Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TIỂU LUẬN TĂNG CƯỜNG sự đoàn kết, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN đặt RA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.89 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN
TĂNG CƯỜNG SỰ ĐOÀN KẾT, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐANG ĐẶT RA HIỆN NAY.
Mở đầu
Đại hội IX của Đảng đã tổng kết và phát triển những quan điểm tư tưởng
của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đã xác
định: “ Đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược nhất quán, là nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống xã hội” 1. Lịch sử hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là sự nối tiếp của những cuộc đấu
tranh chống thiên tai, chống các cuộc chiến tranh xâm lược của các đế chế
phương Bắc và các nước thực dân đế quốc tư bản chủ nghĩa. Những cuộc vật
lộn, đấu tranh sinh tử đó đã sớm hình thành ở người Việt Nam sự cố kết cộng
đồng, ý thức cộng đồng dân tộc phát triển và trở thành sức mạnh đoàn kết dân
tộc. Đoàn kết và phát huy sức mạnh đoàn kết đã thấm sâu vào trong máu thịt
mỗi người dân Việt Nam, được trân trọng giữ gìn, bổ xung và phát triển từ đời
này sang đời khác.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam còn được hình thành từ
những cội nguồn lịch sử sâu xa. Người Việt Nam ý thức rằng, mình sinh ra
trong cùng một bọc, gắn bó với nhau bởi nghĩa “ đồng bào”. người Việt Nam –
dù sống ở miền rừng núi hay vùng đồng bằng, trung du miền biển, trong nước
hay nước ngoài, đều có chung một cội nguồn, chung một Ông Tổ Hùng Vương
và có chung một ngày Gĩô Tổ Hùng Vương. Lịch sử dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta cho thấy ở thời kỳ nào mà nhân dân đoàn kết, “ trên dưới một lòng”
thì đất nước hưng thịnh, ở thời kỳ nào mà “ lòng người ly tán, chia rẽ loạn ly”là
lúc mà dân tộc suy vong, thù trong giặc ngoài có nguy cơ mất nước.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H,2001, tr123


Hơn 77 nam qua, từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định


sứ mệnh kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Đại đoàn kết dân tộc là
một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Truyền thống đoàn kết dân
tộc đó được phát huy trong cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ giành và giữ nền
độc lập dân tộc và ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân Việt Nam.
Sứ mệnh lịch sử, địa vị lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản đã quy định sự cần
thiết phải xây dựng một tổ chức đảng. Tổ chức Đảng Cộng sản là một bộ phận
của xã hội, là đội tiền phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Tổ chức đảng tồn tại
như là một chỉnh thể thống nhất, có cương lĩnh, có điều lệ, có cơ quan lãnh đạo
tối cao thống nhất. Đảng là một hệ thống thống nhất các tổ chức của Đảng. Tất cả
các bộ phận từ tổ chức đảng ở cấp Trung ương, cấp địa phương đến tổ chức đảng
ở nghành, ở khối… ở các cấp gắn bó chặt chẽ với nhau, hợp thành một khối
thống nhất và tạo nên hệ thống tổ chức của Đảng. Nói hệ thống tổ chức của Đảng
là nói tính thống nhất, tính không thể chia cắt của Đảng. mọi tổ chức Đảng hình
thành và hoạt động vượt ra ngoài quy định của hệ thống sẽ có ảnh hưởng tiêu cực
đến tính hệ thống của tổ chức Đảng. Do đó, giải quyết đúng đắn ván đề hệ thống
tổ chức của Đảng sẽ nhân sức mạnh của Đảng và sẽ tạo ra chất lượng mới, đồng
thời là nhân tố cơ bản bảo đảm thực hiện đường lối chính trị và là cơ sở giải
quyết tốt việc thực hiện sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Để thực hiện thắng
lợi những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đảng ta đã xác định trong giai đoạn cách
mạng mới. Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm,
các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở


tất cả các cấp, các nghành. Riêng trong lĩnh vực xây dựng đảng, Đảng ta cũng
vạch ra hàng loạt vấn đề cần tập trung làm cho tốt, trong đó có vấn đề giữ gìn sự

đoàn kết thống nhất trong Đảng. trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung
ương khoá VII tại Đại hội VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “ Đoàn kết thống nhất trong
Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của
cách mạng. và trong những năm tới, chúng ta phải tập trung sức giải quyết cho
được tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng ở một số ngành và địa phương, phân
tích đúng nguyên nhân, có biện pháp giải quyết phù hợp”2.
I- Đoàn kết thống nhất là vấn đề có tính quy luật tồn tại, trưởng thành
của Đảng cách mạng chân chính và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mác và Ăngghen đã giành phần lớn trí tuệ và sức lực của mình để xây
dựng chính đảng độc lập, cách mạng của giai cấp công nhân. hai ông rất coi
trộng việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc trong Đảng. Tổng kết
cuộc cách mạng Pháp năm 1848, hai ông đã chỉ ra rằng lúc này (tức là năm 1850)
là lúc cách mạng sắp nổ ra, do đó, Đảng cần phải hành động có tổ chức nhất,
thống nhất nhất, và độc lập nhất, nếu như nó không muốn bị giai cấp tư sản lợi
dụng và kéo theo đuôi nó như năm 1848. Trong quá trình tham gia vào những
hoạt động của phong trào công nhân, đấu tranh chống lại áp bức bất công của
giai cấp tư sản và chế độ tư bản, bằng những lý luận sắc bén. Tháng 10 năm
1864, trong Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế, hai ông khẳng
định : sự thành công của phong trào công nhân mỗi nước chỉ có thể được bảo
đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức. Trong bức thư Mác gửi cho
Ph.Bônte (tháng 1 năm 1871), tổng kết sự hoạt động của quốc tế I, Mác kết luận,
quốc tế không thể tồn tại được nếu không đập tan chủ nghĩa bè phái.
Lênin người tuyệt đối trung thành vận dụng và kế thừa và phát triển sáng
tạo những tư tưởng của Mác và Ăngghen về xây dựng Đảng, trong quá trình sáng
2


lập Đảng Cộng sản Bôn xê vích Lênin cũng đã đặc biệt quan tâm tới việc xây
dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc trong Đảng. Người đấu tranh không
mệt mỏi vì sự thống nhất đội ngũ đảng, tự mình khởi thảo nhiều nghị quyết và

những lời kêu gọi về vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng. Lênin cho rằng: Sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân và
đó là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng… mục tiêu của việc xây dựng
và củng cố Đảng là nhằm xây dựng và củng cố sự thống nhất đội ngũ Đảng.
Khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, Lênin đặc biệt coi
trọng việc xây dựng khối thống nhất vững chắc trong Đảng và chỉ ra rằng, nội bộ
càng đoàn kết, càng ít dao động thì ảnh hưởng của Đảng trước quần chúng càng
rộng lớn. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Nga lần thứ X (Năm 1921) Lênin đã khởi
thảo nghị quyết đòi khai trừ ngay lập tức ra khỏi Đảng những kẻ gây chia rẽ, bè
phái. Trong bài viết “ Lại bàn về công đoàn…”, Lênin đã khẳng định : Một điều
rõ ràng là trong một nước đang thực hiện chuyên chính vô sản, thì một sự chia rẽ
trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng của giai cấp với quần chúng vô sản,
không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước
đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân cư.
Rõ ràng là đoàn kết thống nhất trong Đảngcó một ý nghĩa cực kỳ quan
trọng nó vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách. Ngay từ khi mới
thành lập Đảng ta đã rất coi trọng vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và
đoàn kết thống nhất trong Đảng chỉ một năm sau ngày thành lập, tháng 3 năm
1931. Đảng đã có nghị quyết nêu rõ không dung túng hiện tượng chia rẽ, bè phái
mất đoàn kết trong Đảng, chính vì vậy, trong tiến trình đấu tranh cách mạng,
Đảng đã quy tụ được mọi lực lượng yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc, góp phần làm nên mhững thắng lợi rực rỡ trong các giai đoạn của cách
mạng. Trong các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây


dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, tại
hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhgị quyết :
Đảng không bao giờ dung túng bè phái. Trong Điều lệ đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội I tháng 3 năm 1935, ghi rõ: Đảng là

một khối thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động; Đảng tuyệt đối không
thoả hiệp với những xu hướng bè phái.
Đảng ta coi sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống
còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để thống nhất
toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đồng thời Đảng ta coi sự chia rẽ trong
nội bộ Đảng là tội ác lớn nhất đối với Đảng. Đảng luôn luôn nhắc nhở các cấp bộ
Đảng, toàn thể đảng viên phải hết sức quan tâm xây dựng và giữ gìn sự thống
nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ý thức xây dựng giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất. Người là hiện thân của khối đoàn kết thống nhất toàn đảng, toàn dân
Việt Nam. Người dạy : Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
Người cũng rất quan tâm chăm lo, bảo vệ sự thống nhất của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế trên nền tảng tư tưởng cua chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Trước khi qua đời, trong di chúc thiêng liêng để lại cho
toàn Đảng, toàn dân tộc và cho đời sau, trước tiên người căn dặn đối với toàn
Đảng từ Trung ương đến các chi bộ phải coi trọng giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng, trong đó người đặc biệt nhấn mạnh: Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Có thể nói, điều tâm niệm và phấn
đấu suốt đời của Hồ Chí Minh là xây đắp củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết
của những người cộng sản. Đảng cộng sản có đoàn kết thành một khối thống nhất
mới có đủ sức mạnh để đánh đổ các thế lực áp bức bóc lột vốn nắm trong tay sức
mạnh vật chất to lớn, Đảng cộng sản có đoàn kết thống nhất thành một khối


thống nhất mới đủ sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo quần chúng cần lao vào trận
tuyến cách mạng, lật đổ chế độ cũ xây dựng chế độ mới. Trong tác phẩm “
Đường cách mệnh”, khi nêu vấn đề “ cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ
Chí Minh khẳng định: “ phải có đảng cách mệnh”, và người nhấn mạnh, nhiệm
vụ hàng đầu của đảng cách mệnh là “trong thì vận động và tổ chức dân chúng,

ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” 3. Vào đầu
những năm 1930, khi mà ở nước ta tồn tại 3 tổ chức cộng sản, khi mà nguy cơ
phân liệt về tư tưởng, tổ chức giữa những người cộng sản đang đe doạ bước tiến
của phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để tạo ra sụ đoàn
kết thống nhất. Người hiểu rõ, vấn đề sống còn đối với đất nước, dân tộc lúc này
là: “Phải hành động, hành động mau lẹ và kiên quyết, không được phép chậm trễ
hơn nữa. Thiếu một Đảng cách mạng thống nhất lãnh đạo phong trào công nhân,
cuộc đấu tranh giảI phóng dân tộc của nhân dân ta sẽ như con tàu không có
người cầm lái”4. Nhận thức sáng suốt, thái độ kiên quyết, hành động kịp thời của
Hồ Chí Minh là nhân tố quan trọng đưa tới sự đoàn kết, thống nhất giữa các tổ
chức cộng sản Việt Nam. Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930 đã ghi lên
hàng đầu trong “ năm điểm lớn” tư tưởng của Hồ Chí Minh: “ Bỏ mọi thành kiến
xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”5.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với tư cách người sáng lập Đảng,
Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo vun đắp, giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng,
Người thường xuyên nhắc nhở: đoàn kết thống nhất là sức mạnh của Đảng, là
nhân tố bảo đảm sự thắng kợi của cách mạng. Những ngày kháng chiến chống
Pháp đầy gian lan , thử thách, Hồ Chí Minh khẳng định là sự đoàn kết nhất trí và
lòng kiên quyết, quật cường của Đảng, của Chính phủ và của toàn dân, chúng ta
nhất định khắc phục được mọi khó khănđể đi đến hoàn toàn thắng lợi. Bước vào
Hồ Chí Minh; Toàn tập, tập 4 Nxb sự thật,H 1984, Tr 95
Epghênhi CabêLép: Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, H 198, Tập 1, Tr 244
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb sự thật, H1984, Tr 294
3
4


sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nhgiã mới mẻ, khó khăn, phức tạp, Người nêu rõ
sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội, là vì Đảng ta có chính sách đúng đắn và lãnh đạo thống nhất. Mà lãnh đạo

thống nhất là vì toàn thể đảng viên tư tưởng nhất trí và hành động nhất trí. Sau
này, tổng kết một chặng đường lịch sử vẻ vang, vĩ đại của Đảng, trong di chúc
của Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay,
Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác”6.
Kinh nghiệm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, khi
đời sống xã hội gặp nhiều khó khăn phức tạp, khi cách mạng chuyển giai đoạn
thì trong Đảng thường có nhiều ý kiến khác nhau về những chủ trương lớn. Nếu
Đảng không được chuẩn bị tốt về tư tưởng, không giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ, không có phương pháp để giải quyết tố những nguyên tắc này thì dễ nảy
sinh những bất đồng, sẽ dẫn đến chia rẽ trong Đảng. Một kinh nghiệm lớn của
Đảng ta là trong thời điểm cách mạng gặp khó khăn, thậm chí có lúc như ngàn
cân treo trên sợi tóc, nhưng Đảng ta đã vượt qua được đó là nhờ vào sự đoàn kết
nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn dân và của mọi lực lượng, giai tầng trong xã
hội.
Trong tình hình hiện nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
nhiều diễn biến phức tạp, đất nước vẫn đang phải đương đầu với nhũng khó khăn
to lớn. Nền kinh tế thị trường có mặt tích cực nhưng đồng thời cũngcó mặt trái,
tiêu cực của nó, hàng ngày hàng giờ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội
nên càng đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảch
giác, đề cao trách nhiệm,siết chặt hàng ngũ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
6

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà nội, 1993, tập 2, Tr 34


Đảng. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, sau khi nước nhà thống
nhất, cả nước bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, thấy trước những
khó khăn và những diễn biến phức tạp sẽ xảy ra, Đảng ta lại một lần nữa nhấn

mạnh sự cần thiết phải củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nói
chungvà sự đoàn kết thống nhất trong Đảng nói riêng. Tại các Đại hội VI, V, VI,
VII, VIII, XIX, X, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng đều được đề cập xem
xét, đánh giá sâu sắc. Trong nghị quyết của các đại hội và các hội nghị của Đảng
vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được coi trọng là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu. chính vì thế , trong bối cảnh Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ; chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào; phong trào cách mạng thế giới gặp
những khó khăn nghiêm trọng; chủ nghĩa đế quốc tích cực triển khai chiến lược
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, đối với nước ta… nhưng chúng ta vẫn
đứng vững, vẫn giữ được sự ổn định về chính trị, ra khỏi khủng hoảng kinh tế –
xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, bắt đầu bước vào thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là những điều mà chúng ta có quyền tự
hào. Đảng ta chưa thoả mãn và bằng lòng với thực tại. Tai Đại hội VIII, Đảng ta
đã thẳng thắn chỉ ra rằng, trong những năm qua trong Đảng có : “ Một số cán bộ
và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện đúngnguyên tắc tập trung dân chủ; bệnh
quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất
nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng”7.
Điều bức súc đặt ra cần có sự giải đáp là: tại sao một Đảng anh hùng, giàu
truyền thống tốt đẹp như Đảng ta mà hiện tượng mất đoàn kết nội bộ vẫn còn;
thậm chí có nơi nghiêm trọng, chậm được khắc phục, hoặc rất khó khắc phục?
Phân tích hiện tượng mất đoàn kết ở một số nơi, chúng ta thấy nguyên nhân
thường không phải do có mâu thuẫn về quan điểm chính trị mà chủ yếu là do
mâu thuẫnvề lợi ích cá nhân, địa vị và quyền lực, lối sống và phong cách công
7


tác… Đáng chú ý là hiện tượng mất đoàn kết đó xảy ra dưới nhiều dạng; có khi
giữa cán bộ cũ với cán bộ mới, giữa cán bộ già với cán bộ trẻ; có khi giữa cán bộ
trình độ thấp, không được đào tạo cơ bản vì phải lăn lộn trong chiến tranh với
cán bộ được đào tạo cơ bản nhưng chưa được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn;

giữa số cán bộ của tỉnh này với tỉnh kia khi tiến hành nhập tỉnh; giữa cán bộ là
người địa phương và cán bộ ở nơi khác được cử đến công tác v v…Mức độ mất
đoàn kết có nơi rất gay gắt; lúc đầu chỉ là bằng mặt , không bằng lòng, tiến đến
nói xấu nhau, nói sai sự thật để hạ uy tín của nhau. Nguy hiểm hơn, tuyên bố
không hợp tácvới nhau, tìm mọi cách để loại nhau khỏi vị trí công tác, hoặc dùng
quyền lực tổ chức để điều động đi công tác nơi khác, không tạo điều kiện cho
nhau làm việc. Hiện tượng mất đoàn kết đó không chỉ ở các cán bộ, đảng viên
bình thường, mà thường rơi vào những cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hậu quả của
việc mất đoàn kết đó là làm phân tán sức mạnh của các tổ chức đảng, cản trở việc
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến khối
đại đoàn kết chung. Nguy hiểm hơn, lợi dụng tình hình ấy, ở một số nơi, kẻ thù
và bọn xấu đã lôi kéo số quần chúng chậm tiến đẻ nói xấu Đảng, chia rẽ Đảng,
chính quyền với nhân dân. Tình trạng mất đoàn kết nêu trên thường do nhiều
nguyên nhân; có cả những nguyên nhân khách quan, có cả những nguyên nhân
chủ quan. Qua thực tế, ta có thể khái quát lại thành một số nguyên nhân chủ yếu
sau đây:
Khi cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đòi hỏi năng lực trí tuệ
và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng càng phải được nâng cao. Thế nhưng,
Đảng ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm; trình độ của cán bộ, đảng viên ta nói
chung còn nhiều điểm bất cập so với đòi hỏi và yêu cầu của nhiệm vụ; sức hấp
dẫn và mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên
bị thoái hoá, biến chất. Có thể nói đây là một tác nhân khách quan gây ra những


mâu thuẫn dẫn tới sự mất đoàn kết thống nhất trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
Tiêu chuẩn cán bộ chưa được xã định một cách cụ thể rõ ràng. Mỗi giai
đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng có những đòi hỏi riêng về tiêu chuẩn cán bộ. Và
từng loại cán bộ, từng chức danh cán bộ lại có những đòi hỏi khác nhau về năng
lực, phẩm chất chính trị và lối sống cá nhân. Vừa qua, chúng ta đã tiến hành và

xác định tiêu chuẩn cán bộ, song những tiêu chuẩn đó còn mang tính trừu tượng
và khá chung chung. Mỗi địa phương, mỗi nghành, mỗi cơ quan, đơn vị lại vận
dụng những tiêu chuẩn đó một cách khác nhau, thậm chí rất tuỳ tiện theo chủ
quan của một vài cá nhân có quyền lực. Vì thế, nhièu khi những người có năng
lực và phẩm chất tốt không được trọng dụng; ngược lại ,có trường hợp những
người bất tài , vô danh lại được cất nhắc.
Do thiếu một quan điểm thống nhất về nhận xét, đánh giá, bố trí cán bộ.
Đã thế, những vấn đề đó nhiều khi lại được tiến hành một cách tuỳ tiện, thiếu dân
chủ, thiếu công khai, thiếu công bằng và thiếu sòng phẳng. Phải nói là chúng ta
chưa có một cơ chế đánh giá, tuyển chọn, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ
một cách khoa học. Có thể nói đây là một nguyên nhân quan trọng tạo ra mất
đoàn kết trong đội ngũ cán bộ.
Chưa có chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ hợp lý, khoa học; các chế độ
chính sách đã cố những chỗ lạc hậu không còn phù hợp với thực tiễn hiện tại,
những điểm không phù hợp và không hợp lý đối với cán bộ, đảng viên chậm
được bổ xung sửa đổi như chế độ nâng lương, đề bạt, bổ nhiệm, miễm nhiệm,
nghỉ hưu, khên thưởng, chế độ về nhà ở và các quyền lợi khác v v…Việc giải
quyết các chế độ chính sách thiếu sự nhất quán, thiếu công bằng trong thực hiện
chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
tình trạng mất đoàn kết trong đội ngũ cán bộ.


Một nguyên nhân khác cũng khá quan trọng, thường gây ra mất đoàn kết
trong đội ngũ cán bộ, đó là bố trí sai “kíp” cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cơ
quan, địa phương đơn vị … Biểu hiện của việc bố trí sai đó thường là; trình độ,
năng lực không tương xứng với cương vị, không đồng đều, hoặc không bổ xung
cho nhau. Thậm chí có đồng chí năng lực yếu, không gương mẫu, không trung
thực, không công minh, không đoàn kết, hợp tác với nhau thì không thể tập hợp,
đoàn kết được đội ngũ cán bộ dưới quyền, thậm chí không thể điều hành nổi
công việc, làm cho nội bộ rối ren.

Nguyên nhân cơ bản bao trùm – hay có thể gọi là “ nguuyên nhân của mọi
nguyên nhân”, đó chính là chủ nghĩa cá nhân, là “cái tôi” quá to trong mỗi một
con người cán bộ, đảng viên ý thức tập thể, tính cộng đồng và tinh thần hợp tác
xã hội chủ nghĩa bị xem thường; mọi nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng sẽ
không được thực hiện; tình trạng mâu thuẫn và mất đoàn kết nội bộ sẽ tất yếu
xảy ra.
Xét về nguyên nhân, sự mâu thuẫn và mất đoàn kết trong nội bộ cấp uỷ đảng ở
các địa phương và cơ sở không phải do bất đồng về nhận thức lý luận chính trị,
về quan điểm, lập trường chính trị mà do cục bộ bản vị, kèn cựa địa vị, do tranh
giành quyền lực và lợi ích cho cá nhânvà phe cánh. Có những trường hợp viện cớ
bảo vệ quân điểm, đường lối, chủ trương của Đảng để phê bình, chụp mũ, quy
kết nhau; có trường hợp lấy danh nghĩa bảo vệ lợi ích của Đảng, của tập thể và
của nhân dân để phê phán, đả kích nhau hoặc ngấm ngầm lôi kéo các đồng chí
khác về phía mình, cô lập đối tượng phê phán; có trường hợp lợi dụng tự phê
bình và phê bình để làm mất uy tín của đồng chí mình chứ không phải để giúp
nhau cùng tiến bộ… Những nơi nội bộ mất đoàn kết, tự bản thân cơ sở không
giải quyết được, nhưng cấp uỷ cấp trên lại không quan tâm chỉ đạo giải quyết kịp
thời, dứt điểm, nên tình trạng mất đoàn kết kéo dài, ảnh hưởng lớn đến phong
trào chung của địa phương và cơ sở


Sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta hôm nay dưới sự lãnh đạo của Đảng là
một cuộc cách mạng đầy gian khổ, khó khăn và phức tạp. Muốn cuộc cách mạng
đó thành công tốt đẹp, lúc này hơn lúc nào hết phải phát huy được đầy đủ truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng. Việcgiữ
gìn tăng cường hơn nữa sự đoàn kết thống nhất giữa Đảng và nhân dân là thực sự
cần thiết và quan trọng. Đó là vấn đề có tính quy luật đối với sự tồn tại và trưởng
thành của một Đảng cách mạng chân chính, một điều ta có thể khẳng định Đảng
không thể phát triển vững vàng được nếu ở trong Đảng xảy ra tình trạng chia rẽ
bè phái.

II- Những vấn đề có tính nguyên tắc và bài học kinh nghiệm được rút
ra trong xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin, trong các
kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc và trong các nghị quyết của Đảng . Đảng ta đã tổng
kết và rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc và bài học kinh nghiệm về xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam đó là.
Nguyên tắc thứ nhất: sự đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách đung đắn của
Đảng.
Đây có thể coi là nguuyên tắc quan trọng hàng đầu, vì chủ nghĩa Mác –
Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, Lênin dạy chúng ta rằng, trước khi thống
nhất và để thống nhất phải phân biệt rõ ràng ranh giới về tư tưởng. Người viết: “
chúng ta không được quên rằng, nếu không có cái tư tưởng chung thì không thể
có vấn đề thống nhất”8.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước, Đảng vạch ra đường lối chiến lược, sách lược . Đường lối đó phản
8

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1975, tr.336


ánh mục tiêu đấu tranh, phương hướng hành động, chủ trương thực hiện, những
bước đi quan trọng của một giai đoạn cách mạng, như vậy, đường lối của Đảng là
sự định hướng chiến lược của một giai đoạn lịch sử, là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động, là ngọn cờ để tập hợp lực lượng, sự thống nhất về tư tưởng là tiền đề của
sự thống nhất về tổ chức. Đảng đòi hỏi mọi đảng viên phải nắm vững đường lối
của Đảng. Đó là cơ sở tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, sự thống nhất trong
hành động. Đảng phải hết sức coi trọng việc xây dựng đường lối. Bởi vì, đường
lối đúng đắn là tiền đề cho sự thống nhất về tư tưởng và hành động; nếu đường

lối sai thì tất yếu sẽ dẫn đến một kết quả ngược lại. Đảng kiên quyết đấu tranh
chống thái độ tuỳ tiện, vô trách nhiệm trong việc thực hiện đường lối.
Nguyên tắc thứ hai: sự đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân
thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ.
Dân chủ rộng rãi là điều kiện quan trọng để có đường lối và những nghị
quyết lãnh đạo đúng đắn, đó là phương pháp căn bản để khắc phục nhữngbất
đồng về tư tưởng. Nhưng dân chủ không tách rời tập trung nghiêm ngặt. Tập
trung cao bảo đảm cho sự thống nhấtvề ý chí và hành động, bảo đảm cho kỷ luật
của Đảng chấp hành nghiêm túc, triệt để. Lênin đã chỉ ra rằng: “ cơ sở của sự
thống nhất là kỷ luật giai cấp, là sự thừa nhận ý chí của giai cấp, là đồng tâm,
nhất trí công tác tronghàng ngũ của đa số đó và ăn nhịp với đa số đó” 9. Đảng cho
phép mọi đảng viên có quyền tự do tư tưởng, quyền bảo lưu ý kiến, nhưng khi đã
có kết luận của tập thể, đã thành nghị quyết, tất cả mọi cán bộ, đảng viên không
trừ một ai đều phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Nguyên tắc tập trung
dân chủ vừa bảo đảm phát huy được trí tuệ, sức mạnh của tập thể đội ngũ Đảng,
vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung và sự thống nhất tư tưởng, hành động của đội
ngũ Đảng.

9

Sđd, tập 25, Tr94


Nguyên tắc thứ ba: thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, đồng chí cho cán
bộ, đảng viên là một nguyên tắc đồng thời là một biện pháp rất cần thiết để gữi
gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thái độ chân thành cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, tính khiêm tốn, biết thông
cảm, hết lòng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ là những nết tiêu biểu của tình
đoàn kết cộng sản. Kinh nghiệm cho thấy, việc biết thông cảm với nhau khi gặp
khó khăn, chân thành trong cuộc sống hàng ngày, biết tôn trọng cá nhân, biết

lắng nghe ý kiến của đồng chí mình là một phong cách sống rất cần thiếtđể tạo
nên bầu không khí đoàn kết trong tập thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn toàn
Đảng trong di chúc của mình rằng: người cộng sản phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau. Trong điều kiện cơ chế thị trường, Đảng cần đặc biệt quan tâm
giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, không để
những lợi ích cá nhân làm phai nhạt tình đồng chí.
Nguyên tắc thứ tư: thường xuyên nghiêm túc tự phê bình và phê bình, Đây
có thể coi là một quy luật phát triển của Đảng và là một phương pháp căn bản để
tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Tự phê bình và phê bình là một phương pháp căn bản để giải quyết những
mâu thuẫn, tạo nên sự nhất trí cao trong Đảng. Phải xác định rõ mục đích của tự
phê bình và phê bình là nhằm phát huy ưu điểm, tìm ra khuyết điểm để giúp nhau
sửa chữa, nâng cao nhận thức giải quyết những bất đồng trong nội bộ. Do đó,
phải có phương pháp và thái độ đúng đắn khi thực hiện tự phê bình và phê bình.
Đảng nghiêm khắc phê phán hiện tượng lợi dụng phê bình để đả kích nhau. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy : “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố sự
đoàn kết và thống nhất của Đảng”10.

10

Hồ Chí Minh: Về xây dựng Đảng, Nxb sự thật, H 1980, Tr.273


Nguyên tắc thứ năm: xây dựng và bảo vệ hạt nhân lãnh đạo thực sự là
trung tâm cho khối đoàn kết thống nhất của Đảng.
Tại Đại hội của Đảng Cộng sản Nga, Lênin nói rằng, sự đoàn kết chặt chẽ
và vững chắc của Ban chấp hành Trung ương là điều kiện chủ yếu để bảo đảm
khối đoàn kết thống nhất của Đảng, Người khẳng định: “ không có một trung tâm
lãnh đạo thống nhất, không có một cơ quan trung ương thống nhất thì không thể

có thống nhấtthực sự của Đảng” 11. Thực tế lịch sử cho thấy, Đảng Cộng sản Liên
Xô và các Đảng Cộng sản ở Đông Âu đổ vỡ bắt đầu từ sự chia rẽ ngay ở Bộ
Chính trị và Ban chấp hành Trung ương. Đảng ta sở dĩ có một truyền thống đoàn
kết thống nhất cực kỳ quý báu là do từ ngày thành lập Đảng tới nay, trải qua
nhiều giai đoạn đấu tranh phức tạp, nhưng Ban chấp hành Trung ương Đảng, mà
hạt nhân là Chủ tịch Hồ Chí Minhvà các đồng chí trong Bộ Chính trị luôn luôn
vững vàng, tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng. Trong một bài
viết của giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã đưa ra những ý kiến rất sâu sắc về tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: đến cụ
Hồ thì đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần
là tình cảm tự nhiên. tìm hiểu quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, giữ
gìn sự thống nhất trong Đảng Cộng sản cũng có thể nhận thấy rõ điều đó. Theo
Hồ Chí Minh, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng phải xây dựng trên cơ sở một mục
đích, một lý tưởng thống nhất. Hơn một lần Người căn dặn các đảng viên cộng
sản: Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân của dân tộc, Đảng
ta không có lợi ích gì khác; đối với Đảng, đối với nhân dân, chúng ta có một
nghĩa vụ vẻ vang là suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ
tận tuỵ của nhân dân. Hai tiếng “ đồng chí” chỉ quan hệ giữa những người cộng
sản, trước hết bắt nguồn từ sự thông nhất về lý tưởng, về mục đích đấu tranh.

11

V.I.Lênin; Toàn tập, Tập 11, Nxb Tiến bộ, 1979, Tr210


Đoàn kết nhất trí trong Đảng Cộng sản theo Hồ Chí Minh phải được xây
dựng, bồi đắp trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh luận điểm then chốt này: “ Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm lòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phảI theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có

bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” 12. Trong nhận
thức của Hồ Chí Minh thì người cộng sản hiểu, tin chủ nghĩa Mác – Lênin không
phải như là niềm tin của các tín đồ tôn giáo, mà là thấm sâu và tin tưởng tính
cách mạng – khoa học của học thuyết, cao hơn nữa, phải đạt đến trình độ cái lõi
của một học thuyết đấu tranh cho hạnh phúc của con người. Hãy nghe Người nói:
Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác
–Lênin được.
Muốn có sự đoàn kết, nhất trí vững chắc trong Đảng phải thực hành dân
chủ rộng rãi; Đảng viên phảI nêu cao kỷ luật tự giác, phải thực hiện tự phê bình
và phê bình. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn
cán bộ, đảng viên, phải củng cố kỷ luật sắt của Đảng – một kỷ luật nghiêm túc và
tự giác, phải thật sự dân chủ, không độc đoán, chuyên quyền, không thiên tư
thiên vị; phảI tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên, thiết thực, dân
chủ, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên; các tổ chức Đảng phải kiểm tra giám
sát chặt chẽ.
Đoàn kết nhất trí phải xuất phát từ tình thương yêu thiêng liêng nhất, sâu
sắc nhất, bền vững nhất những người cộng sản. trong tư tưởng tình cảm của Hồ
Chí Minh hai tiếng đồng chí chứa đựng một giá trị thật lớn lao. Người nói : Đồng
chí ta, tuy có khác nhâu về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp,
12

Hồ CHí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb sự thật, H1984, Tr 189


nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết,
chung sướng , chung khổ, cho nên phải thật là đoàn kết. Muốn đi tới mục đích,
không phải chỉ có tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng. Người luôn luôn
nhắc nhởcác đảng viên già trẻ, cũ mới, gái trai… phải thương yêu, giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ; phải nuôi dưỡng phát triển tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình quốc
tế năm châu bốn biển; phải giữ gìn đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
đề phòng các loại bệnh công thần địa vị, kèn cựa hẹp hòi…làm tổn thương đến
tình đồng chí và làm suy yếu sức mạnh đoàn kết thống nhất của Đảng.
Lịch sử cách mạng nước ta đã hoàn toàn chứng minh: sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam luôn luôn là yếu tố cơ bản nhất có tính chất quyết định đối với mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, hai nhiệm vụ chiến lược của cáh mạng nước
ta hiện nay gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau là quy luật tồn
tạivà phát triển của dân tộc ta. Nó cần được quán xuyến trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội, ở mọi nghành, mọi cấp, Đảng ta, cơ quan đầu não lãnh
đạo, bộ tham mưu của giai cấp và của dân tộc càng phải thực hiện kết hợp chặt
chẽ giữa xây dựng Đảng trở thành một khối đoàn kết thống nhất và bảo vệ Đảng.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh có tác dụng bảo vệ Đảng tích cực nhất.
Tuy nhiên, không vì thế mà cho rằng cứ xây dựng Đảng là đủ, không thấy bảo vệ
là một mặt hết sức quan trọng, là điều kiện không thể thiếu cho xây dựng Đảng.
Xây dựng và bảo vệ Đảng gắn bó chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau,
xâydựng Đảng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức mang nội dung bảo vệ, bảo vệ
là một thành tố nội tại của xây dựng, hai mặt thống nhất, làm điều kiện cho nhau
là vấn đề có tính quy luật của việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
với việc xây dựng Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng khối đoàn kết thống


nhất trong Đảng với bảo vệ Đảng càng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong điều
kiện mới của đất nướcta hiện nay, trước những cơ hội mới và nguy cơ mới, đó là
vì:
Theo Lênin, Đảng là một sự vật rất biện chứng, là sự thống nhất của nhiều
mối mâu thuẫn. Có thường xuyên giải quyết những mâu thuẫn đó mới làm cho

Đảng ngày càng vững mạnhvà đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo của mình. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng
thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một thiểu
số trong dân tộc, nhân dân nhưng phải giành được sự ủng hộ, tin theo của đa số,
của nhân dân Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảngvừa là một bộ phận của hệ thống
chính trị vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống đó. Đảng cầm quyền nhưng không
nắm quyền. Đường lối, chủ trương của Đảng phải phản ánh quy luật khách quan
của lịch sử, lợi ích và nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động, phải được
cơ quan quyền lực của nhân dân chấp nhận và tổ chức thực hiện. Đội ngũ cán bộ,
đảng viên vừ là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
như Bác Hồ thường dạy. Nguyên tắc tổ chứcvà sinh hoạt của Đảng là nguyên tắc
tập trung dân chủ. Động lực phát triển cử Đảng là tự phê bình và phê bình. Kỷ
luật của Đảng là kỷ luật sắt nhưng được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tự giác của
đảng viên. Đảng theo chủ nghĩa quốc tế nhưng lại mang bản sắc dân tộc.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trên cần được tính đến khi xem xét, giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng với bảo vệ
Đảng sao cho các mặt ngày càngthống nhất cao hơn, không để sảy ra đối kháng
xung đột. Đảng phải được xây dựng sự đoàn kết thống nhất và phải được bảo vệ,
kết hợp chặt chẽ xây dựng sự đoàn kết thống nhất với bảo vệ trên mọi lĩnh vực cả
chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng. xây dựng sự đoàn kết thống nhất và bảo vệ nó ở đây
biểu hiện trên nguyên tắc bảo vệ đi đôi với phát triển, có bảo vệ vững chắc mới


có phát triển và mới có sự đoàn kết thống nhất cao trong ý chí và hành động, có
phát triển mới bảo vệ được sự đoàn kết thống nhất, khắc phục được bệnh giáo
điều, kiên quyết phê phán những quan điểm cơ hội, xét lại, đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng. Về tổ chức, Đảng thực hiện nghiêm
túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự
phê bình và phê bình; bảo vệ sự đoàn kết thông nhất trong Đảng như bảo vệ con

ngươi của mắt mình; kết hợp việc sàng lọc đội ngũ cán bộ , đảng viên, đưa ra
khỏi Đảng những phầnm tử cơ hội và chính trị, thoái hoá biến chất với việc kết
nạp đảng viên mới có chất lượng tốt nhằm tăng cường sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng. đấu tranh chống cả hai khuynh hướng: Đảng bao biện, lấn át
chính quyền hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng để chính quyền lấn át
Đảng…
Ngay từ khi Đảng ta ra Đời, chủ nghiã đế quốc, các thế lực thù địch. Phản
động trong và ngoài nước không một lúc nào ngừng tấn công voà đảng hòng làm
tan rã Đảng, chia rẽ Đảng với chính quần chúng, vô hiệu hoá sự lãnh đạo của
Đảng vì kể địch hiểu hơn ai hết sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định sự
thắng lợi của cách mạng nước ta. Lợi dụng sự sụp đổ củ các nước xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch đẩy mạnh việc thực hiện chiến
lược “ diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ tư bên trong, khi cần sự dụng cả biện
pháp quân sự, coi Việt Nam là một trộng điểm, trọng điểm của trọng điểm là
Đảng ta. Chúng tấn công vào chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
chống phá ta về tổ chức, nuôI dưỡng , sử dụng các tổ chức phản động người việt
lưu vong, móc nối với bọn phản động, bất mãn trong nước, xuyên tạc đường lối
chủ trương đổi mới của Đảng, đả kích bôI nhọ Đảng, tìm ngọn cờ cho chúng
trong nội bộ Đảng ta ở cả trung ương và địa phương, gây dựng cơ sở , tập hợp
lực lượng, chia rẽ Đảng với nhân dân, hướng Việt Nam đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa. đối với các tầng lớp nhân dân, chúng coi trọng tác động vào trong học


sinh, sinh viên, dân cư các vùng tôn giáo, dân tộc ít người. Trong một vài tầng
lớp nhân dân và cả trong nội bộ Đảng, một số phần tử cực đoan, bất mãn, cơ hội
vầ chính trị reo rắc những quan điểm sai lầm tuyên truyền đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, bôi nhọ quá khứ tốt đẹp của Đảng, phi chính trị hoá quân đội nhân
dân và công an nhân dân.
Qua tình hình thực tế diễn biến ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nguy cơ
tan rã và mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản xuất phát từ cả hai phía: từ thủ

đoạn “ diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; từ
những sai lầm, thiếu sót trong việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
và bảo vệ Đảng. Cả hai phía này đều có sự liên quan và cùng tác động với nhau
nghưng xét đến cùng thì nguyên nhân chủ yếu là từ nội bộ Đảng. Âm mưu của
chủ nghĩa đế quốc rất thâm độc, thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt nhưng chúng nhất
định thất bại nếu đảng cầm quyền có bản lĩnh chính trị vững vàng, thống nhất về
tư tưởng và hành động, kỷ luật nghiêm minh, nội bộ trong sạch, gắn bó máu thịt
với quần chung nhân dân.
Đảng ta được tôi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
phức tạp, kế tục được truyền thông quý báu của dân tộc, đoàn kết thống nhất, độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, kiên trung bất khuất, luuon luôn tỏ rõ bản lĩnh chính
trị vững vàng, Đảng lại có đội ngũ cán bộ, đảng viên về cơ bản là tốt, nên đã đưa
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, công cuộc đổi mới đạt
được những thành tựu bước đầu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
trong Đảng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ. Đó là nhiều nơi tổ chức và kỷ luật của
Đảng còn lỏng lẻo, một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, trình
độ năng lực không theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ,
buôn lậu, ăn chơi sa đoạ có chiều hướng phát triển và có trường hợp rất nghiêm
trọng. Những tồn tại đó gây tác hại không nhỏ đến uy tín của Đảng, đến lòng tin


của nhân dân đối với Đảng, đặc biệt là tác động rất lớn đến sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
Trong nhận thức và hành động của các tổ chức Đảng, của cán bộ, đảng
viên, có những quan niệm không đúng về nhiệm vụ bảo vệ Đảng, về mối quan hệ
giữa xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng vớibảo vệ Đảng, lệch lạc hoặc
thiếu tích cực trong hành động. Không ít tổ chức Đảng cán bộ Và Đảng viên
quan niệm về bảo vệ Đảng chỉ là chống lại những hành động phá hoại của kẻ
địch mà không thấy ngăn ngừa, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong nội
bộ Đảng là một mặt rất quan trọng, có ý nghiã hàng đầu. Tình trạng mất cảnh

giác đối với âm mưu thủ đoạn “ diễn biến hoà bình” của chủ nghiã đế quốc và
các thế lực thù địch, phản động cũng như không có biện pháp cụ thể nhằm ngăn
chặn, chống lại còn khá phổ biến. Quan niệm về quốc phòng an ninh của nhiều
cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ lãnh đạo, chủ trì còn chưa đúng đắn, cho
rằng quốc phòng chỉ là chuẩn bị chống chiến tranh, an ninh là chống lại tệ nạn xã
hội, ăn cắp của công… và công việc triển khai cùng trên các bình diện đó, không
thấy yêu cầu bức xúc là chống diễn biến hoà bình và các hành động phá hoại về
chính trị của các thế lực thù địch. Cũng không ít tổ chức Đảngvà đảng viên, cán
bộ không nhận rõ mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa xây dựng sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng và bảo vệ Đảng. Tình trạng truyền đạt một chiều lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan điểm của Đảng, không kiên quyết đấu
tranh với những quan điểm mơ hồ, chống đối, thái độ bàng quang vẫn còn khá
phổ biến. Khi nghiên cứu vấn đề này rõ ràng một điều ta nhận thấy là không
nhận thức đúng và hành động trái với mối quan hệ giữa xây dựng sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng một cách đúng đắn, khoa họcthì không những không giữ
vững và tăng cường được sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, không bảo vệ được đội
ngũ cán bộ của Đảng, không xây dựng Đảng vững mạnh mà còn phá hoại Đảng.
Đấu tranh ngăn chặn khắc phục hiện tượng mất đoàn kết trong Đảng không thể


không đề phòng kẻ địch lợi dụng bôi nhọ Đảng, chế độ, kích động quần chúng,
nhưng không vì thế mà nương nhẹ, thiếu kiên quyết, tích cực, có tổ chức đảng,
đảng viên không thấy xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong Đảng là yếu tố quyết
định là yếu tố quyết định để tăng cường khả năng đề kháng, lấy việc tự bảo vệ
mình là chính.
Sự nghiệp đổi mới của chúng ta hôm nay là một cuộc cách mạng đầy gian khổ,
khó khăn và phức tạp. Muốn cuộc cách mạng đó thành công tốt đẹp, lúc này hơn
lúc nào hết phải phát huy được đầy đủ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền
thống đoàn kết nhất trí trong Đảng. Chúng ta phải làm hết sức mình, giữ gìn và
tăng cường khối đoàn kết thống nhất giũa Đảng với nhân dân. Chúng ta đề cao sự

đoàn kết thống nhất nhưng đó không phải là sự đoàn kết thống nhất mang tính
hình thức, một chiều, nể nang, không dám đấu tranh, hoặc đoàn kết theo kiểu
phường hội mà là đoàn kết thống nhất có đấu tranh, có nguyên tắc. Không nên
đồng nhất việc trong Đảng có những ý kiến khác nhaukhi thảo luận trong tổ chức
với tình trạng mất đoàn kết. Những vấn đề có tính nguyên tắc và kinh nghiệm cơ
bản làm cho chúng ta có được khối đoàn kết thống nhất trong sáng lành mạnh là:
Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối quan điểm của Đảng. Nghĩa là chúng ta phải nắm chắc bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; nắm chắc cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối chính sách của Đảng.
mọi suy nghĩ và hành động trái với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởgn Hồ Chí Minh, không phù hợp với đường lối, quan điểm của
Đảng, phải kiên quyết đấu tranh để loại trừ. Chỉ có như thế thì đoàn kết thống
nhất mới có cái nền vững chắc và cơ sở để tồn tại lâu dài.
Đoàn kết thống nhất phải trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ. Muốn
phát huy trí tuệ và sự sáng tạo của cán bộ, đảng viên, phải mở rộng dân chủ trong


xã hội nói chung và trong Đảng nói riêng. Nhưng dân chủ rộng rãi không thể tách
rời tâp trung nghiêm ngặt, bởi vì chỉ có như vậy mới đi đến hành động thống
nhất. Một trong những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ là htiểu số
phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên,các tổ
chức trong toàn Đảng phục tùng Ban chấp hành Trung ương và Đai hội toàn
quốc của Đảng. Những quyết định thuộc thẩm quyền của tập thể phải biểu quyết
theo đa số; mọi thành viên phải chấp hành theo quyết định của tập thể. Thực hiện
tốt tự phê bình và phê bình trong Đảng. nét đặc trưng của tự phê bình và phê bình
trong Đảng là trung thực, thẳng thắn và chân thành. Phê bình không phải là xỉ vả
xúc phạm danh dự của nhau, mà là để giúp đỡ nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp
nhâu tiến bộ và để đoàn kết tốt hơn. Phương pháp tự phê bình và phê bình là có

tình có lý, cổ vũ nhâu phát huy ưu điểm, chỉ cho nhau những khuyết điểm, nhược
điểm cần khắc phục. Thái độ tự phê bình và phê bình là phải tôn trọng sự thật,
tôn trọng lẽ phải, chống bao chê hoặc thổi phồng bóp méo sự thật. Biết phân tích
ưu điểm, khuyết điểm của nhau theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
cụ thể.
Xây dựng cho được bộ phận lãnh đạo chủ chốt của mỗi cấp, mỗi nghành,
mỗi đơn vị có năng lực và phẩm chất tốt, bảo đảm thật sự là trung tâm đoàn kết ở
cấp đó, nghành đó và đơn vị đó. Thực tế cho thấy, một khi các thành viên cơ
quan lãnh đạo mà không nhất trí, quay lưng lại với nhau, không hợp tác, nói xấu
nhau thì sự rã rời của tổ chức sẽ xảy ra. Kinh nghiệm khắc phục căn bệnh mất
đoàn kết ở một số nơi trong nhiều năm quacũng chỉ rõ, vấn đề cốt tử là phải tìm
cho đúng, cho đầy đủ những nguyên nhân gây mất đoàn kết. Khi đã tìm đúng
nguyên nhân thì phải xử lý kịp thời, nghiêm khắc nhưng có lý có tình, với
phương châm trị bệnh cứu người. Phải thay đổi ngay những cán bộ không đáp
ứng được yêu cầu, bổ xung, đề bạt kịp thời những cán bộ tốt; đồng thời có chế
đọ, chính sách đãi ngộ thoả đáng để động viên cán bộ an tâm công tác. Đường lối


đỏi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng
đắn. Đó là cơ sở vững chắcbảo đảm cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và
trong toàn dân. Mặt khác, chỉ có giữ vững được sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng thì Đảng mới có điều kiện để hoạch định được một đường lối đúng; mới
đưa được đường lối đó vào cuộc sống và biến nó thành hành động cách mạng của
lực lượng quần chúng đông đảo.
Kinh nghiệm thực tiễn trong điều kiện Đảng có chính quyền ở nước ta và
nhiều nước anh em trên thế giới cho thấy, để giữ gìn và củng cố khối đoàn kết
thống nhất vững chắc trong Đảng, cần phải chú ý giải quyết tốt những vấn đề sau
đây:
Phải kiên quyết chống chủ nhĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội.
Khi một Đảng đã có chính quyền thì thường mất đi sự tự nhiên, mặt khác, sức

hấp dẫn của đảng cầm quyền lại lớn, nên bọn cơ hội thường tìm mọi cách chui
vào Đảng. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc tư tưởng của chủ nghiã cơ hội. Sự rạn
nứt đi đến tan rã là xu hướng của một tổ chức trong đó có sự hoạt động củachủ
nghiã vô chính phủ. Giữa chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa vô chính phủ có quan hệ
biện chứng với nhau. Chủ nghĩa vô chính phủ là một biểu hiện của chủ nghĩa cơ
hội về mặt hình thức. Bè phái, phe nhóm là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa cơ hội
trong Đảng. Đại hội lần thứ V của Đảng ta đã chỉ ra rằng: “ Bè phái chính là đặc
trưng của chủ nghĩa cơ hội”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã rút ra kết luận rằng,
do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần
trách nhiệm.
Trong Đảng có sự khác nhau về ý kiến, về chủ trương, biện pháp vv…
Đây kà điều bình thường, nhất là trước những bước ngoặt của lịch sử. Đảng phải
biết chờ đợi, bình tĩnh dân chủ để giải quyết những ý kiến khác nhau đó, không
để được phát triển thành ý kiến bất đồng, xung đột cá nhân. Khi Đảng cầm quyền
rất nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra, đòi hỏi Đảng phải giải quyết, vì vậy, so với giai


đoạn trước,lúc này ý kiến khác nhau ở trong Đảng thường nhiều hơn và đa dạng
hơn. Vấn đề quan trọng là Đảng phải có biện pháp tốt để giải quyết, không thể
cho những ý kiến khác nhau đó trở thành nguồn gốc tư tưởng gây nên chia rẽ về
mặt tổ chức.
Đảng phải xoá bỏ tình trạng đặc quyền đặc lợi về điều kiện sinh hoạt và
các chế độ đãi ngộ khác trong Đảng. Lênin coi tình trạng đặc quyền, đặc lợi là: “
nguồn gốc gây nên sự tan rã trong Đảng và làm uy tín các đảng viên cộng sản bị
giảm sút”. Bất bình đẳng về lợi ích không thể tạo nên được sự thống nhấtvề tư
tưởng cũng như hành đọng. Ăngghen nói rằng: “ ở đâu không có lợi ích chung
thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống
nhất về hành động được”.
Đảng phải quan tâm xây dựng một đường lối, chính sách đúng, cơ chế tổ
chức hợp lý, quy chế làm việc rõ ràng, phong cách dân chủ, kiên quyết chống

bệnh quan liêu, gia trưởng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu thiếu những điều kiện
đó thì ở đó thiếu sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Đường lối đúng là cơ sở
của sụ đoàn kết thống nhất, ngược lại, đường lối sai là nguồn gốc của sự phân
tán, chia rẽ. Cơ chế đúng bảo đảm cho bộ máy tổ chức vận hành thống nhất;
ngược lại, cơ chế tạo nên sự bao biện và cả những kẽ hở làm cho hành động
không thống nhất. Chủ nghĩa quan liêu, gia trưởng, mất đoàn kết, mất dân chủ
không thể tạo được bầu không khí cởi mở, hoà đồng, thân ái trong tập thể.
Đảng cần có những biện pháp đặc biệt kiên quyết để sử lý những vụ mất
đoàn kết. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Nga lần thứ X, Lênin đã đòi khai trừ ngay
lập tức những phần tử bè phai, kể cả những người đó là uỷ viên Trung ương
Đảng. Tình trạng nương nhẹ, ô dù, cá nhân chỉ làm cho vấn đề mất đoàn kết thêm
kéo dài và uy tín của tổ chức đảng thêm giảm sút.
Xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc là quy luật trưởng thành của
một Đảng Cộng sản cách mạng chân chính. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ


×