Tải bản đầy đủ (.pdf) (277 trang)

Phát triển các tập đoàn kinh tế ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 277 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2010
MÃ SỐ: B.10 - 05

Tên đề tài:

PHÁT TRIỂN CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Cơ quan chủ trì:

Viện Kinh tế

Chủ nhiệm đề tài: ThS Hồ Thị Hương Mai
Thư ký đề tài:

ThS Đinh Thị Nga

8552
Hà Nội, 2010


LỰC LƯỢNG NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

ThS Phùng Lê Dung

Viện Kinh tế

Nguyễn Việt Hà



Đại học Luật Hà Nội

TS Nguyễn Thị Hường

Viện Kinh tế

TS Bùi Văn Huyền

Viện Kinh tế

TS Đặng Ngọc Lợi

Viện Kinh tế

ThS Nguyễn Thị Miền

Viện Kinh tế

ThS Trương Thị Mỹ Nhân

Vụ Kế hoạch – Tài chính

Nguyễn Quang Thử

Sở Công thương tỉnh Quảng Nam

Vũ Hải Yến

Đại học Luật Hà Nội



CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
Các công ty xuyên quốc gia:

TNCs

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:

CNH, HĐH

Doanh nghiệp:

DN

Doanh nghiệp nhà nước:

DNNN

Khoa học công nghệ:

KHCN

Kinh tế thị trường :

KTTT

Quản lý nhà nước:

QLNN


Sở hữu nhà nước:

SHNN

Tập đoàn kinh tế:

TĐKT

Tập đoàn kinh tế nhà nước:

TĐKTNN

Tổng công ty:

TCT

Tổng công ty nhà nước:

TCTNN

Xã hội chủ nghĩa:

XHCN


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong thời gian gần đây, dư luận trong cả nước đang hết sức bức xúc về

tình hình điện ở nước ta, về tình trạng than bị khai thác theo cách tàn phá môi
trường và xuất khẩu lậu hàng chục triệu tấn mỗi năm, và đặc biệt về cung
cách cấp, sử dụng vốn và quản lý của Nhà nước dẫn tới thua lỗ nặng nề của
Tập đồn Cơng nghiệp tàu thủy (Vinashin)1, về hoạt động của các Tổng công
ty (TCT) trên lĩnh vực thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán.., về
nhiều yếu kém lớn khác: "Trong nhiều trường hợp là sự lũng đoạn của các tập
đồn và Tổng cơng ty (TCT) 91 & 90 và sự dính líu sâu của các cơ quan chức
năng, về nguy cơ bên ngoài lợi dụng những yếu kém này can thiệp vào nước
ta"2.
Với tác động tới tồn bộ hoạt động của nền kinh tế nên mơ hình và hoạt
động của các Tập đồn kinh tế (TĐKT) ở Việt Nam ngày càng thu hút được sự
quan tâm của giới nghiên cứu, của các nhà hoạch định chính sách, điều hành
thực tiễn và của mỗi người dân trong xã hội. Do đó, sẽ khơng ngạc nhiên khi
thấy rằng các quyết định kinh doanh của TĐKT như việc tăng giá điện, giảm
giá xăng... thường thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, của các phương
tiện truyền thông, là chủ đề của rất nhiều các cuộc hội thảo hoặc tranh luận với
quy mô khác nhau, từ những cuộc tọa đàm nhỏ đến tranh luận ở Quốc hội.
Tương tự như vậy, tần suất xuất hiện của các diễn biến kinh tế có liên quan đến
TĐKT chiếm tỷ trọng rất lớn trên các phương tiện truyền thơng3.
Nhìn nhận từ góc độ mơ hình tổ chức sản xuất trong nền kinh tế, TĐKT
thực chất cũng giống như các mơ hình tổ chức sản xuất kinh doanh khác
(doanh nghiệp (DN) tư nhân, cơng ty cổ phần (CTCP), cơng ty có vốn đầu tư
1

Vinashin được Chính phủ cho vay lại 750 triệu USD từ việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường
chứng khốn Singapore. Tập đồn này tiếp tục được Chính phủ bảo lãnh vay 2 tỷ USD. Hiện nay tổng sô nợ
của Vinashin là khoảng 86.000 tỷ đồng.
2
Nguyễn Trung (2008), Cải cách tập đoàn nhà nước và một chữ DÁM,
3

Tập đoàn Điện lực Việt Nam yêu cầu Tập đoàn Bưu chính Viễn thơng trả tiền th cột điện một lần nữa cho
thấy những xung đột về quyền lợi làm phương hại đến lợi ích của cả người tiêu dùng và Nhà nước.

1


nước ngoài, hợp tác xã...) nhưng tại sao chúng lại được quan tâm đặc biệt như
vậy? Phải chăng vì quy mô lớn và mức độ ảnh hưởng sâu rộng của chúng đến
cả nền kinh tế? Hay do chúng tạo nên thương hiệu quốc gia, sức mạnh kinh tế
của quốc gia với nguồn lực tài chính khổng lồ, quy mơ hoạt động tồn cầu, đội
ngũ lao động đơng đảo, các các sản phẩm có tính cạnh tranh cao? Hay là nhân
tố chứa đựng những nguy cơ khủng hoảng hiện nay? Do chúng có quan hệ mật
thiết với Chính phủ? Do chúng nắm giữ tài nguyên quốc gia và những ngành
độc quyền?... Về mặt lý thuyết, các yếu tố nêu trên là những lý do thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và giới lãnh
đạo của mọi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tính cấp thiết của
chủ đề này cịn là việc các TĐKT lớn chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước (SHNN),
chúng nắm giữ "hợp pháp" nhiều nguồn tài nguyên quốc gia và nguồn lực tài
chính thuộc SHNN.
Mặc dù có những mặt trái, những tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nhưng với mơ hình kinh doanh lớn, các TĐKT vừa là sản phẩm tất yếu của
nền kinh tế thị trường (KTTT), vừa cần thiết phải phát triển chúng nếu muốn
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của DN và của cả nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để khai thác những mặt tích cực, hạn chế và
kiểm sốt hữu hiệu những tác động khơng mong đợi của mơ hình này đến nền
kinh tế. Đây là câu hỏi không dễ trả lời trong các giai đoạn phát triển khác
nhau của các nền kinh tế với những đặc thù riêng. Sự cấp thiết về mặt lý luận
đòi hỏi cần nghiên cứu sự phát triển tất yếu của mơ hình này.
Dù muốn hay khơng, về mặt lý luận thì sự phát triển TĐKT là tất yếu, do
đó cần nghiên cứu thấu đáo mơ hình kinh doanh này trong điều kiện nền KTTT

định hướng XHCN ở Việt Nam nhằm bổ sung về mặt lý luận, tạo lập căn cứ
vững chắc để phát triển chúng trên thực tiễn.
Nếu như lý luận chỉ ra sự tồn tại và phát triển tất yếu của các TĐKT thì
sự kiểm nghiệm của thực tiễn là hết sức sống động. Sự tồn tại, phát triển mạnh
của các TĐKT thời gian qua cùng với hiệu quả kinh tế nhờ quy mô là căn cứ
vững chắc cho mơ hình này ở các nền kinh tế phát triển. Trong giai đoạn hiện
2


nay, mức độ ảnh hưởng của các TĐKT đến nền kinh tế thế giới ngày càng sâu
sắc, là nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững, đồng thời cũng là nguy cơ gây
bất ổn, thậm chí dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế tồn cầu. Có thể nói, sức
mạnh của các TĐKT không chỉ là một trong những tiêu chí quan trọng nói lên
sức cạnh tranh quốc gia và sức mạnh của quốc gia đó mà cịn bao hàm những
nguy cơ bất ổn nếu chúng vượt tầm kiểm soát. Việc sụp đổ hàng loạt tập đồn
tài chính hàng đầu thế giới ở Hoa Kỳ và Châu Âu, việc 3 tập đồn ơ tơ lớn nhất
Hoa kỳ là General Motors; Ford Motors và Chrysler bên bờ vực phá sản; ngay
cả tập đồn truyền thơng lừng danh Tribune Co. với 161 năm tồn tại, hiện
quản lý 8 tờ nhật báo lớn trong đó có Los Angeles Times, Chicago Tribune,
Baltimore Sun… và 23 đài truyền hình đã đệ đơn phá sản là minh chứng sống
động.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, việc Chính phủ quyết định thành lập
một số tập đồn trong thời gian qua không phải là là biện pháp mang tính cá
biệt của Việt Nam. Chính phủ các quốc gia Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,
Braxin, Venezuela và đặc biệt là Trung Quốc đã từng đầu tư xây dựng các mơ
hình kinh doanh qui mô lớn thuộc SHNN với những tên gọi khác nhau và kết
quả rất khả quan. Tuy nhiên, ngay cả khi 8 tập đoàn đã đi vào hoạt động4, khi
mà Thủ tướng nhấn mạnh trọng trách của tập đồn trong bối cảnh suy thối
kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh thì giới nghiên cứu và những
người làm thực tiễn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí cịn có thể thấy được

sự khác nhau giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của tập đồn.
Như vậy, nghiên cứu về các TĐKT khơng chỉ là vấn đề bức xúc của lý
luận mà còn là đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn vận hành nền kinh tế Việt Nam
trong thời gian qua và những yêu cầu mời trong thời gian tới.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

2.1. Các cơng trình nghiên cứu TĐKT nước ngồi
Các cơng trình nghiên cứu về TĐKT của các tác giả ngồi nước tập
4

Bao gồm: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thơng, Than – Khống sản, Dệt may, Cơng nghiệp cao su,
Cơng nghiệp tàu thủy, Tài chính – Bảo hiểm.

3


trung lý giải những nội dung về xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh doanh
theo dạng đưa ra các mơ hình lý thuyết. Những tài liệu thực tiễn thường là
những bản Báo cáo thường niên của các tập đoàn riêng lẻ. Hơn nữa, các tác giả
thường căn cứ vào thực tiễn các tập đoàn của nước họ để tổng kết, luận giải.
Điển hình là các cơng trình sau: cuốn sách của Trung Quốc “Bàn về cải cách
toàn diện DNNN” của tác giả Trương Văn Bân (1999), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả tập trung phân tích q trình cải cách
hệ thống DNNN (DN quốc hữu) ở Trung Quốc trên nhiều khía cạnh khác nhau
như sở hữu, chủ thể quản lý …. Trong đó, định hướng hình thành tập đồn từ
các DNNN được đề cập như một giải pháp cải cách; Hai cuốn sách của tác giả
Kornai Janos: Hệ thống XHCN (2002), NXB Văn hố thơng tin và cuốn Con
đường dẫn đến nền KTTT (2001), NXB Hội tin học Việt Nam, Hà Nội đã
“phẫu thuật” rất chi tiết, có hệ thống về kinh tế các nước chuyển đổi, trong đó
lấy kinh tế Hungari làm nội dung trọng tâm trong phân tích. Kornai tập trung

cơng sức của mình cho vấn đề sở hữu, thể chế quản lý …. Định hướng phát
triển các tổ chức kinh doanh qui mơ lớn được tác giả nhìn nhận như một giải pháp
qua lăng kính cải cách sở hữu; các bài viết, thông tin trên trang thông tin điện tử
của các TĐKT cụ thể và trên trang chính thức của hai tạp chí nổi tiếng Fortune
() và Businessweek () cung
cấp khá đầy đủ, cập nhật các thông tin liên quan đến những TĐKT hàng đầu
thế giới trên các mặt như doanh thu, lợi nhuận, lao động, lĩnh vực kinh doanh
... cùng với những bài phân tích của các chuyên gia trên từng lĩnh vực cụ thể.
Cơng trình nghiên cứu của tập thể tác giả Rapld Nander, Mark Green và
Joel Seligman (1976) với tiêu đề Thuần phục các tập đoàn lớn, New York w.
Norton đã khảo sát các tập đoàn lớn tại Mỹ và chỉ rõ những tác động bất lợi
của mơ hình này đối với hoạt động của tồn bộ nền kinh tế, đối với cổ đơng,
với chính phủ, với công nhân và mỗi người dân trong xã hội.... Một nghiên
cứu của Milton Friedman (1962) với tiêu đề Độc quyền và trách nhiệm xã hội
của các DN và người lao động được in trong cuốn Chủ nghĩa tư bản và tự do,
Đại học Chicago, đã phân tích sâu sắc về cấu trúc độc quyền và cách thức
chiếm lĩnh độc quyền của các tập đồn lớn ở Mỹ. Cơng trình này cũng nhấn
4


mạnh nguồn gốc độc quyền của các tập đoàn sinh ra từ quyền lực kinh tế và
mối quan hệ với chính trị.
Nghiên cứu của Ansel M.Sharp, Chales A.Register, Paul W.Grimes
(2005), Kinh tế học trong kinh doanh tập đoàn – Ai làm gì cho ai?, NXB Lao
động, Hà Nội đã tập trung phân tích quan điểm chung về kinh doanh tập đồn
và cách thức hoạt động của mơ hình này. Nghiên cứu chỉ rõ sự chi phối của
một số tập đoàn khổng lồ đối với hoạt động kinh tế quốc gia; sự thiếu hụt sản
lượng được xem là cách thức hạn chế đầu ra nhằm tăng giá và mức giá của
mỗi sản phẩm trong tập đoàn được ấn định dựa trên quyền lực độc quyền.
Ngoài các tác giả là người nước ngồi, một số cơng trình tiêu biểu của

các tác giả Việt Nam nghiên cứu về TĐKT nước ngồi có thể kể đến bao
gồm:
Lê Văn Sang - Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nội
dung cuốn sách tập trung phân tích nguồn gốc hình thành, các hình thức tồn
tại và mơ hình chiếm lĩnh, khai thác thị trường của các công ty xuyên quốc
gia. Những nội dung nêu trên vừa được phân tích chuyên sâu, tìm kiếm bản
chất, vừa đặt chúng trong bối cảnh mới – ngưỡng cửa của thế kỷ XXI.
Đề tài KHXH 06-05 Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên
quốc gia và đa quốc gia trên thế giới. Chính sách của ta, Chương trình KHCN
cấp nhà nước 06 (Giai đoạn 1996-2000) do tác giả Nguyễn Thiết Sơn làm chủ
nhiệm được xuất bản thành sách5 cung cấp cho người đọc những kiến thức sâu
về đặc điểm, bản chất, vai trị của các cơng ty xun quốc gia và đa quốc gia
trên thế giới, phân tích hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Mỹ, Nhật
Bản, Tây Âu, hoạt động của chúng ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm, đối sách phù hợp nhằm thu hút và phát huy tác động tích cực của chúng
đối với nền kinh tế Việt Nam.
Cuốn sách Tập đoàn kinh tế - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng
5
Cuốn sách có tiêu đề: Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên), Các công ty xuyên quốc gia – Khái niệm, đặc trưng và
những biểu hiện mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.

5


vào Việt Nam (2005) của tác giả Trần Tiến Cường (chủ biên). Nội dung cuốn
sách đề cập khá bao quát những nội dung xung quanh TĐKT, từ quan niệm,
phương thức hình thành, nguyên tắc và điều kiện hình thành đến các mơ hình
tập đồn trên thế giới. Cuốn sách cũng đề cập những vấn đề từ vĩ mô đến vi
mô, từ tổng thể đến các biện pháp cụ thể ... nhằm vận dụng vào hình thành,

phát triển TĐKT ở Việt Nam.
Luận án của tác giả Hồng Thị Bích Loan, Các công ty xuyên quốc gia
của một số nền kinh tế cơng nghiệp mới (NIEs) châu Á, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001. Tác giả luận án phân tích đặc thù của
q trình hình thành, phát triển các công ty xuyên quốc gia của NIEs châu Á
và vai trị của nó trong phát triển kinh tế với điển hình lựa chọn là Hàn Quốc,
Đài Loan, Hồng Kơng, Singapore, trên cơ sở đó đề xuất một số gợi ý với Việt
Nam về phát triển các công ty xun quốc gia của mình và thu hút các cơng ty
xuyên quốc gia châu Á trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tạo tiền đề để
định hướng XHCN nền kinh tế.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về mơ
hình và hoạt động của TĐKT nước ngồi đều có định hướng rõ ràng là trên cơ
sở phân tích mơ hình, cơ chế hoạt động, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ giữa tập
đồn với chính phủ... nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng
trong quá trình xây dựng và phát triển TĐKT ở Việt Nam.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu TĐKT ở Việt Nam
Các cơng trình nghiên cứu trong nước cũng đã đề cập nhiều khía cạnh
xung quanh TĐKT. Tuy nhiên, số lượng các cơng trình quy mơ lớn với những
nghiên cứu chun sâu cịn hạn chế. Một số cơng trình tiêu biểu gồm:
- Cuốn sách Thành lập và quản lý các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
(1996) của tác giả Nguyễn Đình Phan, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội được
xuất bản trên cơ sở đề tài khoa học có thể nói là cuốn sách đầu tiên kể từ khi
các TCT được thành lập theo Quyết định 90 và 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ
tướng Chính phủ. Tại thời điểm 1996, tác giả đã có nhiều ý tưởng mới và hiện
đã, đang được thực hiện. Giá trị của cuốn sách cho đến nay là cung cấp cho
6


người đọc ý tưởng nghiên cứu cũng như cách tiếp cận và giải quyết một vấn đề
thực tiễn đặt ra.

- Cuốn sách Mơ hình Tập đồn kinh tế trong CNH, HĐH (2002) của tác
giả Vũ Huy Từ (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Với nội dung gần
300 trang được chia làm 2 phần, 6 chương, cuốn sách đã giải quyết khá nhiều
nội dung về TĐKT: Từ cơ sở lý luận, kinh nghiệm, nhân tố tác động đến sự
phát triển các tập đồn trên thế giới đến hình thành và tổ chức quản lý tập đoàn
ở Việt Nam. Cách tiếp cận và giải quyết vấn đề của tác giả theo lơ gíc từ lý
luận đến thực tiễn hình thành mơ hình này ở Việt Nam và phân tích các TCT
như một “nhân tố nền tảng”, trên cơ sở đó tìm kiếm các giải pháp quản lý nhà
nước (QLNN) đối với mơ hình này.
- Cuốn sách Tập đồn kinh tế và một số vấn đề về xây dựng tập đoàn
kinh tế ở Việt Nam của tác giả Minh Châu (2005), Nxb Bưu Điện, Hà Nội. Nội
dung cuốn sách trên cơ sở trình bày những vấn đề chung về TĐKT, kinh
nghiệm phát triển TĐKT ngành bưu chính viễn thơng ở một số quốc gia; những
nội dung liên quan đến tập đồn hóa DN; kinh nghiệm và bài học phát triển tập
đồn DN của Trung Quốc ...., qua đó, tác giả đề xuất định hướng về xây dựng
TĐKT ở Việt Nam. Riêng phần giải pháp, tác giả chỉ đề xuất đối với xây dựng
tập đồn Bưu chính Viễn thơng, các tập đồn khác khơng được đề cập cụ thể.
- Cuốn sách Xây dựng và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, của tác
giả Bùi Văn Huyền (2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn
sách không chỉ trình bày tổng quát những vấn đề lý luận, thực tiễn của sự hình
thành và phát triển tập đồn mà một dung lượng không nhỏ của cuốn sách đã
được dành để phân tích thực trạng hoạt động của một số tổ hợp kinh doanh - cơ
sở để hình thành các TĐKT ở Việt Nam. Trên cơ sở những đánh giá một cách
khoa học về hoạt động của các tổ hợp kinh doanh đó, tác giả cuốn sách đã đề
ra các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển các TĐKT ở Việt Nam.
Ngồi ra, cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở các quy mô khác nhau
bàn về TĐKT. Chủ đề này còn thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các
tác giả, các tổ chức nước ngoài. Mặc dù số lượng các cơng trình nhóm này
7



khơng nhiều và chưa có những cơng trình độc lập cho riêng mơ hình TĐKT ở
Việt Nam nhưng trong các báo cáo phân tích, khuyến nghị chính sách, các tác
giả ln đề cập tới các tập đồn như một nội dung cần quan tâm đặc biệt trong
hoạch định và thực thi chính sách. Tiêu biểu trong các nghiên cứu này có thể kể
đến:
- Báo cáo Chiến lược cải cách ngành điện (2005), Chiến lược cải cách
ngành viễn thơng (2005), nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) tập
trung phân tích cấu trúc ngành và cơ chế xác định giá thành sản phẩm, qua đó
khuyến nghị chính phủ cần nỗ lực tái cấu trúc ngành bằng việc xây dựng cơ chế
cạnh tranh. Mặc dù mơ hình tập đồn điện lực Việt Nam (EVN) và Tập đồn
Bưu chính viễn thơng (VNPT) khơng được nghiên cứu trực tiếp nhưng các
khuyến nghị chính sách hướng vào cải cách 2 tập đoàn này theo hướng thúc
đẩy cổ phần hóa, giảm độc quyền trong kinh doanh.
- Trong các Báo cáo của Đại học Harvard, TĐKT luôn được đề cập như
một phần tất yếu của cải cách cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và
được ưu tiên trong khuyến nghị chính sách.
- Khảo sát của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đối với
200 DN lớn nhất Việt Nam, theo đó, các DN này mới chỉ bằng DN vừa và nhỏ
của thế giới xét theo các tiêu chí chủ yếu như vốn, doanh thu, lao động, lợi
nhuận... Báo cáo phân tích dựa trên kết quả khảo sát cũng cho thấy, các DN
lớn, các TĐKT thiếu một chiến lược phát triển rõ ràng và dài hạn, thay vào đó
là xu hướng đầu tư ngắn hạn vào các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bất
động sản....Mặc dù số lượng các cơng trình của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài nghiên cứu về TĐKT Việt Nam không nhiều, song đây là những ý kiến
đánh giá thẳng thắn, độc lập, tập trung phân tích những mặt trái của mơ hình
tập đồn và những nguy cơ có thể xảy ra nếu Chính phủ khơng có những biện
pháp quản lý kịp thời. Đây là những cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo
tốt trong nghiên cứu cũng như hoạch định và thực thi chính sách.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu ngồi nước có đề cập đến những

vấn đề lý luận và thực tiễn của TĐKT nhưng không thể áp dụng như một công
8


thức trong điều kiện Việt Nam. Các cơng trình nghiên cứu trong nước đề cập
đến nhiều khía cạnh với các cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên,
thực tiễn vận động của nền kinh tế cũng như các TĐKT địi hỏi cần tiếp tục có
những nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này.
3. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

- Mục tiêu chung: Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về TĐKT; qua
kinh nghiệm thành công và thất bại của một số TĐKT trên thế giới; từ những
phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các TĐKT ở Việt Nam, đề tài
tìm kiếm nguyên nhân của những hạn chế, trên cơ sở đó xác định phương
hướng và đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển các TĐKT trong thời
gian tới.
- Mục tiêu cụ thể:
a/ Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TĐKT trên các nội dung cụ
thể như: Tính tất yếu khách quan hình thành và phát triển mơ hình kinh doanh
quy mơ lớn (gọi chung là TĐKT), đặc điểm, vai trò...
b/ Đánh giá thực trạng phát triển các TĐKT ở Việt Nam, rút ra những kết quả
đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
c/ Xác định phương hướng và giải pháp phát triển các TĐKT ở Việt Nam
trong giai đoạn tiếp theo.
- Phạm vi nghiên cứu: TĐKT có nhiều chế độ sở hữu khác nhau, trong đó có
TĐKTNN, TĐKT tư nhân, TĐKT hỗn hợp…Trong phần lý luận, đề tài sẽ
nghiên cứu TĐKT nói chung, cịn trong phần thực trạng và giải pháp sẽ tập
trung chủ yếu nghiên cứu TĐKTNN.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


- Phương pháp luận: Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, bám sát chủ trương, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước về đổi mới, phát triển khu vực DNNN, TCTNN, TĐKT.
- Phương pháp cụ thể: Do việc tiếp cận trực tiếp hệ thống tư liệu, số liệu của
9


các TĐKT hết sức khó khăn và trong nhiều trường hợp là khơng chính xác.
Do đó, để đạt mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, mơ hình hố, lấy ý kiến chun gia...
Trong đó, đề tài chú ý sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (dựa trên
tài liệu thu thập được) và nghiên cứu định lượng (dựa trên các nguồn số liệu),
kết hợp các kỹ thuật thu thập và xử lý thông tin khác nhau.
5. KẾT CẦU CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu gồm 03 chương.

10


1 CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1.1. Khái niệm tập đoàn kinh tế
TĐKT là sản phẩm khách quan của nền KTTT, vì vậy, có thể nói, sự ra
đời TĐKT chính là biểu hiện cụ thể của sự phát triển kinh tế. Ngay từ đầu thế
kỷ 20, ở các nước tư bản đã hình thành những TĐKT xuyên quốc gia, các
TĐKT này phát triển lớn mạnh và trở thành một trong những nhân tố quan

trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hiện có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm “TĐKT”
và chưa có một khái niệm nào được xem là chuẩn mực. Vì thế trong phạm vi
nghiên cứu này, chúng tơi chỉ giới thiệu một số khái niệm để từ đó có cái nhìn
khái qt và tồn diện nhất về “TĐKT”.
Theo bách khoa tồn thư Wikipedia tiếng Anh thì TĐKT được hiểu “là
một thực thể pháp lí, mà trong khi được sở hữu chung bởi một số người tự
nhiên hoặc những thực thể pháp lí khác có thể tồn tại hồn toàn độc lập khỏi
chúng, sự tồn tại độc lập này mang lại cho TĐKT những quyền riêng mà
những thực thể pháp lí khác khơng có. Qui mơ và phạm vi về khả năng và tình
trạng của TĐKT có thể được chỉ rõ bởi luật pháp nơi sáp nhập”. Theo từ điển
Business English of Longman thì “TĐKT (Group of company) là một tổ hợp
các công ty độc lập về mặt pháp lý nhưng tạo thành một tập đồn gồm một
Cơng ty mẹ và một hay nhiều Công ty con hoặc chi nhánh góp vốn cổ phần,
chịu sự kiểm sốt của Cơng ty mẹ vì Cơng ty mẹ chiếm 1/2 vốn cổ phần”.
Nhiều nhà kinh tế cũng đã đưa ra nhiều khái niệm TĐKT; ví dụ:
“TĐKT là một tập hợp các cơng ty hoạt động kinh doanh trên các thị trường
khác nhau dưới sự kiểm sốt về tài chính hoặc quản trị chung, trong đó các
thành viên của chúng ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ tin cậy lẫn
nhau trên cơ sở sắc tộc hoặc bối cảnh thương mại” (Leff, 1978); “TĐKT là
một hệ thống công ty hợp tác thường xuyên với nhau trong một thời gian dài”
11


(Powell & Smith- Doesrr, 1934); “TĐKT dựa trên hoạt động cung ứng sản
phẩm dịch vụ thông qua mối ràng buộc trung gian, một mặt ngăn ngừa sự
liên minh ngắn hạn ràng buộc đơn thuần giữa các công ty, mặt khác ngăn
ngừa một nhóm cơng ty sáp nhập với nhau thành một tổ chức duy nhất”
(Granovette, 1994)6.
Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến “TĐKT” người ta thường

sử

dụng các từ

như: “Conglomerate”, “Cartel”, hay “Group”.

“Conglomerate” là sự kết hợp của hai hay nhiều DN trong các lĩnh vực kinh
doanh khác nhau thành một cấu trúc thống nhất, thường bao gồm một Công ty
mẹ và nhiều Công ty con. “Conglomerate” thường lớn và là tập đoàn xuyên
quốc gia (hoạt động, cung cấp dịch vụ tại nhiều quốc gia). “Cartel” là một
nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung
bằng cách kiểm sốt giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc các biện pháp
hạn chế khác. Đặc trưng tiêu biểu trong hoạt động của Cartel là việc kiểm soát
giá bán hàng hoá, dịch vụ nhưng cũng có một số Cartel được tổ chức nhằm
kiểm soát giá mua nguyên vật, liệu đầu vào. Ở châu Á, người Nhật gọi TĐKT
là “Keiretsu” hoặc “Zaibatsu” ; Zaibatsu để chỉ những tập đồn cơng nghiệp
và tài chính trong thời kỳ đế quốc Nhật mà quy mô và tầm ảnh hưởng của
chúng có thể kiểm sốt nền kinh tế Nhật Bản từ thời kỳ Minh Trị cho đến khi
kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Còn người Hàn Quốc lại gọi TĐKT là
“Cheabol”. Các Chaebol được hình thành bao gồm nhiều cơng ty có mối quan
hệ liên kết về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong
hoạt động. Nhiều Cheabol nhận được sự ủng hộ và sự giúp đỡ về tài chính từ
Chính phủ đã trở thành các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như: Samsung,
Hyundai và LG7. Chaebol và Keiretsu khác nhau ở một số điểm cơ bản như
sau:
- Chaebol thường được kiểm sốt bởi một gia đình hoặc một nhóm ít
gia đình, trong khi Keiretsu được điều hành bởi các nhà quản lý chuyên

1
7


6
/> />
12


nghiệp.
- Ở Chaebol quyền lực được tập trung trong tay chủ sở hữu, trong khi
Keiretsu có sự phân quyền nhiều hơn.
- Chaebol thường dựa vào sản xuất các bộ phận để xuất khẩu, trong
khi các tập đoàn lớn của Nhật thường th nhà thầu nước ngồi
- Chaebol khơng được phép sở hữu ngân hàng riêng, nhằm mục đích
tăng cường sự tác động của Chính phủ đối với các ngân hàng trong lĩnh vực
tín dụng. Cịn Keiretsu đã từng làm việc với các ngân hàng liên kết, cho phép
các công ty liên kết có thể tiếp cận khơng hạn chế với tín dụng8. Mỗi Keiretsu
lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm, ngân hàng này cung cấp tín
dụng cho các công ty thành viên của Keiretsu và nắm giữ vị thế về vốn trong
các công ty. Mỗi ngân hàng trung tâm có vai trị kiểm sốt rất lớn đối với các
công ty trong Keiretsu và là một tổ chức giám sát, hỗ trợ tài chính trong các
trường hợp khẩn cấp.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên cụm từ "TĐKT” được đề cập tới trong Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII: "Nhà nước hỗ trợ,
khuyến khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các TCT theo
hướng tổ chức các TĐKT, khắc phục tính chất hành chính trung gian"9. Nhìn
nhận khái niệm TĐKT dưới góc độ mối quan hệ giữa các thành viên trong
TĐKT, Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương (CIEM) đã đưa ra khái
niệm TĐKT “là một tổ hợp lớn các DN có tư cách pháp nhân hoạt động
trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, cơng
nghệ, thơng tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích

của các bên tham gia. Trong mơ hình này, cơng ty mẹ nắm quyền lãnh đạo,
chi phối hoạt động của cơng ty con về tài chính và chiến lược phát triển”.
Trong Đề tài Khoa học cấp bộ của nhóm tác giả Bộ mơn kế tốn Học viện tài
chính thì TĐKT được hiểu là “loại hình liên cơng ty xuất hiện từ lâu ở các
8
9

/> />
13


nước có nền kinh tế phát triển, được hiểu là tổ hợp các cơng ty có tư cách
pháp nhân, có mối liên kết với nhau về tài chính, cơng nghệ, thị trường và các
mối liên kết khác xuất phát từ lợi ích của chính các cơng ty thành viên đó”.
Phải đến Luật DN năm 2005 thì khái niệm “TĐKT” mới lần đầu tiên
được đưa vào một văn bản pháp luật, đánh dấu sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam với mơ hình kinh tế này. Theo đó, tập TĐKT được xếp vào một loại
trong Nhóm cơng ty, và khái niệm này đã được làm rõ hơn ở Nghị định
139/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật DN:
“TĐKT bao gồm nhóm các cơng ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình
thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thơng qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua
lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về
lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo
thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp DN trở lên dưới hình thức Cơng ty mẹ
- Cơng ty con” (khoản 1 điều 26).
Có thể thấy, thực tế còn nhiều khái niệm khác nhau như trên là bởi mỗi
khái niệm được đưa ra lại nhìn nhận TĐKT ở một khía cạnh khác nhau. Mặc
dù vậy nhưng ta có thể khái quát thành một khái niệm chung về TĐKT như
sau: “TĐKT là một tập hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay đa
ngành, ở phạm vi một nước hay nhiều nước, các thành viên có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối
hoạt động của các cơng ty con về mặt tài chính và quản trị chung. Tập
đồn là mơ hình liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn, tăng
khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.”
1.1.2. Quá trình hình thành Tập đồn kinh tế trên thế giới
1.1.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển các tập
đoàn kinh tế trên thế giới
TĐKT là một khái niệm chưa thật thống nhất nhưng sự hiện diện của
nó trong nền kinh tế là tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của
đời sống xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng. Nói như vậy cũng có
nghĩa là sự ra đời ấy là sớm muộn cũng phải có bởi quy luật khách quan chi
14


phối sự hình thành phát triển của cấu trúc kinh tế hiện đại này. Sự ra đời của
mơ hình kinh tế này là phù hợp với rất nhiều quy luật khách quan, trong đó
phải kể đến một số quy luật nền tảng của nền kinh tế: quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, quy luật tích tụ và tập trung vốn mở
rộng quy mơ sản xuất, quy luật cạnh tranh, quy luật KHCN phát triển khơng
ngừng, quy luật tối đa hóa lợi nhuận và phân tán rủi ro. Mặc dù rất khó để
phân rõ từng quy luật tác động đến sự ra đời tất yếu của TĐKT nhưng việc
phân tích các nội dung này sẽ làm sáng tỏ cả quá trình lẫn nguyên nhân ra đời
của TĐKT.
Thứ nhất, Tập đoàn kinh tế ra đời phù hợp với quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt không thể tách rời
nhau trong hoạt động sản xuất mà học thuyết Mác – Lênin đã phân tích,
chứng minh. Quy luật này khơng chỉ có ý nghĩa đối với lĩnh vực kinh tế mà đã
được kiểm chứng qua thời gian ở nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Lực lượng sản xuất ở đây là tổng hợp các yếu tố về quy mô sản xuất, công

nghệ, kỹ thuật, năng xuất lao động,….Giai đoạn từ cuối thế kỷ 18 cho đến nay
chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ của nền KHCN trên thế giới, sức lao
động con người dần được giải phóng, thay vào đó là máy móc cơng nghệ cao
với năng xuất sản xuất vượt trội. Đó chính là yếu tố tiên quyết cho sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Cùng với đó, nhu cầu tái sản xuất mở
rộng, dưới tác động của sự cạnh tranh trong nền KTTT, các DN luôn muốn
mở rộng kinh doanh về cả chiều rộng và chiều sâu, càng đẩy mạnh sự gia tăng
lực lượng sản xuất. Như vậy, theo quy luật khách quan, khi lực lượng sản xuất
đã phát triển mạnh mẽ đến một mức độ nhất định, nền kinh tế đòi hỏi sự ra
đời của một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất hiện tại. Các hình thức tổ chức theo kiểu xí nghiệp, hiệp hội
hay liên hiệp trở nên khơng cịn phù hợp với quy mơ và nhu cầu phát triển của
các DN nữa. Và theo từng bước phát triển các liên kết, lịch sử đã cho ra đời
mô hình TĐKT phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đang phát triển
15


rất mạnh dưới sự hỗ trợ của nền công nghiệp kỹ thuật phát triển ở trình độ
cao. TĐKT đã được ra đời và hiện nay vẫn đang là mơ hình liên kết kinh tế
hiện đại và mạnh mẽ nhất trên thế giới, đáp ứng các nhu cầu về phát triển
kinh doanh trên diện rộng và chú trọng chun mơn hóa, thúc đẩy tái sản xuất
hiệu quả.
Thứ hai, Tập đoàn kinh tế ra đời phù hợp với quy luật tích tụ và tập
trung vốn mở rộng quy mơ sản xuất
Tích tụ vốn (tư bản) là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng
cách tư bản hoá một phần giá trị thặng dư. Tập trung tư bản là sự tăng thêm
quy mô tư bản cá biệt bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản
lớn hơn. Tập trung tư bản thực chất là sự tăng thêm quy mô tư bản riêng lẻ
bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Tích tụ và tập
trung tư bản có quan hệ mật thiết với nhau và tác động, thúc đẩy nhau. Lịch

sử và khoa học đã chứng minh nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đi từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn, sự phát triển về quy mơ chính là biểu hiện đầu tiên của
sự tích tụ vốn. Bên cạnh đó, một trong những quy luật quan trọng của nền
kinh tế là quy mơ càng lớn thì chi phí sản xuất càng nhỏ, và chi phí nhỏ ln
là mong muốn của các nhà kinh doanh, do đó việc tích tụ vốn mở rộng quy
mô sản xuất càng được đặt ra khi lực lượng sản xuất đã có bước phát triển
mới.
Dựa trên lịch sử hình thành và phát triển của TĐKT có thể dễ dàng
nhận thấy rằng sự tăng quy mô của các DN gắn với từng bước phát triển và
đổi mới về các liên kết kinh tế để sau cùng cho ra đời mơ hình kinh tế có quy
mơ lớn, liên kết trên diện rộng và chặt chẽ.
Thứ ba, Tập đoàn kinh tế ra đời do ảnh hưởng của quy luật cạnh tranh
trong nền KTTT
Từ xưa đến nay, kinh doanh dù trong bối cảnh nào cũng ln có sự
cạnh tranh, có thể là cạnh tranh cùng ngành hoặc cạnh tranh khác ngành. Tuy
nhiên, phải đến khi nền KTTT chính thức vận hành và việc tự do hóa thương
mại ngày càng được đẩy mạnh, vấn đề cạnh tranh mới thực sự được mô tả là
16


“thương trường như chiến trường”. Cạnh tranh là nhân tố thúc đẩy các DN
khơng ngừng đổi mới, phát triển, hồn thiện bản thân và từ đó gây dựng nên
những DN có quy mơ lớn. Cạnh tranh, bản thân nó là một sức ép để các DN
không đứng yên mà luôn vận động khơng ngừng và quả thực nếu khơng có
những hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh thì sức ép này của nền KTTT
chính là động lực đáng kể để kinh tế phát triển.
Nói đến cạnh tranh thì người ta hay đặt ra câu hỏi “khi nào cạnh tranh
kết thúc?”. Sức ép của cạnh tranh là rất lớn và các chủ thể kinh doanh chỉ có
thể thốt khỏi nó khi DN bứt phá dẫn đầu, có ưu thế và sức mạnh vượt trội để
chi phối hoặc độc quyền trên một lĩnh vực nào đó. Kinh doanh giống như một

cuộc chạy đua giữa các DN và khi một hoặc một vài DN bứt phá lên, sự cạnh
tranh sẽ khơng cịn đè nặng lên các DN đó nữa. Khi mà đã có một vị trí nhất
định trong thị trường, DN đó khơng ngủ qn trên chiến thắng, mục đích của
kinh doanh ln là tối đa hóa lợi nhuận, khơng bao giờ có một quy mơ hay
một con số có thể thỏa mãn người làm kinh tế, cũng có nghĩa là DN đó sẽ tiếp
tục mở rộng kinh doanh, mở rộng quy mô. Sự mở rộng về quy mô sẽ bao gồm
cả việc mua lại, sáp nhập hoặc mở thêm các công ty, từ đó, khi phát triển đến
một quy mơ nhất định, các liên kết trong kết cấu kinh doanh đã ổn định,
TĐKT ra đời.
Cịn một xu hướng nữa có thể xảy ra đối với các DN hoạt động trong
môi trường cạnh tranh của nền KTTT là các DN cạnh tranh không phân thắng
bại, khơng có DN nào bứt phá vượt lên chi phối ngành kinh doanh đó. Với
khả năng đó, các DN khi muốn cùng nhau phát triển hịa bình và đạt được lợi
nhuận cao nhất hoặc muốn có một vị trí tốt hơn trong thị trường thì sẽ liên kết
với nhau (hoặc tất cả các DN hoặc một vài DN). Q trình liên kết giữa các
chủ thể kinh tế có thể là liên kết dọc, liên kết ngang hoặc liên kết hỗn hợp, cụ
thể như sau10:
+ Liên kết ngang: Diễn ra giữa các công ty cùng hoạt động trong một
10

Đào Xuõn Thy. Điều kiện và giải pháp hình thành các Tập đoàn kinh tế ở nớc ta qua sắp xếp lại các
Tổng công ty 91 ,tr23

17


ngành có quan hệ chặt chẽ về kinh tế kỹ thuật, dịch vụ, kinh doanh.
+ Liên kết dọc: Đó là sự liên kết giữa các công ty trong cùng một dây
chuyền cơng nghệ sản xuất mà trong đó mỗi cơng ty đảm nhận một bộ phận
hoặc một công đoạn nào đó.

+ Liên kết hỗn hợp: Các cơng ty hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau, ít hoặc thậm chí khơng có mối liên hệ kinh tế trực tiếp với nhau, đó là
sự liên kết đa ngành, đa lĩnh vực.
Nếu giải thích một cách đơn giản thì TĐKT chính là mơ hình kinh tế có
các liên kết và có quy mơ lớn, do vậy, nếu theo xu hướng thứ hai này, các
TĐKT cũng ra đời. Tóm lại, quy luật cạnh tranh của nền KTTT thực sự có
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển các TĐKT.
Thứ tư, Tập đoàn kinh tế ra đời phù hợp với quy luật khoa học cơng
nghệ phát triển khơng ngừng
Như đã nói ở trên, việc tách bạch sự tác động của các quy luật khách
quan đến sự hình thành các TĐKT là rất khó và quy luật khoa học cơng nghệ
(KHCN) phát triển khơng ngừng chính là một quy luật có sự ảnh hưởng tới cả
các quy luật còn lại trong việc giải thích tính khách quan của sự ra đời và phát
triển TĐKT. Bởi lẽ quy luật KHCN phát triển không ngừng là nhân tố thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, tích tụ vốn và ảnh hưởng đến sự
cạnh tranh khốc liệt trên thương trường
Dưới tác động của các cuộc cách mạng KHCN từ những thập niên 60
của thế kỷ XX, khoa học kỹ thuật đã có bước phát triển mạnh mẽ và ngày
càng cho ra đời các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Việc TĐKT ra đời không chỉ do sự phát triển KHCN mà còn tác động
trở lại sự phát triển này, làm cho nền KHCN ngày càng tiến bộ. Không khó để
hiểu điều này, việc phát triển KHCN ngày càng cần nhiều sự đầu tư tiền của
và chỉ có những chủ thể kinh doanh lớn mạnh mới có khả năng đầu tư để cho
ra đời những cơng nghệ mới có tính ứng dụng cao. Bên cạnh đó, các DN kinh
doanh về lĩnh vực công nghệ khoa học cũng ra đời nhưng cũng đòi hỏi nguồn
18


vốn lớn để đầu tư nghiên cứu, từ đó, các liên kết xuất hiện giải quyết vấn đề
về nguồn vốn và quy mơ kinh doanh lĩnh vực này. Có thể nói, tiến bộ khoa

học, cơng nghệ vừa là tiền đề, vừa là nhu cầu, vừa là hệ quả hình thành các
TĐKT, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để mỗi DN, mỗi tập đoàn giành
thắng lợi trong cạnh tranh bằng việc ứng dụng tiến bộ công nghệ vào sản
xuất.
1.1.2.2. Các con đường hình thành các Tập đồn kinh tế trên thế giới
Nói đến q trình hình thành TĐKT trên thế giới cũng có nghĩa là nói
đến việc khái niệm này đã ra đời như thế nào, điều đó cũng đồng nghĩa với
quá trình các TĐKT trên thế giới đã hình thành bằng cách nào và ra sao. Việc
luận giải về q trình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên
cứu đặc điểm, vai trò và cũng ảnh hưởng cả đến cả các quan điểm về khái
niệm TĐKT được đưa ra. Sự ra đời của TĐKT ln được khẳng định là mang
tính tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội và thực sự
phải quay lại lịch sử mới có thể chứng minh được khẳng định này.
Trước hết, quá trình hình thành TĐKT gắn liền với quá trình hình
thành các mối liên kết kinh tế, bắt đầu từ đơn lẻ đến liên kết phức tạp, từ quy
mô nhỏ đến quy mô lớn, từ đơn sở hữu đến đa sở hữu dưới tác động của các
quy luật kinh tế cơ bản. Trong cuộc sống nói chung, nhu cầu liên kết với
những người xung quanh để thực hiện các nhiệm vụ chung hay nhu cầu chia
sẻ sự khó khăn là rất tự nhiên, tuy nhiên, trong kinh tế, nơi mà lợi ích cá nhân
mới là quan trọng nhất thì sự liên kết lại có các lý do rất khác nhau. Sự liên
kết kinh doanh đầu tiên trên thế giới là ở các công trường thủ công với sự hợp
tác giữa các thợ thủ công cùng ngành dưới sự chỉ đạo chung. Các người thợ
cùng ngành khi hợp tác với nhau đã thực hiện được việc chun mơn hóa lao
động, phân cơng lao động, đây là bước tiến mới về sản xuất, tăng cường tình
hiệu quả trong lao động, qua đó sự tích tụ tư bản cũng được trao dồi mạnh mẽ
hơn.
Tiếp đó, khi lịch sử mang đến các điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất
phát triển, làm thay đổi về lượng và chất của lực lượng sản xuất thì vấn đề
19



thay đổi quan hệ sản xuất lại được đặt ra. Cụ thể là các cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất (diễn ra từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19) và lần thứ hai
(nửa sau thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20) đã thực sự làm thay đổi phương thức sản
xuất của các DN trên thế giới. Bên cạnh sự hỗ trợ đắc lực của các cải tiến,
phát minh về KHCN thì mơi trường cạnh tranh cũng là một trong các yêu tố
thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của các DN trên thế giới, tạo cho các DN nhu
cầu phối hợp giữa các chủ thể nhằm đạt đến độ tối ưu hóa về sản xuất cũng
như tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Từ liên kết công trường thủ công
chuyển sang liên kết chặt chẽ hơn ở hình thức xí nghiệp, nhà máy với tổ chức
hồn thiện hơn, là bước đệm cho các liên kết mạnh mẽ hơn trong giai đoạn
sau này. TĐKT với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế, tổ chức kinh
doanh, tổ chức liên kết kinh tế, có nghĩa nó là hình thức biểu hiện của quan
hệ sản xuất cần phải ra đời, phát triển để đáp ứng nhu cầu thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất 11. Các liên kết từng bước phát triển nhằm phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đúng như quy luật lượng chất mà
chủ nghĩa Mác – Lê nin đã phân tích. Sự hợp nhất, liên kết, phá sản hay sáp
nhập của các DN chính là biểu hiện rõ nét nhất về mối liên kết kinh doanh
giữa các thể nhân không phải cá nhân. Sự kết hợp giữa các DN trên thế giới là
bước thay đổi lớn so với sự kết hợp đơn lẻ giữa các thợ thủ công thời kỳ trước
đó. Mặc dù sự hợp nhất, liên kết, sáp nhập trong thời kỳ đầu chưa tạo lập
được các TĐKT nhưng đó thực sự là sự khởi đầu manh nha cho cấu trúc liên
kết vững mạnh này.
Trải qua giai đoạn của các liên kết đầu tiên giữa các DN, khi các DN
ngày càng lớn mạnh, nhu cầu mở rộng sản xuất, thu hút vốn kinh doanh được
đặt ra và hình thức CTCP ra đời được coi là một bước tiến lớn trong lịch sử
hình thành các loại hình kinh doanh. Lần đầu tiên trong lịch sử, việc một công
ty có thể dễ dàng được sở hữu bởi rất nhiều chủ thể chỉ đơn giản bằng việc
mua cổ phần của cơng ty. Chính từ sự góp vốn nhanh gọn, dễ dàng của hình
thức CTCP đã tạo điều kiện để các DN tăng quy mơ một cách nhanh chóng

11
Đào Xn Thủy. Điều kiện và giải pháp hình thành các Tập đoàn kinh tế ở nớc ta qua sắp xếp lại các Tổng
công ty 91

20


thơng qua vốn góp của các nhà đầu tư. Cùng với sự phát triển này, yêu cầu
phải có một cách thức quản lý phần vốn góp một cách hợp lý được đặt ra,
từng bước tách chức năng kinh doanh của DN với chức năng chủ sở hữu.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hình thức tư bản độc quyền xuất
hiện, là biểu hiện cụ thể cho những liên kết của các DN độc lập với nhau tạo
nên những DN có quy mơ lớn hơn, hoạt động đa ngành trên phạm vi rộng.
Các tổ chức này khơng ngừng hồn thiện và mở rộng các hình thức liên kết.
Đến những năm 50, trên thế giới đã có nhiều cơng ty lớn, có mối liên kết đa
dạng và xuất khẩu sản phẩm đi nhiều nước, nhưng đó mới chỉ là những hãng
lớn trong một quốc gia nhất định. Phải đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
thuật ngữ TĐKT mới được nhắc đến khi nền KTTT phát triển mạnh, xuất
hiện các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia với số vốn lớn, đa ngành, hoạt
động trên phạm vi rộng.
Như vậy, có thể thấy rằng TĐKT xuất hiện trên thế giới là kết quả của
q trình tích tụ vốn, tái đầu tư, mở rộng sản xuất, những hoạt động như sát
nhập, mua bán, thơn tính các cơng ty cỡ vừa và nhỏ… Hầu hết các TĐKT lớn
trên thế giới đều hình thành bằng con đường này. Tuy nhiên, nếu đi theo con
đường tích tụ vốn lâu dài này, các DN của các nước đang phát triển khó lịng
đạt đến trình độ TĐKT có năng lực cạnh tranh cao, quy mơ vốn lớn, phạm vi
hoạt động rộng. Do đó, việc Chính phủ tổ chức những DN quy mô lớn, nắm
giữ những lĩnh vực trọng yếu nhằm rút ngắn thời gian hình thành các TĐKT
đang là giải pháp phù hợp được nhiều nước đang phát triển lựa chọn. Tóm lại,
dựa trên thực tế lịch sử và đồng tình với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu

kinh tế khác, đề tài nhận diện hai con đường chủ yếu hình thành các TĐKT là:
Thứ nhất, TĐKT được hình thành bằng con đường truyền thống: Thơng
qua tích tụ, tập trung vốn, các DN mở rộng sản xuất, tái đầu tư, mở rộng quy
mô, lĩnh vực hoạt động, tăng vốn, mở rộng phạm vi, sự liên kết giữa các DN
được xây dựng và phát triển thành các tổ hợp…dần dần chiếm lĩnh thị trường.
Các thành viên đơn lẻ được liên kết với nhau trên nguyên tắc tự nguyện, đảm
bảo lợi ích của mỗi DN. Các TĐKT hình thành theo con đường truyền thống
21


thường lựa chọn các cách thức sau:
- Các DN đang hoạt động kết hợp lại với nhau bằng cách bán cổ phần
cho một công ty mới lập (công ty nắm vốn, tham gia điều hành đối với mỗi
DN khác nhau).
- Một DN có quy mơ lớn, tiềm lực mạnh về vốn,… thực hiện đầu tư
vốn để lập các công ty con nhằm chiếm lĩnh thị trường (chia nhỏ công ty).
Thứ hai, TĐKT hình thành trên cơ sở đầu tư của Chính phủ: Đầu tiên
Chính phủ đầu tư vốn và thành lập các DN thuộc SHNN, hoạt động trong một
số lĩnh vực trọng yếu hoặc độc quyền nhà nước, sau một q trình hoạt động,
Chính phủ cơ cấu lại khu vực này và mơ hình TĐKT là một trong những lựa
chọn. Cách thức này cần có giai đoạn chuyển tiếp cần thiết và phù hợp, khơng
thể nóng vội, bắt đầu từ việc đa dạng hóa sở hữu, tạo mối liên kết, đầu tư, tổ
chức lại theo mơ hình mới đến cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy các TĐKT
hình thành và phát triển. Nhà nước đóng vai trị chủ sở hữu, đầu tư vốn, can
thiệp sâu vào việc thành lập các TĐKT nhưng không thể thay thế chức năng
của thị trường trong việc điều tiết các quan hệ kinh tế mà chỉ tạo lập những
điều kiện ban đầu nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế với thời gian ngắn hơn
so với sự phát triển tuần tự theo con đường truyền thống
Mặc dù con đường truyền thống được đánh giá và chứng minh là có
nhiều ưu điểm hơn, nhưng thực tế cũng đã khẳng định việc hình thành bằng

con đường nào không quyết định sự thành công của TĐKT, nhiều TĐKT trên
thế giới ở Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc cũng được hình thành bằng
nguồn đầu tư của Chính Phủ và đạt được những thành cơng lớn. Các TĐKT
vẫn có thể phát triển nếu có một cơ chế quản lý, một khung pháp lý phù hợp
và thuận lợi. Việc các TĐKT hình thành theo con đường nào chủ yếu dựa vào
điều kiện, hoàn cảnh kinh tế nhưng sự phát triển của các TĐKT này phải dựa
vào nỗ lực bản thân cùng với cơ chế chính sách thích hợp.
1.1.3. Đặc điểm của Tập đoàn kinh tế
Để xem xét các đặc trưng cơ bản của TĐKT, đề tài nhìn nhận từ hai
22


×