136].
Sự tăng thêm số lượng và giá trị của nông sản đã góp phần làm tăng
thêm GDP trên đầu người, làm cho cuộc sống của người dân có cải thiện hơn.
Qua chế biến, từ một sản phẩm nông nghiệp, có thể tạo ra nhiều loại
sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc

tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm của NN, từ đó nâng cao


18

mức độ và mở rộng thêm khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Cây mía qua chế biến, ngoài sản phẩm chính là đường, còn tạo ra những
sản phẩm sau đường như: sử dụng mật rỉ vào công nghiệp lên men làm mì
chính, cồn, sử dụng bã mía đốt lò sản xuất điện, giấy, ván ép..., bánh kẹo
các loại. Cao su qua chế biến tạo ra sản phẩm đa dạng như vỏ và ruột bánh
xe, găng tay y tế, rôn chịu nhiệt...
Chính CNCBNS tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm
giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng
các sản phẩm NN. Sự phát triển của CNCBNS còn làm tăng cầu về sản
phẩm của NN. Việc đó cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để NNHH phát triển
mạnh mẽ hơn.
Sự tác động của CNCBNS đã làm tăng giá trị và giá trị sử dụng của
sản phẩm NN thúc đẩy nâng cao hiệu quả kinh tế NN.
Thứ hai, CNCBNS góp phần giải quyết lao động dư thừa trong NN
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những mục
tiêu cơ bản của nhiều nước. Việc phát triển CNCBNS sẽ góp phần rất quan
trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động ở nông
thôn, đặc biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ở ngay
nông thôn. Ý nghĩa của điều này bắt nguồn từ sức ép giải quyết việc làm
cho lao động nông nhàn ở nông thôn (đặc biệt là trong các thời gian sau
mùa vụ và giữa hai mùa vụ).
CNCBNS được trang bị kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại
thì số lao động trực tiếp cần sử dụng trong các cơ sở chế biến ngày càng
giảm. Nhưng sự tăng lên năng lực sản xuất của chế biến lại đòi hỏi số
lượng lao động ngày càng nhiều hơn ở các khâu sản xuất và khai thác

nguyên liệu, cung ứng vật tư, thiết bị và các lĩnh vực DV khác kể cả lưu
thông tiếp thị.


19

Mặt khác, quá trình phát triển CNCBNS là quá trình phân công lại
lao động giữa NN và CN. Số lao động dôi ra trong NN sẽ chuyển sang lĩnh
vực chế biến, bảo quản, vận chuyển và các DV khác. Các ngành CNCBNS
không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, không đòi hỏi công nghệ phức tạp, nhưng nó
có khả năng thu hút được nhiều lao động và tạo ra tích lũy lớn.
Yêu cầu giải quyết việc làm cho một đội ngũ lao động khá đông đảo
đang được đặt ra một cách cấp bách. Trong bối cảnh đó, nếu phát triển
mạnh được CNCBNS với quy mô, tốc độ, cơ cấu, trình độ, tính chất thích
hợp thì có thể tạo nhiều việc làm cho người lao động, huy động được các
nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân, vừa phát huy được truyền thống, tay
nghề của người lao động, vừa tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, vừa khai
thác được lợi thế của tất cả các vùng, vừa phục vụ tốt nhu cầu nội địa, vừa
tăng cường được lượng hàng xuất khẩu và nâng cao thêm khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Sự tác động của CNCBNS tạo ra nhiều việc làm cho người lao động
từ lĩnh vực sản xuất nguyên liệu, vận chuyển, chế biến, bảo quản, tiêu thụ
đã làm giảm bớt sức ép về lao động dư thừa ở nông thôn. Trong bối cảnh ở
nước Lào hiện nay, việc phát triển CNCBNS không chỉ đơn thuần là vấn đề
kinh tế mà còn là vấn đề an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
Thứ ba, CNCBNS góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn
Do tính đồng bộ và liên ngành cao, việc phát triển CNCBNS không
chỉ đem lại hiệu quả cao cho bản thân ngành này mà còn tạo ra phản ứng
dây chuyền trong nền kinh tế quốc dân. Nó thúc đẩy và tạo điều kiện cho

sự phát triển của các ngành có liên quan, từ NN cho tới các ngành CN cơ
khí, CN bao bì...


20

Các nước NN trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung
và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng bước đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng là
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế NN, nông thôn. Công nghiệp hóa NN
và nông thôn đang đặt ra vấn đề kết hợp giữa sản xuất và chế biến, giữa
trồng trọt chăn nuôi và ngành nghề; giữa thâm canh và mở rộng kinh doanh
tổng hợp. Trong đó gắn sản xuất với chế biến đa dạng ngành nghề là con
đường tốt nhất để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển.
Kinh nghiệm thế giới cũng như trong khu vực cho thấy nếu chỉ có
thuần nông, không gắn NN với CN, nhất là công nghiệp chế biến và phát
triển mạnh ngành nghề ở nông thôn thì nông dân không thể giàu có.
Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN cũng bao hàm việc phát
triển NN gắn với CN chế biến trong nông thôn mà trước hết là chế biến
nông sản.
Công nghiệp chế biến trong đó có CNCBNS tác động đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN không chỉ là sự chuyển dịch trong các
ngành
nông, lâm, ngư nghiệp mà còn bao hàm việc mở rộng ngành CN và dịch
vụ, đồng thời kéo theo sự phát triển các ngành kết cấu hạ tầng như: giao
thông vận tải, bưu điện, điện lực... dẫn đến hình thành cơ cấu kinh tế mới là
DV - CN - NN.
Sự tác động của CNCBNS vào lĩnh vực NN gắn với quá trình tổ
chức và phân công lại lao động tạo nên nhiều ngành nghề ở nông thôn. Sự
phân công lao động xã hội ngày càng tiến bộ làm cho ngành nghề trong
nông, công nghiệp ngày càng phong phú đa dạng, tất yếu đòi hỏi ngành

thương mại và DV phát triển để phục vụ nhu cầu sản xuất của nông, công
nghiệp, đồng thời phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao
động.
Thứ tư, CNCBNS góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu


21

Trong nền kinh tế mở, sự phát triển của công nghiệp chế biến là con
đường có hiệu quả làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Vai trò này của công
nghiệp chế biến lại càng quan trọng đối với các nước kém phát triển mà
nguồn thu nhập ngoại tệ vẫn chủ yếu dựa vào xuất khẩu nguyên liệu thô.
Thực tế ở một số nước đã cho thấy xuất khẩu thô là thua thiệt. Người sản
xuất chuối ở Ma-lai-xia cách đây hơn 10 năm chỉ nhận được khoảng 12%
giá chuối bán ở thị trường I-ta-lia.
Trên thị trường quốc tế, xuất khẩu sản phẩm thô nguyên dạng chỉ là
giải pháp tạm thời, bởi vì giá bán thấp và không ổn định, điều kiện thương
mại bất lợi, thế mạnh thuộc về người có vốn, tài nguyên bị cạn kiệt dần,
môi trường bị ô nhiễm và hệ sinh thái bị mất cân bằng. Trên thế giới cho
thấy không một nước nào giàu có và tăng trưởng bền vững chỉ nhờ xuất
khẩu thô mà không xây dựng công nghiệp chế biến.
Sản phẩm của CNCBNS đã được xuất khẩu ra nước ngoài, mang lại
một nguồn ngoại tệ khá lớn, góp phần giảm bớt sự mất cân đối giữa xuất
khẩu và nhập khẩu, gián tiếp góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, giữ và ổn
định thị trường truyền thống và khai thác các thị trường mới. Mặt khác, do
tác động của chính sách kinh tế mở cửa, người nước ngoài vào ngày càng
nhiều, nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng này và một bộ phận dân cư
có liên quan trực tiếp với họ ngày một tăng lên và đa dạng hơn. Nếu
CNCBNS phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao và đa dạng
đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì có thể tăng lượng sản phẩm CNCBNS xuất

khẩu tại chỗ một cách đáng kể và có hiệu quả.
Sự phát triển CNCBNS góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu để
tích tụ vốn nhằm nhanh chóng mở rộng quy mô và nâng cao trình độ sản
xuất trong nước, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập, tăng khả năng nhập
vật tư, thiết bị để tạo ra hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, chất lượng


22

cao, có sức cạnh tranh mạnh cả thị trường nội địa và thị trường thế giới,
nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Chính CNCBNS tạo
khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố
thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm NN, sự phát triển
của CNCBNS còn làm tăng cầu về sản phẩm của NN.
Như vậy, CNCBNS vừa có vai trò trực tiếp và vừa có vai trò gián
tiếp tới sự phát triển NNHH, tạo ra cầu nối giữa CN và NN, là khâu đột phá
để công nghiệp hóa hiện đại hóa NN và nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi
để nền NNHH phát triển mạnh mẽ hơn.
1.1.2. Quan niệm về dịch vụ nông nghiệp và vai trò của nó đối
với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
1.1.2.1. Quan niệm về dịch vụ sản xuất nông nghiệp
Xét theo nghĩa hẹp và nguồn gốc của từ thì DV là một công việc mà
hiệu quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, như vận
chuyển, cung cấp nước, khí đốt, điện, bảo dưỡng và sửa chữa xe cộ, máy
móc v.v... Theo C. Mác, DV là hàng hóa, "cũng như các hàng hóa khác, có
giá trị sử dụng, đồng thời có giá trị trao đổi" [37, tr. 533]. Theo nghĩa rộng
và hiện đại, DV là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của
chúng không tồn tại dưới hình thái vật thể. Đó là các hoạt động thương
nghiệp, vận tải, bưu điện, tài chính, tín dụng, ngân hàng, cung ứng vật tư, y
tế, giáo dục, tư vấn thông tin v.v... Các hoạt động này đã phát triển thành

những ngành độc lập, có vai trò và chức năng riêng trong nền kinh tế và
trong đời sống xã hội. Như vậy, DV xét từ góc độ cơ cấu tổ chức của nền
kinh tế là một lĩnh vực bao gồm nhiều ngành, nhiều bộ phận trong nền kinh
tế quốc dân. Dịch vụ giúp cho các chủ thể sản xuất thực hiện quá trình sản


23

xuất và tái sản xuất một cách thuận lợi hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn và
đáp ứng tốt hơn những nhu cầu sinh hoạt ngày càng phong phú của con người.
Do vậy, có thể định nghĩa một cách chung nhất: DV là những hoạt
động lao động mang tính chất xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không
tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả
hơn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người. DV là lĩnh vực "mở",
nó thay đổi, phát triển tùy thuộc vào sự phát triển sâu rộng của phân công
lao động xã hội, của những tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ cho sản
xuất, đời sống con người. DV không bao gồm những hoạt động lao động
nhằm mục đích tự phục vụ cho quá trình sản xuất của chủ thể sản xuất tự
phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt của một người nào đó.
Dịch vụ có những đặc điểm sau đây khác với hàng hóa thông thường:
- Là sản phẩm vô hình có thể cảm nhận, nhưng không tách riêng
ra được.
- Việc sản xuất và tiêu dùng DV diễn ra đồng thời, sản xuất đến đâu
tiêu dùng đến đấy, không tiêu dùng sẽ bỏ phí vì sản phẩm DV không có
khả năng lưu kho, để dành, tích trữ làm phần đệm để điều chỉnh sự thay đổi
thất thường của nhu cầu thị trường như các hàng hóa thông thường. DV
thường không mang hình thái độc lập, kể cả trong trường hợp nó có tính
chất sản xuất vật chất, nó hòa nhập hay gắn liền với một sản phẩm hay một
giai đoạn nào đó. Tất cả các DV có ích đều được thực hiện đồng thời với
quá trình sản sinh ra nó. Cho nên lao động DV mang tính xã hội hóa cao.

- Dịch vụ bị giới hạn bởi công suất cho phép nên phải điều tiết để
thường xuyên tận dụng tối đa công suất một cách có hiệu quả nhất.
- Có nhiều DV không đòi hỏi nhiều vốn, vốn lớn, không cần có tổ
chức cồng kềnh... nhưng lại có nhiều DV lại gắn liền với sự phát triển đồng


24

bộ nhiều ngành kinh tế, đòi hỏi kết cấu hạ tầng đồng bộ về giao thông,
thông tin liên lạc, điện, nhà ở phải đi trước một bước.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, DV sản xuất NN còn mang
những nét riêng do đặc trưng của sản xuất NN chi phối. Đối tượng của sản
xuất NN là cây trồng, vật nuôi. Sản xuất NN là hoạt động nhằm khai thác
sức sản xuất của cây trồng và vật nuôi thông qua việc tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho chúng phát triển ở một địa bàn rộng. Trong môi trường
thiên nhiên phức tạp và thường xuyên thay đổi.
Trong trồng trọt những DV chủ yếu là: làm đất, cung ứng giống cây
trồng, tưới, tiêu nước, cung ứng vật tư, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, tiêu
thụ nông sản, cho vay vốn... các DV này trước hết mang những nét chung
của dịch vụ, đồng thời còn mang những đặc điểm riêng sau đây:
Một là, DV sản xuất NN vốn là những khâu của quá trình sản xuất
được tách riêng ra. Người trồng lúa tự túc, tự cấp bản thân họ vừa sản xuất
vừa tự phục vụ quá trình sản xuất của mình. Hợp tác xã NN với tư cách là
một đơn vị sản xuất theo kiểu tập trung - trước đây cũng tự đảm bảo các
khâu phục vụ cho sản xuất ít cần đến DV. Nhưng để sản xuất hàng hóa, hộ
với tư cách là đơn vị tự chủ sản xuất, kinh doanh, có những hạn chế về vốn,
vật tư kỹ thuật, khả năng ứng phó với diễn biến phức tạp của thời tiết, sâu
bệnh, nên nhu cầu về DV tăng lên. Tuy vậy người nông dân chỉ sử dụng
DV chừng nào họ không thể tự đảm nhiệm được, hoặc DV đưa lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.

Hai là, DVNN gắn với sự khai thác và sử dụng tiềm năng sinh vật.
Do đó, tính thời vụ rất khắt khe. Đối với cây lúa, trong một chu kỳ sinh
trưởng nhu cầu dinh dưỡng rất khác nhau. Mỗi giống lúa cũng có nhu cầu
về các điều kiện nước tưới, tiêu, phân bón, thời vụ gieo cấy không hoàn


25

toàn giống nhau. Vì thế DV tốt là một yếu tố quan trọng làm tăng năng suất
cây trồng.
Ba là, thời tiết khí hậu có tác động mạnh mẽ tới hoạt động DV. Sản
xuất NN chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời tiết và khí hậu. Vì vậy nhu cầu sử
dụng DV của người sản xuất NN cũng thay đổi tùy theo diễn biến của thời
tiết, khí hậu.
Dịch vụ NN là những điều kiện, những yếu tố cần thiết, hoặc cần có
cho một quá trình sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm nào đó trong NN
mà người sản xuất không có sẵn, không thể làm được hoặc nếu tự làm thì
không có hiệu quả, vì vậy họ phải tiếp nhận các điều kiện, các yếu tố đó từ
bên ngoài bằng những cách thức khác nhau như: mua, bán, trao đổi, thuê,
nhờ....
Hoạt động DVNN: là hoạt động nhằm cung ứng, trao đổi, tiếp nhận
và sử dụng các DV người sản xuất NN và người cung cấp DV theo một
phương thức nhất định nào đó. Hoạt động DV có tính chất sản xuất hoặc
liên quan đến quá trình sản xuất trong NN như: các loại công việc làm đất,
cung ứng giống, nước tưới, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thu hoạch,
chế biến, thông tin, thị trường, tiêu thụ sản phẩm...
1.1.2.2. Vai trò của DVNN đối với sự phát triển nền NNHH
Trong nền kinh tế NN tự cấp tự túc, người nông dân sản xuất ra sản
phẩm là nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của họ. Hầu hết nhu cầu cho sản
xuất và tiêu dùng cá nhân được tính toán và thỏa mãn chỉ trong phạm vi

kinh tế gia đình: chọn giống cho vụ sau ngay từ sản phẩm đã được thu
hoạch vụ này; phân bón là phân chuồng do chăn nuôi gia đình đem lại hoặc
là do phân xanh tự trồng hay tự kiếm; trừ sâu bằng giăng đèn bắt bướm;
làm đất bằng sức kéo trâu bò tự nuôi, lợi dụng mưa nắng của thiên nhiên để
tưới, tiêu. Người nông dân ít nghĩ đến sử dụng các điều kiện sản xuất ngoài


26

gia đình mình. Sản xuất và tái sản xuất gần như khép kín trong phạm vi gia
đình nên người nông dân không có các điều kiện để tiếp thu khoa học kỹ
thuật, dựa vào kinh nghiệm và sự thuận hòa của thời tiết là chính. Hiệu
quả và năng suất lao động rất thấp, nông sản hàng hóa rất ít, sức mua hạn
hẹp. Như vậy, trong nền NN tự cấp tự túc người nông dân ít hoặc không
biết đến những thành tựu khoa học và công nghệ, hầu như không tiếp xúc
với thị trường, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng hạn hẹp, kết quả sản xuất chủ
yếu trông chờ vào thiên nhiên nên hầu như không có nhu cầu DV sản
xuất NN.
Trong nền NNHH, người nông dân sản xuất ra sản phẩm không chỉ
để tự tiêu dùng mà chủ yếu là để trao đổi mua bán. Sản xuất kinh tế hàng
hóa hình thành và phát triển theo những quy luật vốn có của nó như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và các phạm trù
kinh tế: giá cả, hàng hóa, tiền tệ, giá trị, cạnh tranh, lợi nhuận và các phạm
trù kinh tế đòi hỏi chủ thể tham gia nền kinh tế phải năng động, linh hoạt
tìm mọi cách để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt so với lao động xã hội
cần thiết có thể bù đắp được chi phí và có lãi. Mặt khác, để không bị phá
sản, để đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất
luôn tìm cách tiết kiệm lao động (cả lao động sống và lao động quá khứ).
Muốn vậy họ phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học - kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, cải tiến

chất lượng, mẫu mã, chủng loại hàng hóa, nhanh chóng đưa ra thị trường
những hàng hóa thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đặc điểm của
sản xuất NN mang tính thời vụ, diễn ra trong một không gian rộng lớn, đối
tượng của nó chịu sự tác động trực tiếp của khí hậu thời tiết... Cho nên để

nhiều sản phẩm NN với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường
phải có sự tác động của dịch vụ. Dịch vụ đầu vào, đầu ra và DV quá trình


27

sản xuất sẽ làm cho quy mô sản xuất được mở rộng, năng suất lao động
được nâng cao...
Dịch vụ NN có vai trò rất quan trọng thúc đẩy nền NNHH phát
triển, nó thể hiện như sau:
Thứ nhất, góp phần mở rộng quy mô sản xuất, làm tăng năng suất
lao động
Dịch vụ đầu vào và DV quá trình sản xuất là nhân tố rất quan trọng
không thể thiếu được đối với sự phát triển nền NNHH. Dịch vụ đầu vào và
DV quá trình sản xuất gồm có: DV vốn, giống, làm đất, thuốc trừ sâu, thú
y, thủy lợi, bảo vệ thực vật... Giống, phân hóa học, thuốc trừ sâu là những
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng cây trồng. Dịch vụ bảo
vệ thực vật là một trong những DV rất quyết định đến năng suất cây trồng,
nó vừa mang tính chất tự nguyện, vừa có tính chất bắt buộc cần thiết trong
quá trình sản xuất.
Đối tượng sản xuất NN là những sinh vật sống, chúng sinh trưởng
và phát triển theo quy luật riêng, đồng thời chịu tác động ảnh hưởng lớn
của môi trường thiên nhiên. Nếu có sự tác động từ phía con người giúp cho
chúng sinh trưởng và phát triển tốt. Đặc biệt trong trồng trọt, năng suất cây
trồng phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố vật chất như: giống, phân bón, nước,

thuốc trừ sâu... năng suất cây trồng cũng phụ thuộc nhiều vào việc đảm bảo
cung ứng đầy đủ, kịp thời các yếu tố "đầu vào" đó cho sản xuất.
Trong những biện pháp sinh học và hóa học nhằm nâng cao năng
suất cây trồng và vật nuôi hiện nay ngoài việc bón phân hữu cơ và hóa học,
bảo vệ cây trồng, việc chọn giống cây trồng có hiệu quả sinh vật cao đóng
một vai trò quan trọng. Theo các chuyên gia lương thực của Liên Hợp
Quốc, hạt giống là sinh vật có thể bị biến hóa về di truyền và những biến
đổi khác. Do đó việc duy trì các đặc tính di truyền và phẩm chất hình thể
tự nhiên đòi hỏi những thủ tục được xác định rõ ràng và được kiểm tra


28

từ khâu lai tạo đến gieo trồng. Do NN phát triển, do nhu cầu tăng sản lượng
và ổn định năng suất cây trồng nên người sản xuất NN thường xuyên có
nhu cầu sử dụng các giống mới có khả năng thâm canh cao, có ưu thế trong
việc khắc phục các tác động tiêu cực của thời tiết, sâu bệnh. Chính vì vậy
sản xuất giống trên quy mô rộng lớn, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật là hết
sức cần thiết. Điều này từng người sản xuất NN không thể tự thực hiện
được, phải có DV giống có năng suất cao mới đáp ứng được nhu cầu đó.
Sử dụng phân bón nhất là phân hóa học cùng với các yếu tố khác
như giống, tưới tiêu là một trong những biện pháp kỹ thuật có hiệu quả để
tăng năng suất cây trồng. Viện nghiên cứu Lúa quốc tế (1983) đã tính phần
đóng góp của các yếu tố vào việc tăng sản lượng lúa từ 1965 đến 1980 ở
các nước Đông Nam Á như phân bón đóng góp vào tăng sản lượng lúa từ
10,6% đến 30,8%, giống mới từ 7,6% đến 34,9% [53, tr. 39]. Trên thế giới
phân bón được sử dụng rộng rãi. Mặt khác, với yêu cầu kỹ thuật thâm canh,
chủng loại phân, số lượng từng chủng loại, thời gian bón không thể tùy tiện
mà phải phù hợp với từng loại đất, từng thời vụ, từng loại giống. Kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ rằng, người sản xuất tự lo việc cung ứng phân

bón không có hiệu quả bằng việc sử dụng DV cung ứng phân bón, hơn nữa
người sản xuất không đủ khả năng để làm việc đó. Dịch vụ phân bón tốt sẽ
làm cho năng suất lao động tăng lên.
Trong sản xuất NN, cây trồng vật nuôi còn mang tính cộng đồng,
sống theo quần thể lớn, chịu sự tác động qua lại lẫn nhau kìm hãm hoặc
thúc đẩy nhau cùng phát triển. Một thửa ruộng bị sâu, rầy nếu không được
phát hiện và trừ kịp thời, nhất định sẽ lây lan sang ruộng xung quanh, có
khi thành dịch lớn, làm hư hại cả một vùng, một cánh đồng, nhất là đối với
cây lúa. Một con trâu bị bệnh dịch, không được điều trị kịp thời, chắc chắn
sẽ lây lan ra cả làng, cả khu vực trở thành dịch lớn. Vì thế nếu làm DV thú
y, DV bảo vệ thực vật tốt sẽ giải quyết được những vấn đề trên. Bảo vệ


29

thực vật là một khâu yêu cầu kỹ thuật cao, không phải ai cũng có khả năng
làm việc này và giao cho nông dân tự làm sẽ có nhiều điều bất lợi: nhiều
nông dân không đủ trình độ xác định được bệnh và loại sâu hại lúa; không
phân biệt được thuốc thật, thuốc giả; có thuốc rồi không biết pha chế đúng
liều lượng. Để từng hộ làm không thể phòng trừ sâu bệnh đồng loạt, nhất là
khi có bệnh tràn lan. Có nhiều hộ không đủ tiền mua thuốc, thuê bình bơm.
Khi lo được tiền thì sâu đã hại hết lúa. Vì vậy cần có người làm dịch vụ.
Sản xuất NN còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, thời vụ gieo
trồng, vào việc tổ chức thu hoạch nhanh hay chậm... Mặc dù có được đầy
đủ các yếu tố vật chất, nhưng thời tiết không thuận, gieo trồng không kịp
vụ sẽ gây ảnh hưởng xấu đến năng suất cây trồng, thậm chí làm mất mùa
trắng. Việt Nam đã có câu: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống" hay
nói về thời vụ là "nhất thì, nhì thục", hoặc "mùa hơn đêm, chiêm hơn sương".
Qua sự phân tích trên cho thấy, việc DV nghiên cứu nắm bắt được
các quy luật của từng loại cây trồng, vật nuôi, việc lai tạo chọn giống có

thời gian sinh trưởng và phát triển ngắn phù hợp với từng vụ, từng vùng.
Việc cung cấp nước, phân bón, thuốc trừ sâu, thú y; việc DV thu hoạch kịp
thời... là những yếu tố cơ bản không thể thiếu được để nâng cao năng suất
lao động trong sản xuất NNHH.
Thứ hai, dịch vụ "đầu ra" cho sản xuất NNHH góp phần thúc đẩy
nền NNHH phát triển mạnh mẽ và ổn định
"Đầu ra" của quá trình sản xuất có thể tính từ khâu thu hoạch, vận
chuyển, bảo quản, chế biến, phân phối lưu thông đến tiêu thụ. Dịch vụ
"đầu ra" cho sản xuất hiện nay giữ vai trò nâng cao hiệu quả của sản xuất.
Sản phẩm có tiêu thụ được mới phát triển được sản xuất.
Sản xuất NN khi chuyển sang sản xuất hàng hóa phụ thuộc nhiều
vào thị trường tiêu thụ sản phẩm (đầu ra). Thị trường tiêu thụ sản phẩm vừa


×