Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn làng trẻ em birla hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 112 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
TỪ THỰC TIỄN LÀNG TRẺ EM BIRLA HÀ NỘI

Chuyên ngành : CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số:

60900101

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HẢI HỮU

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp “Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em
mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em Birla Hà Nội” này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hải Hữu.
Đề tài này chưa được công bố ở đâu và không trùng lặp với bất cứ đề tài nào
đã được công bố.
Các nội dung có liên quan đến các số liệu, trích dẫn đều được ghi rõ ở phần
tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI
VỚI TRẺ EM MỒ CÔI ......................................................................................................... 9
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về CTXH nhóm đối với trẻ em mồ côi ............. 9
1.2. Lý luận về CTXH đối với trẻ em mồ côi trong việc tiếp cận các dịch vụ ...... 11
1.3. Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục....... 18
1.4. Một số thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài .............................................. 20
1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hoà nhập cộng đồng của trẻ mồ côi .. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM
MỒ CÔI TẠI LÀNG TRẺ EM BIRLA HÀ NỘI .......................................................... 26
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và mẫu nghiên cứu ..................................... 26
2.2. Thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho trẻ mồ côi tại Làng trẻ em Birla .... 29
2.3. Thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho trẻ mồ côi trong việc tiếp cận các
dịch vụ giáo dục tại Làng trẻ em Birla Hà Nội ...................................................... 38
2.4. Thực trạng về một số yếu tố ảnh hưởng tới công tác xã hội nhóm đối với trẻ
em mồ côi tại Làng trẻ em Birla Hà Nội ............................................................... 42
Chương 3: VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ TIẾP CẬN DỊCH VỤ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG ỨNG DỤNG VÀO
THỰC TIỄN LÀNG TRẺ EM BIRLA HÀ NỘI ........................................................... 50
3.1. Cơ sở vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong trợ giúp trẻ mồ côi
tiếp cận dịch vụ giáo dục kỹ năng sống ................................................................. 50
3.2. Quy trình vận dụng phương pháp CTXH nhóm trong can thiệp, trợ giúp trẻ
mồ côi tại Làng trẻ em Birla Hà Nội trong việc tiếp cận dịch vụ GD KNS .......... 55
3.3. Phối hợp tập huấn cho NVCTXH tại Làng trẻ Birla Hà Nội trong việc giúp
các em tiếp cận các dịch vụ GD KNS cho trẻ mồ côi ........................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................... 76
PHỤ LỤC................................................................................................................................ 79



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BTXH

Bảo trợ xã hội

CBQL

Cán bộ quản lý

GD KNS

Giáo dục kỹ năng sống

KNGT

Kỹ năng giao tiếp

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

SLĐTB&XH HN

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội

GVI

Glocal Venturel, Inc - là tổ chức phi lợi nhuận của Mỹ


PSBIV

Tổ chức phi chính phủ của Mỹ - hoạt động hỗ trợ cho
trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn nhưng phải sống trong các cơ sở BTXH


DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢNG SỐ LIỆU, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1. Thang nhu cầu của Maslows ................................................................................. 20
Biểu đồ 2.1. Hoạt động khám sức khỏe định kỳ của trẻ ...................................................... 32
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ về tỷ lệ trẻ cảm thấy buồn chán khi sống ở Làng............................. 35
Biểu đồ 2.3. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ trẻ được học kỹ năng giao tiếp .................................... 36
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ trẻ gặp khó khăn khi làm bài tập ở nhà .................................................. 40
Biều đồ 2.5. Tỷ lệ trẻ được tham gia học kỹ năng sống ...................................................... 41
Biểu đồ 3.1. So sánh KNGT của trẻ trước và sau thực nghiệm .......................................... 67
Bảng 3.1. Thông tin về các thành viên trong nhóm ............................................................. 57
Bảng 3.3. KNGT của trẻ trước thực nghiệm ........................................................................ 66
Bảng 3.4. KNGT của trẻ sau thực nghiệm............................................................................ 66


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước tới nay trẻ em luôn được xếp là một đối tượng dễ bị tổn thương cần
được chăm sóc và bảo vệ. Lý do là vì các em vẫn chưa phát triển để có đủ năng lực
về kiến thức, suy nghĩ và hành vi. Chính vì vậy, trẻ em rất dễ bị các tác động của
bối cảnh môi trường gây ảnh hưởng, đặc biệt là các tác động gây tổn thương xấu
cho các em. Nếu các em được nuôi dưỡng và dạy dỗ trong môi trường lành mạnh
các em sẽ có cơ hội phát triển đầy đủ cả về kiến thức, kỹ năng và nhân cách để vững
bước vào đời. Ngược lại, với các em sống trong môi trường không lành mạnh, các

em sẽ là đối tượng đầu tiên dễ bị tổn thương nhất, gánh chịu nhiều thiệt thòi và ảnh
hưởng không tốt cho sự phát triển của bản thân. Đối với trẻ em nói chung đã là như
vậy còn đối với trẻ em mồ côi cần sự bảo vệ đặc biệt thì mức độ rủi ro có thể do
môi trường gây ra cho các em sẽ có ảnh hưởng tiêu cực lớn hơn rất nhiều.
Vậy nên, trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm
sâu sát đến công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành và sự phối hợp có hiệu
quả của các đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong công tác bảo vệ
chăm sóc trẻ em nói chung và công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn nói riêng ngày càng được xã hội hoá. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn đã nhận được các dự án hỗ trợ và đạt được nhiều kết quả khả quan. Các tổ
chức xã hội, mái ấm, nhà mở trong công tác chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
thường tổ chức các hoạt động nhằm mục đích giúp các em hoà nhập với cuộc sống,
Làng trẻ em Birla Hà Nội cũng là một trong các cơ sở bảo trợ xã hội đó. Ngoài việc
tạo điều kiện cho các em đến trường học kiến thức, Làng trẻ còn tổ chức các lớp
dạy nghề, tập huấn kỹ năng sống để giúp các em hoà nhập cộng đồng và đã đạt
những thành công nhất định. Tuy nhiên, khi thật sự hoà nhập cộng đồng những khó
khăn, thuận lợi, cơ hội và thách thức gì sẽ đến với trẻ? Khả năng hoà nhập cộng
đồng của trẻ như thế nào? Vai trò của nhân viên công tác xã hội ở Làng trẻ này ra
sao? Các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đã thực sự đáp ứng nhu cầu của
các em chưa và các tổ chức, cá nhân trong xã hội đã hỗ trợ gì cho các em để các em
từng bước tiếp cận, phát triển một cách toàn diện và hoà nhập cộng đồng khi các em

1


đến tuổi trưởng thành. Chính vì lý do trên, nên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Công tác
xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em Birla Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về “Trẻ em” nói chung và về “Trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt” nói riêng đã được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả
trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay ở Việt Nam có khá nhiều ấn phẩm,
công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài về “Trẻ em”, “Trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt”. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả sử dụng những ấn phẩm được chọn lọc
về trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ em mồ côi).
Một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đế trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi.“Đánh giá tình hình
chăm sóc nhận nuôi và việc thực hiện Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg” đây là một
nghiên cứu được phối hợp thực hiện giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với
UNICEF năm 2011. Nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng trẻ em mồ côi, trẻ
em cần được chăm sóc thay thế cũng như thực trạng việc thực hiện Quyết định số
38/2004/QĐ-TTg về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi
dưỡng trẻ mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi.
Christian Salazar Volkmann (2004) nghiên cứu “Những điểm mở và thách
thức cơ bản với phương thức làm chương trình dựa trên cơ sở quyền con người cho
phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam”.
Tác giả Mai Thị Kim Thanh (2001) có bài về “Tìm hiểu ảnh hưởng của quan
hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với trẻ tới sức khỏe của
trẻ em trong các gia đình Việt Nam hiện nay.
UNICEF (2010) công bố“Báo cáo phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam”.
Với phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, đã xem xét trẻ em dựa trên quan điểm
các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình.
Tác giả Nguyễn Hải Hữu (2012) “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống
bảo vệ trẻ em”.
Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2009) nghiên cứu về “Xây
dựng môi trường bảo vệ trẻ em: đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em ,
đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”.

2



Lê Bạch Dương và các tác giả (2005) đã biên soạn tài liệu “Bảo trợ xã hội cho
những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam”.
Nguyễn Ngọc Toản (2011) biên soạn sách chuyên khảo về “Xây dựng và hoàn
thiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở Việt Nam”.
Vũ Kim Hoa (2008) nghiên cứu chuyên đề về “Chăm sóc trẻ mồ côi, bỏ rơi
thông qua chăm sóc thay thế”.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2014) nghiên cứu rà soát,
thống kê trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ
em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm hoạ dựa vào cộng đồng trên địa bàn Thành phố
Hà Nội năm 2014.
Tuy nhiên, tiếp cận từ góc nhìn công tác xã hội đối với nhóm trẻ em mồ côi
(trong độ tuổi từ 16-18 tuổi) không nơi nương tựa đang sinh sống, học tập tại Làng
trẻ em Birla Hà Nội về việc làm thế nào giúp các em có kiến thức, kỹ năng để ứng
phó với những biến động của cuộc sống, hoà nhập cộng đồng khi các em trưởng
thành trở về địa phương tiếp tục sinh sống thì hầu như chưa có công trình nghiên
cứu chính thức nào đề cập tới. Đây là một trong những lý do chính mà tôi lựa chọn
thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về trẻ em mồ côi (đặc biệt về trẻ em mồ
côi ở trong các cơ sở Bảo trợ Xã hội, các Làng trẻ...) và những yếu tố ảnh hưởng tới
việc hoà nhập cộng đồng. Tìm ra những khó khăn, thách thức, cơ hội và những mong
muốn của các em khi chuẩn bị rời khỏi Làng trẻ để bắt đầu cuộc sống mới. Trên cơ sở
đó nghiên cứu vận dụng quy trình CTXH nhóm để hỗ trợ trẻ em mồ côi tìm ra các
giải pháp hỗ trợ giúp các em hoà nhập với cộng đồng xã hội dễ dàng hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đề tài hướng vào giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:


3


- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về trẻ em mồ côi nói
chung, trẻ em mồ côi đang sống và học tập tại các cơ sở bảo trợ xã hội, Làng trẻ và
phương pháp CTXH nhóm với việc can thiệp hỗ trợ trẻ em mồ côi.
- (Khảo sát thực trạng) Nghiên cứu những vấn đề khó khăn của trẻ mồ côi
đang chuẩn bị và những trẻ đã rời khỏi Làng trẻ em Birla Hà Nội về cộng đồng (trẻ
trưởng thành).
- Tìm hiểu thái độ cũng như tâm lý của các em chuẩn bị trưởng thành và
những em đã trưởng thành rời khỏi Làng trẻ em Birla Hà Nội. Các em cần và mong
muốn những gì để làm hành trang cho cuộc sống mới, những mong muốn đối với
Làng trẻ và cộng đồng xã hội.
- Nghiên cứu quy trình vận dụng phương pháp CTXH nhóm nhằm hỗ trợ
những khó khăn mà trẻ mồ côi tại Làng trẻ em Birla Hà Nội đang gặp phải.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục trẻ em;
Đồng thời sử dụng các thuyết liên quan tới đề tài vào phục vụ cho việc nghiên cứu.
Các thuyết đó là: Thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết tâm lý xã hội của Erikson,
thuyết phát triển Tri thức của Piaget và thuyết Học tập xã hội của Bandura. Việc sử
dụng các thuyết trên vào trong nghiên cứu nhằm giúp chúng ta có cơ sở, hiểu sâu
hơn về tâm, sinh lý, quá trình phát triển của con người nhất là trẻ em cũng như
những yếu tố có thể ảnh hưởng, tác động tích cực, tiêu cực tới quá trình phát triển
về thể chất và tinh thần của trẻ em, đặc biệt là trẻ em mồ côi.
Số liệu được sử dụng trong luận văn lấy từ số liệu gốc của Báo cáo công tác
năm 2014, 2015 và Quý I/2016 của Làng trẻ em Birla Hà Nội về tình hình chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mồ côi hiện đang sống tại Làng trẻ và số lượng trẻ trưởng

thành hoà nhập cộng đồng khi các em trở về quê hương. Ngoài ra còn có các báo cáo,
khảo sát khác của các tổ chức trong và ngoài nước. Trong luận văn tác giả sử dụng số
liệu từ nguồn này và có những phần sử dụng dữ liệu khác có trích dẫn nguồn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu

4


Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu nhằm tìm hiểu, bổ sung và tích lũy
vốn tri thức lý luận liên quan đến luận văn ở nhiều góc độ: Tâm lý học, CTXH, xã
hội học, giáo dục đặc biệt, đồng thời nghiên cứu những chính sách, văn bản pháp
luật trong nước và quốc tế về chăm sóc hỗ trợ cho nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn (trong đó có trẻ em mồ côi), các công trình nghiên cứu khoa học về mảng trẻ
em và giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm cho trẻ em và gia đình các em có hoàn cảnh
khó khăn. Đây là cơ sở cho việc xây dựng phương pháp khảo sát (điều tra), phân
tích tâm lý trẻ em đang trong độ tuổi đến trường, tìm hiểu thực trạng khó khăn của trẻ em
mồ côi của Làng trẻ em Birla Hà Nội khi hoà nhập cộng đồng.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phân tích tài liệu từ nguồn tài liệu thu thập
được như internet, sách, báo, phim ảnh… trên cơ sở đó phân tích và sàng lọc những
thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu từ đó kết hợp với việc tham khảo một số
đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn có liên quan đến vấn đề trẻ em và giáo dục,
đào tạo dạy nghề cho trẻ em để tham khảo thêm về phương pháp nghiên cứu làm cơ
sở bổ sung cho luận văn của mình.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn nhóm
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp
phỏng vấn nhóm với trẻ từ 16 – 18 tuổi. Tác giả thực hiện 5 cuộc phỏng vấn nhóm
với 26 đối tượng là nhóm trẻ em đã được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và giáo dục
hiện đang sống trong 04 gia đình lớn trong Làng trẻ em Birla Hà Nội. Đối tượng
khảo sát là 26 trẻ em có khả năng nhận thức tốt có các mức độ khó khăn khác nhau,

độ tuổi khác nhau và đang học tại một số trường khác nhau trên địa bàn Quận Cầu
Giấy. Ngoài ra tác giả còn chọn 30 trẻ trưởng thành có thời gian gần nhất trong 3
năm liền kề (2012, 2013, 2014) để nghiên cứu. Qua phỏng vấn nhóm tôi muốn tìm
hiểu việc các em đã tiếp cận và ứng dụng được những kiến thức về KNS trong quá
trình học tập ngoại khoá tại Làng trẻ như thế nào? Sự hỗ trợ cũng như mức độ quan
tâm của NVCTXH tại Làng trẻ tới các em được thực hiện ra sao? Những khó khăn
và thuận lợi ảnh hưởng đến đời sống tính thần khi các em đi học, sinh hoạt hàng
ngày, trưởng thành hoà nhập cộng đồng?
4.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

5


Để có kết quả nghiên cứu chính xác, khách quan toàn diện, tác giả đã trực
tiếp phỏng vấn sâu dành cho lãnh đạo Làng trẻ (CBQL), NVCTXH, một số em đã
trưởng thành... Nhằm tìm hiểu quá trình hỗ trợ GD KNS đối với trẻ em mồ côi đang
được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tập trung tại các cơ sở BTXH nói chung và
trẻ em mồ côi hiện đang sống tại Làng trẻ em Birla Hà Nội nói riêng.
4.2.4. Phương pháp quan sát thực địa (đi thực tế tại địa bàn)
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực trạng về tiếp cận dịch vụ chăm sóc, giáo dục của trẻ mồ côi, các yếu tố
ảnh hưởng đến trẻ mồ côi, hoạt động chăm sóc - nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em mồ
côi tại Làng trẻ em Birla Hà Nội trên ba nội dung cơ bản: Bảo đảm điều kiện sống
cơ bản, bảo đảm môi trường sống an toàn và phương pháp CTXH nhóm với việc
can thiệp hỗ trợ trẻ mồ côi trong vấn đề học tập kỹ năng sống hoà nhập cộng đồng.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại Làng trẻ
em Birla Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu từ tháng 01 năm 2016 đến

tháng 6 năm 2016.
5.2. Khách thể nghiên cứu
- 26 em hiện đang được nuôi dưỡng tại Làng trẻ em Birla Hà Nội trong độ tuổi từ
16 đến 18 tuổi.
- 30 em đã từng sống tại Làng trẻ em Birla Hà Nội, hiện đã trưởng thành trở về sinh
sống tại địa phương (trong những năm: 2012, 2013, 2014).
- Lãnh đạo Làng trẻ em Birla Hà Nội.
- Nhân viên công tác xã hội trong tại Làng trẻ em Birla Hà Nội.
- Cộng đồng - chính quyền địa phương (nơi trẻ về sinh sống khi hết tuổi nuôi dưỡng
tập trung tại Làng trẻ em Birla Hà Nội).
5.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn
Làng trẻ em Birla Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6


6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu đã áp dụng hệ thống lý thuyết và phương pháp CTXH
nhóm vào thực tiễn can thiệp trợ giúp cho đối tượng CTXH đang hướng tới đó là:
Hỗ trợ trẻ mồ côi tiếp cận các dịch vụ chăm sóc, giáo dục đặc biệt là ý nghĩa của
việc học tập các KNS ứng dụng vào thực tiễn khi hoà nhập cộng đồng.
Ngoài ra, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho NVCTXH; sinh viên
chuyên ngành CTXH; các cơ quan đoàn thể liên quan tới nuôi dưỡng, chăm sóc và
giáo dục trẻ mồ côi; các gia đình nhận nuôi trẻ em mồ côi theo mô hình “chăm sóc
thay thế”… trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục giúp trẻ phát triển toàn
diện và hoà nhập cộng đồng bền vững.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Đề tài mang tính thực tiễn và hiệu quả trợ giúp cao tới nhóm trẻ mồ côi

chuẩn bị hoà nhập cộng đồng. Với việc đi sâu tìm hiểu thực trạng của vấn đề, tác
giả nghiên cứu muốn giúp mọi người hiểu rõ hơn hiện nay vấn đề trẻ em mồ côi
đang sống tại các cơ sở BTXH, các Làng trẻ đã và đang diễn ra theo xu hướng như
thế nào và các phương hướng giải quyết ra sao? Bên cạnh đó, đề tài còn muốn
hướng tới một phương pháp nhằm giảm thiểu các trường hợp trẻ mồ côi không thích
nghi với cộng đồng khi đến tuổi trưởng thành trở về địa phương do sau nhiều năm
sống tại các cơ sở BTXH, các Làng trẻ... dẫn tới bị áp lực tinh thần, thiếu tự tin,
không hoà nhập được với cuộc sống. Dưới góc độ tiếp cận của các lý thuyết,
phương pháp CTXH nhóm, nghiên cứu góp phần thay đổi nhận thức của cán bộ
công nhân viên đang làm CTXH tại các cơ sở BTXH, các Làng trẻ, cơ quan quản lý,
trẻ em mồ côi. Nghiên cứu giúp họ nhận thức đúng về hoạt động CTXH chuyên
nghiệp, ý thức được vai trò của mình trong các hoạt động đó. Đó là nhân tố quyết
định đảm bảo cho hoạt động BTXH có tính bền vững; đối tượng yếu thế có thêm
các cơ hội phục hồi, hòa nhập xã hội và phát triển bền vững.
Đề tài sẽ là tài liệu để tham khảo cho những cơ quan, tổ chức, cá nhân quan
tâm đến vấn đề chuẩn bị tâm thế cho trẻ em mồ côi trưởng thành hoà nhập cộng
đồng bền vững.
6.3. Ý nghĩa đối với địa phương

7


Nghiên cứu sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quan về việc hỗ trợ trẻ mồ côi và thân
nhân gia đình trẻ để đảm bảo duy trì nguồn vốn nhân lực trong xã hội sau này, góp
phần giúp địa phương có những điều chỉnh, quy hoạch, hỗ trợ phù hợp trong quá
trình ban hành các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách an sinh xã hội,
góp phần nâng cao đời sống người dân địa phương.
6.4. Ý nghĩa đối với đối tượng nghiên cứu
Giúp bản thân các em tự tin bước vào xây dựng một cuộc sống mới. Phá vỡ
rào cản tự ti, hoà nhập và tự tin vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Khích lệ cho

những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (trẻ mồ côi) để các em có thể yên tâm học tập
và định hướng tương lai cho chính bản thân sau này.
6.5. Ý nghĩa đối với tác giả nghiên cứu
Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nghiên cứu có thêm cơ hội học
hỏi, trau dồi kỹ năng nghiên cứu khoa học. Đây cũng là cơ hội tốt để tác giả tích
lũy thêm các kiến thức, rèn luyện một số kỹ năng trong một số hoạt động hỗ trợ
của công tác xã hội.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em
Birla Hà Nội.
Chương 3: Vận dụng công tác xã hội nhóm trong giải quyết vấn đề tiếp cận dịch vụ
giáo dục kỹ năng sống ứng dụng vào thực tiễn Làng trẻ em Birla Hà Nội.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi
1.1.1. Công tác xã hội
Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp
các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng
cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn
lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa
các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Có nhiều các khái niệm, định nghĩa khác nhau về công tác xã hội, nhưng nhìn
chung các khái quan niệm đều thống nhất:
Thứ nhất, công tác xã hội là một nghề, một khoa học ứng dụng, một dịch vụ

xã hội cung ứng cho các cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng khi họ gặp khó
khăn mà bản thân họ chưa tìm được hướng giải quyết.
Thứ hai, công tác xã hội với quan điểm và trọng tâm là làm giảm bớt các vấn
đề khó khăn trong quan hệ giữa con người với nhau, làm phong phú thêm cho cuộc
sống của họ thông qua mối quan hệ tương tác tích cực, giúp các cá nhân thực hiện
các chức năng của bản thân, chức năng xã hội và giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng có
vấn đề có thể tự đứng vững được trên chính đôi chân của họ.
Thứ ba, công tác xã hội là một dịch vụ cung ứng các kiến thức, thông tin, kỹ
năng, hỗ trợ về tinh thần cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng thông qua sự quan tâm
giữa người với người và giúp họ tăng thêm khả năng cải thiện điều kiện, hoàn cảnh
để tự vươn lên cải thiện cuộc sống của mình.
1.1.2. Công tác xã hội nhóm
Khái niệm Công tác xã hội nhóm : Công tác xã hội nhóm là một phương pháp
Công tác xã hội nhằm tạo dựng và phát huy sự tương tác, chia sẻ nguồn lực, kinh
nghiệm giữa các thành viên, giúp củng cố, tăng cường các chức năng xã hội và khả
năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu cầu của nhóm. Thông qua sinh hoạt nhóm, mỗi
cá nhân hòa nhập, phát huy tiềm năng, thay đổi thái độ, hành vi và khả năng đương

9


đầu với nan đề của cuộc sống, tự lực và hợp tác giải quyết vấn đề đặt ra vì mục tiêu
cải thiện hoàn cảnh một cách tích cực.[11;tr.59]
1.1.3. Nhân viên công tác xã hội/ Nhân viên xã hội
Nhân viên xã hội dịch từ tiếng Anh (Social Worker) được hiểu là những
người làm công việc xã hội và có trình độ được đào tạo từ cử nhân trở lên.
Thuật ngữ Lao động - Xã hội thì NVCTXH là những người được đào tạo
chuyên môn về CTXH để hỗ trợ cá nhân và cộng đồng tiếp cận các chính sách và
dịch vụ xã hội. Nhiệm vụ của NVCTXH là tư vấn cá nhân, làm việc nhóm, làm việc
với cộng đồng, nghiên cứu xã hội, thiết kế chính sách xã hội. NVCTXH còn đảm

nhiệm vai trò khác nhau như khuyên bảo, người hỗ trợ, người tuyên truyền, người
trung gian và người tạo điều kiện. {Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2014),
Thuật ngữ Lao động – Xã hội, NXB KHKT}
1.1.4. Khái niệm trẻ em
Trẻ em là người dưới 16 tuổi (Luật trẻ em năm 2016)
1.1.5. Khái niệm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi
Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, việc xếp trẻ em mồ côi, không nơi
nương tựa, bị bỏ rơi vào một nhóm là vì đặc điểm của nhóm trẻ em này là không có
bố mẹ hoặc vì lý do nào đó không được sống cùng bố mẹ: “Trẻ em tạm thời hoặc
hoàn toàn không được sống trong môi trường gia đình hoặc vì lý do ảnh hưởng đến
lợi ích của một cá nhân không được quyền tiếp tục sống trong môi trường gia đình
sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ đặc biệt của Nhà nước” [21].
1.1.6. Khái niệm Cộng đồng

“Cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người
sống chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh
học nào đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào
đấy” (Trung tâm Nghiên cứu và Tập huấn PTCĐ)
1.1.7. Hoà nhập cộng đồng
Hòa nhập cộng đồng theo nghĩa rộng là một xã hội không có rào cản cho mọi
người trong việc tham gia vào các hoạt động đời sống xã hội. Trong tiến trình xã

10


hội hóa của cá nhân sẽ không gặp bất cứ khó khăn nào làm trở ngại đến tâm lý, sức
khỏe và về mặt xã hội.
Theo nghĩa hẹp đó là sự hòa nhập của các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương
trong việc tham gia vào đời sống xã hội. Những rào cản này bao gồm thái độ kỳ thị xa
lánh và phân biệt đối xử thậm chí là bất bình đẳng của cộng đồng đối với từng cá nhân.

1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi trong việc tiếp cận các
dịch vụ
1.2.1. Quan điểm tiếp cận phát triển công tác xã hội với trẻ em mồ côi
- Tiếp cận dựa trên quyền con người và quyền trẻ em: Quyền con người nói
chung và quyền trẻ em nói riêng là một giá trị hội tụ của nhiều giá trị khác nhau nhằm
đảm bảo quyền sống, học tập, làm việc, tham gia, quyền được coi trọng… và là thành
quả của quá trình phát triển của con người. Riêng về nhóm trẻ em mất nguồn nuôi
dưỡng, Công ước Quốc tế về quyền trẻ em cũng đã nhấn mạnh những trẻ em tạm thời
hay vĩnh viễn bị tước mất môi trường gia đình của mình, hoặc vì những lợi ích tốt
nhất của chính bản thân mình mà không được phép tiếp tục ở trong môi trường ấy, có
quyền được hưởng sự bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước. Các quốc gia thành
viên phải bảo đảm cho các trẻ em như thế được hưởng sự chăm sóc thay thế tương
ứng phù hợp với luật pháp quốc gia.
- Tiếp cận từ khía cạnh công bằng xã hội: Mỗi cá nhân con người sinh ra
chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan đã dẫn đến không có điều
kiện để tiếp cận và hưởng lợi từ thành quả phát triển xã hội. Khi nghiên cứu về
Công bằng xã hội, chúng ta thấy có một số yếu tố khiến bất công xã hội gia tăng, đó
là: yếu tố tự nhiên; yếu tố năng lực; yếu tố cơ chế chính sách. Những yếu tố trên
cho thấy bất công xã hội về dịch vụ chăm sóc, cũng như những điều kiện môi
trường sống, hòa nhập của trẻ em vẫn còn có nhiều khác biệt. Sự khác biệt này thể
hiện ở khu vực sông (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng), nhóm cộng đồng
dân tộc... Điều này đòi hỏi khi xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ CTXH chăm
sóc trẻ em nói chung, trẻ em mồ côi nói riêng phải tính đến đặc thù này. Mục tiêu là
không chỉ là giải quyết vấn đề bất bình đẳng giữa các nhóm, mà còn không làm gia
tăng sự bất bình đẳng.

11


- Tiếp cận từ khía cạnh quyền được bảo đảm an sinh xã hội: Việt Nam xác

định mọi công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội, đây là vấn đề có tính
nhân văn sâu sắc trong hiến pháp nước ta. Việc thừa nhận quyền được bảo đảm an
sinh xã hội của công dân, cũng là thừa nhận trách nhiệm của nhà nước, gia đình và
cộng đồng xã hội trong việc thực hiện các biện pháp đảm bảo an sinh xã hội cho
người dân.
- Tiếp cận dựa theo vòng đời của trẻ em: Một trong những phương pháp tiếp
cận xây dựng chính sách được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm hiện nay là
phương pháp tiếp cận dựa trên vòng đời. Việc tiếp cận theo vòng đời cho phép chúng
ta nhận dạng được những khó khăn, những rủi ro, những rào cản, những nhu cầu của
con người trong từng giai đoạn vòng đời từ giai đoạn (i) ấu thơ, (ii) trẻ em, (iii)
thanh niên, (iv) trung niên, (v) người già. Trong đó trẻ em lại được chia nhỏ các giai
đoạn 36 tháng tuổi, dưới 6 tuổi, 6-16 tuổi... Đây là cách tiếp cận mang tính tổng thể,
không bỏ sót bất cứ khó khăn nào trong các giai đoạn của vòng đời của trẻ.
- Tiếp cận theo nhu cầu: Tiếp cận theo nhu cầu của trẻ là cách tiếp cận dựa
trên việc đáp ứng tốt nhất của các dịch vụ CTXH đối với các nhu cầu của trẻ em.
- Tiếp cận dựa trên hoạt động bảo vệ trẻ em: Hoạt động bảo vệ trẻ em được
hiểu là những hoạt động hướng đến đảm bảo các yếu tố vật chất và tinh thần giúp
cho trẻ em được phát triển một cách toàn diện. Các yếu tố liên quan đến bảo vệ trẻ
em như bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ thể chất, bảo vệ tâm sinh lý, bảo vệ chế độ
chính sách dành cho trẻ em, bảo đảm môi trường sống an toàn, lành mạnh…
1.2.2. Cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho trẻ em mồ côi
Mọi trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, đó là trách nhiệm của
nhà nước, gia đình và xã hội:
Về bảo vệ trẻ em là tạo dựng môi trường bảo vệ an toàn cho mọi trẻ em, để
trẻ em không bị ngược đãi, bạo lực, xâm hại, bóc lột và bỏ mặc, trợ giúp trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt.
Về chăm sóc, bảo đảm dinh dưỡng là cung cấp những chất cho cơ thể nguồn
sống và năng lượng để cơ thể hoạt động. Với cơ thể trẻ em còn non nớt, để phát
triển cân đối và đảm bảo có đủ sức khỏe cơ thể các em cần được cung cấp đủ các
chất dinh dưỡng. Các em cần được ăn đủ no, đủ bữa và đủ các chất dinh dưỡng như


12


chất đạm (prôtêin), chất béo (lipit), chất đường (gluxit), chất khoáng, vitamin và
nước. Ngày 25/02/2011, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số
04/2011/BLĐTBXH-TT quy định tiêu chuẩn chăm sóc tại cơ sở bảo trợ xã hội. Trong
đó có một số tiêu chuẩn liên quan đến hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe thể chất
và tinh thần cho trẻ em tại cơ sở bảo trợ xã hội [24, tr. 33]. Theo đó, để đảm bảo trẻ
được cung cấp đầy đủ các bữa ăn với đầy đủ dinh dưỡng cần các tiêu chuẩn sau:
Cung cấp ít nhất ba bữa ăn sáng, trưa và tối mỗi ngày; Bảo đảm dinh dưỡng đủ calo,
có chất đạm (thịt, cá, đậu nành, chất bột đường, ngũ cốc, rau quả); Có chế độ dinh
dưỡng đặc biệt cho những đối tượng có nhu cầu đặc biệt như trẻ sơ sinh, trẻ khuyết
tật, trẻ nhiễm HIV… Vậy với vai trò là cơ sở BTXH có các đội ngũ NVCTXH, hoạt
động chăm sóc về dinh dưỡng cần phải phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của
mình với “tinh thần phục vụ” trẻ. Thể hiện được vai trò là cầu nối giữa trẻ với lãnh
đạo của cơ sở BTXH cũng như các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, nhằm tìm
kiếm các nguồn hỗ trợ để giúp cải thiện bữa ăn và đảm bảo dinh dưỡng tốt hơn cho
trẻ. Ngoài ra, NVCTXH cũng cần biết đánh giá về chất lượng các bữa ăn của trẻ, từ
đó có những đề xuất, kiến nghị với cấp trên, các cơ quan, ban ngành trong việc trợ
giúp thêm nguồn thực phẩm, dinh dưỡng cho trẻ. Như vậy, chúng ta có thể nhận
thấy việc đáp ứng một cách đầy đủ, tốt nhất cho trẻ mồ côi về dinh dưỡng là nhu
cầu cấp thiết và quan trọng hàng đầu tại mỗi cơ sở bảo trợ xã hội và cũng là nhiệm
vụ quan trọng của các nhân viên công tác xã hội.
Về Chăm sóc, bảo đảm nơi ở: Cơ sở BTXH là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc, trợ
giúp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội, trong đó có nhóm trẻ mồ côi. Tại các cơ sở
BTXH các em được nuôi dưỡng, chăm sóc và các cơ sở BTXH thực hiện nhiệm vụ của
mình tuân theo một số tiêu chuẩn về môi trường, khuôn viên và nhà ở như sau: [24,
tr.33] Cơ sở BTXH có ít nhất một khu vườn, cột cờ và không gian phù hợp cho đối
tượng tập thể dục, vui chơi và thể thao. Nếu có ao, hồ thì cần được rào lại, bảo đảm

an toàn cho đối tượng; Có khu đất để tăng gia, sản xuất phục vụ cuộc sống, sinh
hoạt hàng ngày tại cơ sở BTXH; Có nơi đổ rác, chất thải thường xuyên và xử lý rác,
chất thải phù hợp; Có hệ thống thoát nước; Có khu chăn nuôi gia súc, gia cầm cách
xa khu vực văn phòng và nhà ở; Có tường rào và đèn chiếu sáng nhằm đảm bảo sự
an toàn cho cơ sở BTXH. Cổng cơ sở BTXH có biển ghi tên và địa chỉ rõ ràng; Cơ

13


sở vật chất của cơ sở BTXH bảo đảm có: Cửa ra vào, cửa sổ cung cấp đủ ánh sáng
và bảo đảm thông thoáng; Các hệ thống bảo đảm an toàn cho đối tượng, bao gồm
việc lắp đặt các hệ thống điện, gas và thoát nước một cách phù hợp; Các thùng rác
phù hợp; Nhà vệ sinh, nhà tắm phù hợp với các nhóm đối tượng, bao gồm cả người
khuyết tật; có nhà vệ sinh, nhà tắm riêng cho phụ nữ; Phòng ngủ của đối tượng có
diện tích phù hợp và đảm bảo diện tích để đặt các ngăn tủ chứa vật dụng cá nhân
cho không quá 8 người; Sắp xếp việc ngủ, nghỉ cho đối tượng phù hợp với độ tuổi
và giới tính; Có khu sinh hoạt chung cho đối tượng trong thời gian rảnh rỗi; Có bếp
và phòng ăn chung cho đối tượng; Có phòng y tế để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho
đối tượng; Có trang thiết bị cần thiết cho người khuyết tật.
Để có thể đáp ứng tốt cho đối tượng là trẻ mồ côi NVCTXH nói riêng và cơ sở
BTXH nói chung cần thực hiện được một số vai trò, nhiệm vụ như: cơ sở BTXH và
NVCTXH luôn coi đối tượng trẻ mồ côi là mối quan tâm hàng đầu và dành sự quan
tâm, chăm sóc về không gian sống cho trẻ một cách tốt nhất. Tôn trọng trẻ mồ côi
về không gian sống của trẻ, không ép trẻ phải ở trong một phòng ở quá chật hẹp và
thiếu ánh sáng… Có thái độ công bằng giữa các trẻ trong việc sắp xếp không gian ở,
không phân biệt đối xử giữa các đối tượng. Cơ sở BTXH và NVCTXH là cầu nối
giữa trẻ mồ côi với các tổ chức, cá nhân có thể trợ giúp tài chính, cơ sở vật chất
phục vụ cho việc xây, sửa không gian sống, khu nhà ở cho trẻ. Trên đây là một số
vai trò, trách nhiệm của cơ sở BTXH và NVCTXH trong việc đáp ứng nhu cầu về
nhà ở cho trẻ mồ côi. Nếu trẻ mồ côi tại các cơ sở BTXH được đáp ứng tốt về

không gian sống, sẽ tạo cho các em có được cảm giác an toàn, thoải mái, ấm cúng
và khiến tinh thần các em vui vẻ hơn.
Về chăm sóc về vệ sinh,nước sạch và đồ dùng sinh hoạt: Ngày 25/02/2011,
Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2011/BLĐTBXH-TT
quy định tiêu chuẩn chăm sóc tại cơ sở BTXH. Trong đó, có một số tiêu chuẩn liên
quan đến hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho trẻ em tại cơ
sở BTXH. Đặc biệt, có nhấn mạnh tới yếu tố chăm sóc về vệ sinh, nước sạch và đồ
dùng sinh hoạt: Cung cấp đầy đủ nước uống sạch và bảo đảm vệ sinh tắm, giặt hàng
ngày cho đối tượng; Cung cấp đồ dùng vệ sinh cá nhân, gồm xà phòng tắm, khăn
tắm, khăn mặt, kem đánh răng và bàn chải đánh răng riêng; Cung cấp đồ dùng phục

14


vụ việc ngủ, gồm giường nằm, chiếu, gối, chăn, màn; Có nội quy riêng của cơ sở
BTXH quy định dọn dẹp vệ sinh và vệ sinh cá nhân. Việc chăm sóc trẻ về vệ sinh,
nước sạch và đồ dùng sinh hoạt tại các cơ sở BTXH cũng luôn đặc biệt được quan
tâm. Ở đây các NVCTXH cần thực hiện một số vai trò như là người chăm sóc,
hướng dẫn trẻ về cách vệ sinh, sử dụng nước cũng như cách sử dụng vệ sinh và bảo
quản các đồ dùng sinh hoạt. Là người luôn bên cạnh quan sát và quan tâm kịp thời
với những trường hợp trẻ gặp vấn đề về vệ sinh như: tiêu chảy, sử dụng nước chưa
đảm bảo… NVCTXH là người có những cách đánh giá và xin ý kiến cấp trên kịp
thời về các vấn đề liên quan tới vệ sinh, nước sạch, đồ dùng sinh hoạt, nhằm đáp
ứng kịp thời và đúng lúc cho trẻ. Ngoài ra, NVCTXH cũng có thể là cầu nối xin tài
trợ từ các cá nhân, tổ chức cho trẻ về các đồ dùng sinh hoạt như: bàn chải đánh
răng, cốc, bát…Trên đây là một số tiêu chuẩn và vai trò của NVCTXH trong việc
trợ giúp, đáp ứng nhu cầu về vệ sinh, nước sạch và đồ dùng sinh hoạt cho trẻ mồ côi
tại các cơ sở BTXH. Việc đáp ứng tốt các nhu cầu đó sẽ giúp trẻ phòng tránh được
bệnh tật và phát triển một cách tốt nhất.
Về chăm sóc về y tế: theo Điều 15, Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em

quy định: Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Trẻ em dưới 6 tuổi
được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám chữa bệnh không phải trả tiền tại các
cơ sở y tế công lập. Điều 27 của Luật này cũng quy định: cha mẹ, người giám hộ có
trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khỏe, tiêm chủng, khám chữa
bệnh cho trẻ em. Theo quy định của Luật về chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, thì mọi
trẻ em đều có quyền được chăm sóc như nhau, không phân biệt đối sử. Hoạt động
chăm sóc sức khỏe về y tế là nhu cầu không thể thiếu đối với trẻ em, bởi chính các
em là đối tượng còn non nớt về thể chất, trí tuệ, bản thân các em còn nhỏ và cơ thể
đang trong quá trình phát triển. Vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe về y tế là một hoạt
động rất quan trọng và cần được thực hiện thường xuyên hoặc định kỳ. Đặc biệt là
đối tượng trẻ em mồ côi, tại các cơ sở BTXH. Tại các cơ sở BTXH, ngoài vai trò
chăm sóc của nhân viên y tế, NVCTXH cũng có một số trách nhiện và vai trò cơ
bản như là người chăm sóc cho trẻ về mặt thể chất và tinh thần; là người phát hiện
kịp thời các vấn đề liên quan tới sức khỏe của trẻ và kịp thời đưa trẻ tới Phòng y tế
của cơ sở và tuyến trên nếu cần thiết; có thái độ làm việc, chăm sóc trẻ tậm tâm,

15


nhiệt tình; là người đứng ra bảo lãnh, ký các giấy tờ liên quan tới phẫu thuật nếu trẻ
phải phẫu thuật tại bệnh viện (áp dụng với trẻ mồ côi cả cha mẹ và không còn người
thân thiết); là cầu nối xin nguồn hỗ trợ về việc cấp phát thuốc và tư vấn chăm sóc
sức khỏe cho trẻ với các tổ chưc, các nhân. Trên đây là một số tiêu chuẩn về chăm
sóc y tế với các đối tượng tại các cơ sở BTXH và một số trách nhiệm, vai trò của
NVCTXH đối với trẻ mồ côi tại các cơ sở BTXH. Việc đáp ứng tốt, đúng lúc, phù
hợp các nhu cầu về chăm sóc sức khỏe cho trẻ mồ côi tại cơ sở BTXH sẽ giúp trẻ
cảm thấy được quan tâm, được yêu thương, chăm sóc và yên tâm học tập.
Về trang cấp quần áo: Theo quy định chung Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội ban hành Thông tư số 04/2011/BLĐTBXH-TT quy định tiêu chuẩn chăm sóc tại cơ
sở BTXH. Đối tượng được trang bị quần áo đầy đủ và được trang bị đồng phục đi học

(đối với trẻ trong độ tuổi đi học), tất, giày và dép được cung cấp ít nhất 6 tháng/01lần
và được thay thế trong trường hợp bị hư hỏng, mất và quần áo mặc đủ ấm về mùa
đông. NVCTXH tại các cơ sở BTXH cần thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình
trong việc chăm sóc cho trẻ về nhu cầu quần áo. Đặc biệt với trẻ nhỏ còn chưa tự
chăm sóc được cho bản thân, NVCTXH cần chuẩn bị quần áo phù hợp với thời tiêt
cho trẻ, nhất là khi trời lạnh, nhằm đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Ngoài ra, NVCTXH
cũng có thể là cầu nối xin các nguồn hỗ trợ về đồng phục học sinh, các loại quần áo,
giày dép cho trẻ tại cơ sở mình đang làm việc.
Về nhu cầu chăm sóc về tâm lý, tình cảm: Nhu cầu chăm sóc về tâm lý, tình
cảm là nhu cầu xây dựng được ý thức phù hợp và toàn diện về con người, giá trị và
khả năng hành động của bản thân cũng như việc đáp ứng được nhu cầu gắn bó của
người chăm sóc đối với trẻ. Giúp cho trẻ hình thành cái tôi, cảm xúc, tình cảm tích
cực và trẻ biết quan tâm tới người khác, từ đó có thể xây dựng được những mối
quan hệ tình cảm tích cực với những người xung quanh. Với trẻ mồ côi tại các cơ sở
BTXH, việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc về tâm lý, tình cảm càng quan trọng và cần
thiết hơn hết. Để có thể đáp ứng tốt NVCTXH cần thể hiện được một số vai trò,
nhiệm vụ sau: là người chăm sóc thay thế cho trẻ (có thể có vai trò như cha mẹ trẻ);
là người hiểu được tâm tư tình cảm, các đặc điểm tâm sinh lý của từng lứa tuổi để
có thể chia sẻ cùng trẻ những lúc vui buồn; là người tổ chức các hoạt động vui chơi
giúp trẻ có tâm trạng thoải mái và có tinh thần lạc quan yêu đời hơn; với những

16


NVCTXH được đào tạo chuyên sâu và có kiến thức, kinh nghiệm về tham vấn, tư
vấn, trị liệu cũng có thể thực hiện các hoạt động đó đối với trẻ. Như vậy, có thể
nhận thấy việc đáp ứng tốt nhu cầu về tâm lý, tình cảm cho trẻ là việc làm cần thiết,
giúp trẻ cảm thấy mình được yêu thương, tôn trọng và là người có giá trị. Từ đó các
em có ý chí phấn đấu sống và học tập tốt hơn.
Về nhu cầu chăm sóc về đạo đức, giao tiếp xã hội: Với trẻ em mồ côi, các em

là những người chịu nhiều thiệt thòi hơn cả về việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc về
đạo đức, giao tiếp. Vì vậy, NVCTXH cần thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của
mình với trẻ như sau: là người tôn trọng giá trị của trẻ, tôn trọng mọi quyết định của
trẻ trên tinh thần vì quyền lợi của trẻ; là người giáo dục trẻ, giúp trẻ có những ứng
xử, hành vi đúng đắn; là cầu nối giữa trẻ với gia đình, nhà trường trong hoạt động
phối hợp giáo dục trẻ…
Về nhu cầu về vui chơi giải trí: Thông tư số 04/2011/BLĐTBXH-TT của Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội ngày 25/02/2011 ban hành quy định tiêu chuẩn
chăm sóc tại cơ sở BTXH trong đó có mục quy định về tiêu chuẩn thể thao và giải
trí đối với trẻ [24, tr. 33]: Tham gia vào các hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí phù
hợp với lứa tuổi và người dân ở cộng đồng; hỗ trợ cho người khuyết tật tham gia một
cách an toàn vào các hoạt động kể trên; Được tạo điều kiện để làm quen, kết bạn với
những người sống xung quanh, bạn học ở trường và cộng đồng; gặp gỡ với gia đình
hoặc những người thân, bạn bè, trừ một số trường hợp có khả năng đe dọa đến sự an
toàn của đối tượng. Với trẻ em mồ côi thì nhu cầu về vui chơi giải trí càng trở nên
quan trọng và không thể thiếu đối với các em. Thông qua các hoạt động vui chơi, các
em cảm thấy tinh thần được thoải mái, cảm thấy cuộc sống có ích và gần gũi với mọi
người hơn. Vì lí do đó, tại các cơ sở BTXH, ngoài việc thiết kế khu vực ăn, ở của trẻ,
việc thiết kế các khu vực vui chơi giải trí là không thể thiếu. NVCTXH tại các cơ sở
BTXH luôn là người tạo mọi điều kiện cho trẻ tham gia vui chơi, giải trí; tổ chức cho
trẻ được đi thăm quan, đi chơi tại các khu vui chơi, công viên…
Tham gia hoạt động xã hội: tại Khoản 2, Điều 20, Luật bảo vệ chăm sóc giáo
dục trẻ em quy định: “Trẻ em được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với nhu cầu
và năng lực của mình”. Khoản 2, Điều 32 của Luật này cũng quy định: “Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường có trách nhiệm tổ chức cho trẻ tham

17


gia các hoạt động xã hội và sinh hoạt tập thể phù hợp với nhu cầu và lứa tuổi”.

Tham gia hoạt động xã hội đặc biệt có ý nghĩa đối với trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn nói chung và với trẻ em mồ côi nói riêng, nó giúp trẻ thấy mình được hòa
nhập, được mọi người đồng cảm, chia sẻ và quan tâm. Vì điều đó mà các NVCTXH
tại các cơ sở BTXH cần quan tâm và tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động xã hội;
khuyến khích các em tham gia một cách tự nguyện; tôn trọng quyền được tham gia
của trẻ; không ép trẻ phải tham gia nếu trẻ không có nhu cầu.
1.3. Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục
Tại Điều 28, Công ước quốc tế về quyền trẻ em, các quốc gia thành viên
công nhận quyền của trẻ em được học hành và đưa ra những yêu cầu cần phải thực
hiện để mọi trẻ em được học tập và có điều kiện học tập tốt như: thi hành giáo dục
tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người; tiến hành các biện pháp
khuyến khích việc đi học đều đặn ở trường và giảm tỷ lệ bỏ học… Điều 16, Luật bảo
vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (năm 2004) quy định: Trẻ em có quyền được học tập. Trẻ em
học bậc Tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí.
Để đáp ứng tốt nhu cầu học tập của trẻ mồ côi phụ thuộc nhiều vào vai trò
của các NVCTXH tại các cơ sở BTXH, NVCTXH có vai trò sau: là người tạo điều
kiện để trẻ được tới trường; là cầu nối giữa trẻ với nhà trường; đóng vai trò thay thế
cha mẹ trẻ để giải quyết các công việc liên quan tới trẻ về giáo dục (đi họp phụ
huyn...); là người dạy kèm, hỗ trợ trẻ các bài tập ở nhà cũng như là người đứng ra
bảo vệ trẻ trước các vấn đề có liên quan tới quyền lợi của trẻ…
1.3.1. Giáo dục phổ thông
Luật Giáo dục đã thể hiện khá cụ thể quyền được học tập và biện pháp đảm
bảo quyền được học tập và phát triển của trẻ em, thể hiện qua việc quy định về Hệ
thống giáo dục quốc dân, độ tuổi giáo dục. Luật quy định giáo dục phổ thông gồm
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên ở mọi cấp học [6, tr. 17]. Trẻ em mồ
côi cần được học tập như bao trẻ em khác. Đối với các em, học tập không chỉ là một
quyền mà đó còn là cơ hội cho tương lai. Đi học đối với các em cũng không chỉ đơn
thuần là tiếp nhận kiến thức mà đó là môi trường quan trọng nhất để trẻ hòa nhập xã
hội. Vì vậy, người chăm sóc và các ban ngành liên quan cần tạo mọi điều kiện để trẻ
mồ côi được đến trường.


18


Với những trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở BTXH có một số
tiêu chuẩn về giáo dục và học nghề [24, tr. 33]. Cơ sở BTXH bảo đảm cung cấp cho
đối tượng được học văn hoá (đối với người có khả năng học tập); được học nghề
(đối với trẻ em từ 13 tuổi trở lên và những người có khả năng lao động và có nhu
cầu học nghề), cụ thể: Bảo đảm phổ cập giáo dục theo quy định tại khoản 1, Điều
11 Luật Giáo dục năm 2005; Cung cấp giáo dục chính quy hoặc không chính quy
trong các trường công lập, dân lập hoặc các cơ sở bảo trợ xã hội; Giáo dục đối tượng
về đạo đức xã hội, vệ sinh, kiến thức phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS, sức khỏe sinh
sản và các chủ đề khác phù hợp với độ tuổi và giới tính; Hướng dẫn đối tượng các
phương pháp tự phòng tránh buôn bán, lạm dụng, bạo hành và bóc lột; Cung cấp
sách vở, tài liệu học tập và bố trí nơi học tập cho đối tượng; Tư vấn để đối tượng tự
lựa chọn học nghề và phù hợp với điều kiện của địa phương; Đối tượng được hỗ trợ học
tiếp lên hoặc học nghề tùy thuộc vào độ tuổi, sự lựa chọn và nhu cầu thị trường.
Như vậy, việc đáp ứng nhu cầu cho các trẻ em mồ côi tại các cở sở BTXH
được học tập như bao trẻ khác là một hoạt động cần thiết và không thể thiếu đối với
mỗi cơ sở BTXH. Các em dù xuất thân như thế nào, có nhân cách ra sao cũng cần
được bảo vệ, chăm sóc và đáp ứng dịch vụ giáo dục, được học theo nhu cầu của
mình để có hành trang cho tương lai sau này.
1.3.2. Giáo dục kỹ năng sống
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là “Khả năng thích nghi và
hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách
thức của cuộc sống hàng ngày”. Hoặc KNS là tập hợp các kỹ năng được rèn luyện
hoặc kinh nghiệm thực tế được sử dụng để xử lý những vấn đề trong cuộc sống.
Một quan điểm khác cho rằng KNS là những kỹ năng thuộc về tính cách,
không mang tính chuyên môn, nhưng lại cực kỳ cần thiết trong mọi trường hợp,
mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi. KNS được chia thành 2 loại: kỹ năng cơ bản và kỹ

năng nâng cao. Vậy tại sao chúng ta phải giáo dục KNS cho trẻ mồ côi? Vì GD
KNS giúp các em biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. GD KNS nhằm giúp
các em bảo vệ chính bản thân mình và giúp trang bị cho các em thêm hành trang bước
vào đời.

19


Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của các cơ sở BTXH nói chúng,
của NVCTXH nói riêng là rất quan trọng trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện, kết nối trẻ
tham gia học KNS ngay tại cơ sở BTXH hoặc tại các trung tâm đào tạo về KNS.
1.4. Một số thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài
1.4.1. Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
- Nội dung của lý thuyết.
Thuyết nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử dụng
ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội. Trong số đó có thể chú ý đến
tháp nhu cầu được nhà tâm lý học Abraham Maslow đưa ra vào năm 1943. Theo
ông, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic
needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs). Dưới đây là năm tầng trong tháp nhu cầu
của Maslow gồm:
Hình 1.1. Thang nhu cầu của Maslows

(1) Các nhu cầu căn bản nhất thuộc về "thể lý" (physiological) - thức ăn,
nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi...; (2) Nhu cầu an toàn
(safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe,
tài sản được đảm bảo; (3) Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình

20



×