Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo của ĐẢNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH tư DUY mới về CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.88 KB, 22 trang )

1

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO
CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH TƯ DUY MỚI
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Đặt vấn đề
Quá trình hình thành và phát triển tư duy của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thành tựu lý luận
to lớn, là sản phẩm bởi trí tuệ thiên tài của Đảng ta, là kết quả của sự, thể
nghiệm lâu dài, trong quá trình cách mạng Việt Nam, trên cơ sở trung thành
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng
là kết quả của quá trình thường xuyên tổng kết thực tiễn từ những thành công
và thất bại trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước trên thế
giới cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình cách mạng thế
giới, với sự khủng hoảng, tan rã của chủ nghĩa xã hội thế giới, chủ nghĩa xã hội
tạm thời lâm vào thoái trào. Trước tình hình đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch với chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền, phủ nhận với bản chất tốt đẹp
của nó, phủ nhận tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội;
đẩy mạnh thực hiện những âm mưu thủ đoạn thâm hiểm “diễn biến hoà bình”,
bạo loạn lật đổ để tiến công hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Bởi
vậy, việc nghiên cứu nắm vững nội dung tư duy mới của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; khẳng định tính độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc hình thành tư duy mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đòi hỏi cấp bách đối với
cách mạng Việt Nam hiện nay, nhằm chống lại những âm mưu xuyên tạc, phủ
nhận con đường chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, để không ngừng củng cố niềm
tin vào mục tiêu của cách mạng và lý tưởng của Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.



2

1- Độc lập, tự chủ, sáng tạo là đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay.
Trước hết, độc lập, tự chủ, sáng tạo là yêu cầu khách quan của cách
mạng vô sản; bởi cách mạng vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và
khó khăn nhất hướng tới mục tiêu triệt để giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Cách mạng vô sản vừa nhằm cải tạo xã hội cũ, đồng thời xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp, đó là cuộc biến đổi, cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các
tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa. Do đó, đòi hỏi Đảng và nhân dân (đặc biệt là Đảng) phải
nêu cao độc lập tự chủ, sáng tạo, mới có thể lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng đến
thắng lợi.
Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí lý luận. Tư
tưởng sắc bén, một học thuyết cách mạng khoa học. Đó là những nguyên lý,
quy luật cơ bản nhất nhằm vạch con đường chung nhất cho sự nghiệp cách
mạng vô sản thế giới. Song, cách mạng vô sản phải được tiến hành ở từng
quốc gia dân tộc. Do vậy, các Đảng ở các nước phải biết vận dụng sáng tạo
những nguyên lý, quy luật chung cho phù hợp hoàn cảnh nước mình. Bởi,
chính Mác - Ăngghen đã chỉ dẫn rằng học thuyết của các ông là lý luận về
những quy luật chung nhất chứ không phải là một thứ “giáo điều” để mà áp
dụng cho mọi hoàn cảnh. Vì vậy, Lênin đã đòi hỏi các Đảng phải tìm tòi
nghiên cứu, phát triển, dự đoán, nắm vững những gì là đặc điểm của dân tộc,
đặc trưng dân tộc trong cách thức cụ thể mà mỗi dân tộc dùng để giải quyết
nhiệm vụ quốc tế thống nhất cho tất cả các nước.
Mặt khác, độc lập, tự chủ, sáng tạo cũng là truyền thống quý báu của dân
tộc ta. Một đất nước có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và thế giới,
luôn là mục tiêu xâm lược của các đế chế phong kiến nước ngoài và thực dân
đế quốc; vừa luôn phải sống trong hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt...điều kiện



3

tự nhiên và vị trí địa chính trị đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải thường xuyên
nêu cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, đoàn kết kiên cường trong dựng và giữ
nước. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trở thành truyền thống quý báu,thành nếp
sống văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về tính độc lập, tự chủ, sáng tạo là:
trước hết, phải trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết
cách mạng, khoa học nhất, đỉnh cao trí tuệ nhân loại và là “chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất”. Do vậy, mọi biểu hiện hạ thấp, xa rời, phủ nhận
và đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin đều là trái với quan điểm độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta thì độc lập, tự chủ, sáng tạo không chỉ là
trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn phải biết kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, để
vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh, học tập tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần, phương
pháp để vận dụng vào xử trí công việc cho phù hợp, không được lệ thuộc phụ
thuộc bên ngoài, không dập khuôn, bắt chước, theo đuôi các nước khác. Song,
theo Hồ Chí Minh thì độc lập, tự chủ, sáng tạo cũng đòi hỏi phải chống tư
tưởng coi nhẹ, phủ nhận những vấn đề quy luật chung, tuyệt đối hoá đặc điểm
của dân tộc mình. Vì theo Người: muốn đỡ mò mẫm, vấp váp, muốn bớt sai
lầm thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em và vận dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chống học
tập, tiếp thu kinh nghiệm các nước một cách máy móc vì như Người đã chỉ rõ:



4

“Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có địa
lý lịch sử khác”1.
Như vậy, độc lập, tự chủ, sáng tạo luôn là đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam và là tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Từ độc lập, sáng tạo trong
tìm con đường cứu nước, đến độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường sáng tạo trong
lãnh đạo đấu tranh giành và giữ chính quyền; trong kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Độc lập, tự chủ, sáng tạo, thực sự trở thành một nhân
tố hết sức quan trọng, quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua
các thời kỳ.
2- Quá trình nhận thức của Đảng ta về con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam từ 1930 đến nay.
2.1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho sự lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1930 - 1986).
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ách xâm
lược, đô hộ của thực dân Pháp, là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Yêu
cầu khách quan đặt ra của xã hội thuộc địa nửa phong kiến là độc lập dân
tộc và dân chủ (ruộng đất cho dân cày). Hướng tới mục tiêu giải phóng
dân tộc, các phong trào yêu cầu đấu tranh của nhân dân ta trước năm
1930, liên tiếp nổ ra mạnh mẽ, tiêu biểu như phong trào Cần Vương,
phong trào nông dân Yên Thế, phong trào theo hệ tư tưởng tư sản của
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh...đều đi đến thất bại, vì chưa xác
định được đường hướng đi đúng để giành độc lập dân tộc.
Bằng thiên tài trí tuệ và một con đường đi tìm đường cứu nước độc
lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng
1


Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 227.


5

đắn đáp ứng yêu cầu của xã hội Việt Nam là con đường cách mạng vô
sản. Theo Người: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới triệt để giải phóng được
các dân tộc thuộc địa khỏi ách nô lệ và trong thời đại ngày nay, “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Trên cơ sở nhận thức đúng về con đường cứu nước, trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng (02/1930) đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là: Tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản.
Khẳng định cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản. Khẳng định cách mạng
Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền để giành
độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày và cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Gắn với quá trình đó là vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là tư tưởng cốt lõi gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, khẳng định con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam, con đường duy nhất đúng: đáp ứng yêu cầu của xã hội
Việt Nam, đúng với quy luật phát triển cách mạng, đúng với hoàn cảnh thế
giới và phù hợp với xu thế của thời đại.
Trên nền tảng mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội được
xác định trong Cương lĩnh, trong suốt quá trình lãnh đạo chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã luôn nắm bắt thực tiễn, kiên trì mục tiêu lý tưởng và không
ngừng bổ sung phát triển, hoàn thiện quan niệm về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Trên nền độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, ở những
giai đoạn, những thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử với trí tuệ và bản

lĩnh, Đảng ta luôn đưa ra được những quyết định lịch sử đảm bảo cho cách mạng
Việt Nam luôn phát triển đúng hướng theo tư tưởng Cương lĩnh đầu tiên đã xác
định và đặt hiệu quả cao.


6

Nếu giai đoạn 1930 - 1954, chủ nghĩa xã hội còn là mục tiêu, phương
hướng lâu dài của cách mạng Việt Nam, thì từ năm 1954 xây dựng chủ nghĩa xã
hội trở thành nhiệm vụ trực tiếp của miền Bắc.
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954) miền Bắc đã được giải
phóng, Miền Nam còn tạm thời dưới ách xâm lược của đế quốc Mỹ. Với nhận
thức đúng đắn quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa, trung thành với tư tưởng
của Cương lĩnh đầu tiên và xuất phát từ thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã quyết định đưa một nửa nước - miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội
trong bất kỳ tình huống nào. Đây là nét sáng tạo độc đáo, phản ánh tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh vững vàng của Đảng, xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên nửa nước điều chưa có trong lý luận cũng như tiền lệ thế giới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiếp tục cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng ở hai miền, Đảng khẳng định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai
trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước, quyết định
thắng lợi của nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Nam “chiếu cố miền Nam”...xây dựng chủ nghĩa xã hội
miền Bắc là chủ nghĩa xã hội thời chiến (theo kết luận của Đảng năm 1994). Do
vậy, miền Bắc chịu sự chi phối của cả hai quy luật là quy luật chiến tranh và quy
luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó quy luật của chiến tranh là chủ yếu chi
phối. Do đó, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu bảo vệ.

Quan điểm của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ 1954
đến Đại hội III ( 2/1960) được hình thành về cơ bản, Đại hội xác định đường lối
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm: “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.


7

Trên cơ sở những vấn đề cơ bản đã hình thành, quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, là quá trình Đảng từng bước bổ sung, phát triển thêm
những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện qua các hội nghị
Trung ương như: Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (1964) về lưu thông phân phối
và hình thành tư tưởng về 3 cuộc cách mạng, về mối quan hệ giữa công - nông
nghiệp; Nghị quyết Trung ương 19 (1971) hình thành lý luận về xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh, về mối quan hệ giữa chuyên chính vô
sản và quyền làm chủ của nhân dân; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 22
về khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc...như vậy, từ sau Đại hội III, những vấn
đề lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội từng bước được Đảng ta bổ sung phát
triển phù hợp với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh chiến
tranh của miền Bắc. Đây là yếu tố quyết định tạo nên thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền
Nam thắng Mỹ, hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước nhà (1975).
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước vào thời kỳ mới thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội IV của Đảng (12/1976) đã phát triển một bước
quan trọng đường lối do Đại hội lần thứ III (9/1960) đề ra đường lối xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đó là đường lối: “Nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học- kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ

thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa...”1
1

ĐCSVN - Báo cáo Chính trị BCHTU tại ĐHĐBTQ lần thứ IV, Nxb Sự thật, H. 1977, tr. 67.


8

Tuy nhiên, trong việc thiết kế mô hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực
hiện chúng ta đã phạm phải một số sai lầm khuyết điểm. Do nóng vội, chủ
quan trong xác định mục tiêu và thời gian hoàn thành, cùng với những hạn
chế trong tổ chức thực hiện, đã làm cho nền kinh tế nước ta thời kỳ 1976 1980 có chiều hướng đi xuống, đất nước gặp nhiều khó khăn.
Đến Đại hội V của Đảng (3/1982), quan niệm về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng có sự phát triển. Đồng thời, với việc xác định đúng hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau. Đại hội V có
nhận thức mới về sự phân kỳ của thời kỳ quá độ thấy được tính khó khăn, phức
tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ; do vậy, phải trải qua nhiều trặng đường kế tiếp
nhau, mà chúng ta còn đang ở dặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Bởi vậy, đại
hội xác định đường lối công nghiệp hoá, phải ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu...Song Đại hội V, vẫn chưa thấy được sự cần thiết
duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ chưa có những chính
sách, giải pháp cụ thể, để phát triển nền kinh tế. Những hạn chế đó là nguyên nhân
của những khó khăn mà đất nước phải vượt qua sau đại hội.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo chỉ đạo cách mạng
nói chung và trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam nói riêng, càng được khẳng định và kiểm nghiệm trong thời
kỳ đổi mới xây dựng đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Công cuộc đổi mới với việc hình thành tư duy mới của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX; đặc biệt, là
từ đầu những năm 80, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng
trầm trọng bởi những sai lầm, hạn chế kéo dài các Đảng cộng sản trên thế giới


9

và ở Việt Nam. Trong khi chủ nghĩa tư bản thế giới tích cực điều chỉnh và
tranh thủ được thành tựu khoa học, công nghệ đã phát triển khá nhanh về kinh
tế và càng ra sức tiến công chống phá chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó,
các Đảng cộng sản ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đã ý thức được yêu
cầu phải cải tổ, cải cách, đổi mới. Song, do có những sai lầm trong xác định
đường lối cải tổ, cải cách cùng những hạn chế trong lãnh đạo chỉ đạo, cùng
với sự tiến công ngày càng điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc đã đưa nhiều
Đảng cộng sản mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như, hoang mang, hoài
nghi mất niềm tin dẫn đến xa rời, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, từ bỏ con đường
xã hội chủ nghĩa, đi theo chủ nghĩa tư bản hoặc theo chủ nghĩa xã hội dân chủ
mà thực chất, cũng là theo chủ nghĩa tư bản, chấp nhận đa nguyên, chính trị,
đa Đảng đối lập...kết quả là làm cho toàn bộ các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào cuối những năm 80 đầu 90 của thế kỷ XX.
Đứng trước tình hình khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội thế
giới và sự khủng hoảng về kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Đảng ta với bản lĩnh
chính trị vững vàng, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, đã nắm bắt đúng
tình hình cách mạng thế giới và trong nước, kịp thời rút ra những bài học quý
qua cải tổ, cải cách trên thế giới và đi đến quyết định phát động công cuộc đổi
mới tại Đại hội VI của Đảng (12/1986). Với nhận thức đúng yêu cầu khách quan

của đổi mới “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp
cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”1 đối với cách mạng Việt Nam lúc
này.
Đại hội VI, với đường lối đổi mới đồng bộ, toàn diện, triệt để là hết sức
đúng đắn. Đặc biệt Đại hội VI đã có nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB TQ lần thứ VI Nxb ST, H. 1987, tr. 124.


10

Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận
thức đúng đắn hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội; tiếp tục khẳng định thời kỳ quá độ tồn tại lâu dài, qua nhiều
chặng đường. Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên; thừa nhận sự
tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường (tuy vẫn quan niệm có
hai thị trường là: thị trường có tổ chức và thị trường tự do, nên chủ trương
thực hiện thị trường có tổ chức); thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo
hướng hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; phê phán triệt để cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội; có nhận thức mới, có bước đột phá rất quan trọng về đổi
mới chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội, coi chính sách xã hội là
chính sách độc lập, chính sách vì con người, chăm lo toàn diện và phát huy nhân
tố con người, chính sách xã hội phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; đổi
mới một bước về chiến lược quốc phòng - an ninh đất nước. Đại hội VI là một

cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau Đại hội VI là thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó
khăn của tình hình thế giới và trong nước, kiên trì đẩy mạnh, từng bước cụ thể
hoá đường lối đổi mới của Đại hội VI để tiếp tục thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn hết sức quan trọng.
Qua các Hội nghị Trung ương, đặc biệt tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng
3/1989) đã tiếp tục khắc phục những hạn chế của Đại hội VI và bổ xung
khẳng định: tính chất lâu dài của kinh tế nhiều thành phần; hình thành cơ chế
thị trường thống nhất toàn quốc. Đặc biệt Hội nghị Trung ương 6, đã chỉ ra 5
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới là:


11

Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa; Đổi mới
không được xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin; đổi mới phải nhằm tăng cường
chuyên chính vô sản; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH; phải kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Năm 1991, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp; lúc này chế độ xã
hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu đã bị sụp đổ và Liên Xô đã đi chệch hướng
cải tổ, đang có nguy cơ đi đến tan rã. Trước tình hình đó tác động sâu sắc đến
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta; đã có những biểu hiện dao động, thậm trí có
người muốn “đi con đường khác”. Các thế lực thù địch thì tập trung phản công
quyết quyết liệt vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam.
Trong nước ta, công cuộc đổi mới ngày càng giành nhiều thắng lợi.
Trong bối cảnh đó, Đại hội VII của Đảng tiến hành (6/1991) đã đánh giá
5 năm đổi mới và xác định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000. Đại hội xác định công bố Cương lĩnh là yêu cầu khách quan,
Cương lĩnh cùng các văn kiện khác là nền tảng lý luận để tiếp tục đưa sự
nghiệp đổi mới phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nội dung Cương
lĩnh đề cập việc tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng và rút ra 5 bài học kinh
nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định tính tất yếu và
điều kiện đi lên CNXH ở Việt Nam, xác định quan niệm đúng về chủ nghĩa
xã hội và con đường lên CNXH ở Việt Nam, khẳng định hệ thống chính trị và
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Thành công nhất là Cương lĩnh xác định đúng về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh chỉ rõ: “xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một


12

nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới”1.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần nắm
vững phương hướng cơ bản sau:
Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân - nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do
Đảng lãnh đạo; phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội...; phù hợp với sự phát triển lực lượng
sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao, phát triển

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN; tiến hành cách mạng
XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị với tất cả
các nước; xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh ngang tầm với đòi
hỏi của cách mạng.
Như vậy, Cương lĩnh Đại hội VII, đã xác định: 6 đặc trưng cùng 7
phương hướng giải pháp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo nên mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mô hình đó là sự thống nhất giữa tính phổ biến
và tính đặc thù ở Việt Nam. Do vậy, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một mô
hình cụ thể mang “bản sắc Việt Nam”. Đây là sự khẳng định có ý nghĩa hết
1

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Nxb CTQG, H. 1991, tr. 7.


13

sức lớn lao đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam cả hiện tại và
lâu dài. Sau đó các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị
tiếp tục bổ sung, phát triển và cụ thể hoá các quan điểm, phương hướng cơ
bản nêu trong Cương lĩnh và Chiến lược. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đảng, khoá VII (1/1994) đã đề ra những biện pháp đẩy mạnh
thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra 4 nguy cơ lớn đối với cách
mạng nước ta đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, tệ quan liêu; âm mưu hành động
“Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996), trên cơ sở phân tích, đánh giá
tình hình đã rút ra kết luận: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,

cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đất
nước chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Những tư tưởng của Cương lĩnh tiếp tục được Đại hộiVIII
khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi
mới những năm qua vê cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa”1.
Tuy vậy, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần tiếp tục phát triển làm rõ. Yêu cầu đó
tiếp tục được Đại hội IX của Đảng thực hiện.
Đại hội IX của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử trọng đại
loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI. Nhân dân Việt
Nam, đất nước Việt Nam đã đi qua một thế kỷ đấu tranh gian nan, oanh liệt
giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và bước vào xây dựng chủnghĩa
xã hội. Thế kỷ XX là thế kỷ của những chiến công hiển hách và thắng lợi có ý
1

ĐCSVN Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr, 68.


14

nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi vĩ đại của
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 lập nên Nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á; đó là thắng lợi vĩ đại của các cuộc kháng chiến thần thánh
đánh thắng những tên thực dân đế quốc hung hãn, giải phóng dân tộc, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc. Những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng đất nước
sau chiến tranh, của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa trong những năm qua đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng
Việt Nam, tạo ra điều kiện tiền đề rất quan trọng để dân tộc ta bước vào thời

kỳ phảt triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ mới, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận
hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn không thể xem
thường. Nắm bắt cơ hội, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách
thức với tinh thần cách mạng tiến công đưa cách mạng Việt Nam tiến lên
mạnh mẽ, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chúng ta trong thời kỳ
mới. Đại hội IX chỉ rõ: thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua
15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua
tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội khẳng định: “Cương lĩnh
(năm 1991) là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước
Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt
động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”1.
Đại hội IX khẳng định lại mục tiêu lý tưởng là cần thiết trong tình hình mới;
khi đất nước cùng với nhân loại bước vào thế kỷ XXI, trên thế giới có những diễn
1

ĐCSVN Văn kiện Đại hội Đảng IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr, 83.


15

biến nhanh và phức tạp, đất nước đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức mới.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di, bất dịch của nhân
dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã
hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề nguyên tắc, sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Bởi vì, độc lập dân tộc là

điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc thực sự. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hoá của lịch sử loài người.
Bước phát triển mới đóng vai trò làm cơ sở để bổ sung, hoàn thiện những
phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đại hội IX bổ sung nhận thức về
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Trong mục tiêu chung đã bổ sung thêm cụm từ: “dân chủ”. Sự bổ sung
đó là cần thiết phản ánh bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội.
Một bước phát triển quan trọng mà Đại hội X mang lại đã làm rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Trong thời kỳ quá
độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai


16

cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp
trong xã hội tư đã thay đổi nhiều, cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã
hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ và nhân dân, đoàn kết hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn
đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều
kiện mới, với những nội dung và hình thức mới. Nội dung đấu tranh giai cấp trong
giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. Đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân ấm lo
hạnh phúc.
Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực kinh tế. Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội IX gọi là: nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm rõ sự khác nhau giữa nền kinh tế đó
với kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản về mục tiêu, hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế, vai trò của yếu tố nền tảng, yếu tố chủ đạo trong nền kinh tế, phương
thức phân phối...
Về quan điểm phát triển: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường ngay từ bước phát triển; gắn việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với


17

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với
quốc phòng - an ninh. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo
dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân; nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực đất nước.
Đại hội IX còn mang lại một quan điểm đồng bộ, hệ thống về những độc lực
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước: một là, đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo; hai là, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội; ba là,
phát huy dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các
cấp, các ngành, các địa phương.
Như vậy, Đại hội IX đã thể hiện một bước quan trọng làm sáng tỏ hơn nữa
vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Một
bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta qua tổng kết thực tiễn
đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với tư duy độc lập sáng tạo; ý thức sâu sắc vai trò của kinh tế nhà nước
trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường và thực trạng yếu kém bất cập của nó trước sứ mệnh phải đảm nhiệm.
Hội nghị Trung ương 3 khoá IX (8/2001) đã tập trung bàn và ra Nghị quyết về:
“Tiếp tục sắp xếp và đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước”. Thể hiện tư duy mới của Đảng trên lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là vai trò của
thành phần kinh tế nhà nước. Nghị quyết đã nêu nên 5 quan điểm chỉ đạo đó là:
Một là, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.


18

Hai là, kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu
hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng,
chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết

phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế.
Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh, bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật.
Bốn là, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và
cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp mới mẻ.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với
việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Phát triển hơn nữa quan niệm xem đoàn kết là một động lực quan trọng trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX) đã nhấn
mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, không kể họ là người Việt Nam đang cư
trú và làm việc trong nước hay ở nước ngoài, hãy tán thành mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đều cần phải thu hút vào mặt
trận đoàn kết đó, phát huy sức mạnh của họ trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Biện chứng của quá trình nhận thức là quá trình vừa nghiên cứu, vừa tiếp thu
sửa chữa và khắc phục những hạn chế và khuyết điểm, đồng thời bổ sung phát
triển những nhận thức mới, những nội dung mới. Đại hội lần thứ X của Đảng vừa
qua (4/2006). Cùng với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
và tổng kết qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và tiếp tục hoạch định
đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đặc biệt, với tư duy độc
lập tự chủ, sáng tạo, có những bổ sung về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng:


19

“Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; có
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”1.
Như vậy, so với 6 đặc trưng được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội
VII đã có sự bổ sung, phát triển, ngoài sự bổ sung đặc trưng thứ nhất và đặc
trưng thứ bảy thì trong từng đặc trưng về nội dung, câu từ trong từng đặc
trưng cũng đã có bước phát triển thể hiện tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa
xã hội.
Đồng thời Đại hội X nói rõ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chúng
ta phải: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc
gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.2
Như vậy, so với 7 phương hướng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) cũng đã có sự bổ sung và phát triển
1
2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB TQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 68.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB TQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 69.


20


mới. Nhất là, Đại hội nhấn mạnh, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, quốc tế.
Đặc biệt Đại hội X đã quyết định thành lập tiểu ban để soạn thảo bổ sung
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để Đại
hội XI thông qua.
Kết luận
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
Việtnam là sản phẩm sáng tạo vĩ đại, là thành tựu lý luận to lớn của Đảng ta
trên cơ sở tuyệt đối trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí, phát huy truyền thống bản sắc của dân tộc, vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Quan điểm đúng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đồng
thời cũng là kết quả của quá trình tổng kết đúc rút và học tập có chọn lọc kinh
nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới.
Quan niệm về mục tiêu chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được hình thành và phát triển, gắn với quá trình phát triển
trưởng thành của Đảng, ngay từ ngày đầu thành lập. Nó không chỉ là kết quả
của quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, quá trình tổng kết lý luận, tổng kết thực
tiễn; mà còn là sự tổng kết trí tuệ, công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta để hình thành lên tư duy mới về con đường chủ nghĩa xã hội.
Lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng có
một giá trị ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, nó góp phần làm
phong phú thêm cho kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là lý
luận về con đường chủ nghĩa xã hội. Đồng thời đó cũng là nền tảng, cơ sở
vững chắc cho việc hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam của
Đảng là cơ sở khoa học để xây dựng niềm tin vững chắc cho toàn Đảng, toàn


21


dân, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây; đặc biệt, trong
thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện tư
duy độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, là nét nổi bật và xuyên suốt trong
toàn bộ đường lối của Đảng ta hơn 70 năm qua. Đặc biệt, tinh thần đó, đặc
tính đó càng được biểu hiện rực rỡ, phát huy cao độ trong quá trình hoạch
định và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo của Đảng trong việc hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói
riêng cũng như toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng nói chung là một trong
những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng nước ta,
của công cuộc đổi mới 20 năm qua; là cơ sở để tin tưởng vào những thắng lợi
trong tương lai tươi sáng của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam quang vinh.
Lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng
được thường xuyên tổng kết, bổ sung phát triển cũng là cơ sở lý luận vững
chắc để đấu tranh chống lại những quan điểm, nhận thức sai trái phản động cả
ở trong nước và trên thế giới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa
xã hội hiện nay. Chống lại những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận học thuyết
Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội, chống
âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc hòng
làm chệch hướng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là “Việt Nam đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa”.
Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong thời kỳ mới
phải kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu cách mạng và
lý tưởng của Đảng. Ra sức xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không lệ
thuộc, phụ thuộc nước ngoài, xây dựng một nền văn hoá “tiên tiến đậm đà bản


22


sắc dân tộc”, tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh nhằm bảo vệ vững
chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Tư duy mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là thành tựu lý luận có giá trị hết sức to lớn, góp phần
quyết định đảm bảo cho sự tồn tại, đứng vững và phát triển của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam trong thời kỳ sóng gió, biến động khó khăn vượt qua. Nghiên
cứu nắm vững, bảo vệ và không ngừng bổ sung phát triển lý luận về con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là trách nhiệm của mỗi chúng ta./.



×