Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với người có công bị tâm thần từ thực tiễn trung tâm chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.81 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HẢI
DANH MỤC VIẾT TẮT

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
BỊ TÂM THẦN TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
CHĂM SÓC VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO
NGƯỜI TÂM THẦN TỈNH THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HẢI

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
BỊ TÂM THẦN TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
CHĂM SÓC VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO
NGƯỜI TÂM THẦN TỈNH THÁI BÌNH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG HẢI

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả và số liệu
trong khóa luận chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Học viện về sự an cam đoan này.

Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2016
Học viên

Phạm Văn Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG BỊ TÂM THẦN .................................... 11
1.1. Những vấn đề Lý luận về người có công và bệnh tâm thần .............. 11
1.2. Lý luận về công tác xã hội nhóm....................................................... 18
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI
CÓ CÔNG BỊ TÂM THẦN TẠI TRUNG TÂM CHĂM SÓC VÀ PHỤC
HỒI CHỨC NĂNG CHO NGƯỜI TÂM THẦN TỈNH THÁI BÌNH ...........30
2.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu .......................................................... 30
2.2. Đặc điểm về người có công tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi
chức năng cho người tâm thần tỉnh Thái Bình ......................................... 31

2.3. Thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với người có công bị
tâm thần tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm
thần tỉnh Thái Bình ................................................................................... 33
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG BỊ TÂM THẦN TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM CHĂM SÓC VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO
NGƯỜI TÂM THẦN TỈNH THÁI BÌNH .................................................. 64
3.1. Những phát hiện của nghiên cứu ....................................................... 64
3.2. Các nhóm giải pháp ........................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác xã hội

BTXH

Bảo trợ xã hội

NCC

Người có công

NTT

Người tâm thần


HĐN

Hoạt động nhóm

NVXH

Nhân viên xã hội

CSXH

Chính sách xã hội

TTCTXH

Trung tâm công tác xã hội

TTBTXH

Trung tâm bảo trợ xã hội

ĐT

Đối tượng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh đã dần lùi xa nhưng hậu quả do chiến tranh để lại là quá
lớn. Chúng không chỉ tàn phá nặng nề nền kinh tế của nước ta, mà còn để lại

những thương tật, những mất mát mà bao người con ưu tú của dân tộc phải
mang trên mình suốt phần đời còn laị, nó ảnh hưởng đến mọi khía cạnh đời
sống của những người có công. Đó là những nỗi đau không gì có thể bù đắp
hết. Những năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về chính trị,
kinh tế và xã hội. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục và ổn định,
đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta luôn dành sự quan tâm ưu đãi đặc biệt đến những người có công với cách
mạng, Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn
đề xã hội bức xúc cần được xem xét một cách nghiêm túc để có hướng đi
đúng với mục tiêu phát triển vì con người.
Hiện tại cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công với cách mạng được
hưởng chế độ ưu đãi một lần và hàng tháng, chiếm khoảng 10% dân số. Trong
đó, khoảng 1,47 triệu người hưởng trợ cấp hàng tháng, hàng trục nghìn con
thương binh, liệt sỹ được hưởng chế độ ưu đãi về giáo dục, đào tạo, chăm sóc y
tế, hơn 1000 cán bộ lão thành cách mạng được hỗ trợ cải thiện nhà ở [1].
Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm thần Thái
Bình tiền thân là Trung tâm điều dưỡng người tâm thần có công, có nhiệm vụ
chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm thần và người rối nhiễu tâm trí
trong đó có đối tượng là người có công bị bệnh tâm thần. Trong những năm
qua, Trung tâm đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, giải quyết các
chế độ cho đối tượng theo đúng quy định. Do vậy, đời sống của Người có
công bị bệnh nuôi dưỡng tại Trung tâm đã phần nào được ổn định và cải
thiện. Tuy nhiên, hiện nay Trung tâm đang quản lý và chăm sóc cho 200 đối

1


tượng, trong đó có 57 đối tượng là người có công bị bệnh tâm thần [2]. Hơn nữa
đội ngũ cán bộ còn mỏng nên việc chăm sóc, giúp đỡ mới chỉ đáp ứng được
những nhu cầu thiết yếu của họ mà chưa thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng và

giải quyết những vấn đề mang tính chất cá nhân, nhóm đối tượng đặc thù.
CTXH nhóm là một trong các phương pháp cốt lõi của nghề CTXH.
CTXH nhóm sử dụng các kỹ năng tương tác và hỗ trợ cho các nhóm thân chủ
nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của họ. Hiệu quả của CTXH nhóm đã
được chứng minh thông qua nhiều hoạt động thực tiễn. Một điểm tích cực nữa
là phương pháp này có thể cung cấp các dịch vụ cho nhiều đối tượng mà
không cần nhiều nhân viên xã hội. Điều này rất phù hợp với thực tiễn những
khó khăn vướng mắc mà trung tâm đang gặp phải. Vận dụng phương pháp
CTXH nhóm, trong thời gian qua trung tâm đã triển khai một số các hoạt
động CTXH nhóm với đối tượng là NCC. Mặc dù đã có những hiệu quả nhất
định, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân nên hoạt động này còn gặp phải một số
hạn chế. Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn đề tài: “Công tác xã hội
nhóm đối với người có công bị tâm thần từ thực tiễn Trung tâm Chăm sóc
và Phục hồi chức năng cho người tâm thần tỉnh Thái Bình” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Trong đề tài: “Công tác xã hội với nhóm trẻ em khuyết tật, thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp can thiệp ở tỉnh Quảng Trị” tác giả Lê Doãn Nam
lại chọn một đối tượng cụ thể để nghiên cứu đó là trẻ em khuyết tật. Đây là
nhóm đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất trong sinh hoạt cũng như học tập,
các em rất khó để hòa nhập vì tâm lí tự ti luôn bao trùm làm các em cảm thấy
mặc cảm. Bên cạnh đó tác giả cũng nêu lên thực trạng, nguyên nhân cũng như
đưa ra một số giải pháp để giúp các em vượt qua được những rào cản đó. Các
em dù thế nào thì cũng là thế hệ trẻ của tương lai chính vì vậy mà cần có

2


những biện pháp can thiệp sớm, giúp các em được đến trường để sau này có
được một công việc ổn định góp phần xây dựng đất nước [8].

- An sinh xã hội đối với gia đình người có công với cách mạng và nạn
nhân chiến tranh huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên (Nghiên cứu trường hợp tại
3 xã: Xã Trung Hưng, xã Lý Thường Kiệt, thị trấn Yên Mỹ)”. Thông qua
việc tìm hiểu thực trạng tiếp cận các dịch vụ An sinh xã hội và tiếp cận lý
thuyết Nhu cầu và thuyết Chức năng, khóa luận đã phân tích được thực trạng
đời sống cũng như khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội
của nhóm đối tượng trên. Đồng thời cũng chỉ ra những tác động của chính
sách an sinh xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến đời sống của gia đình
người có công và nạn nhân chiến tranh. Mặc dù nhận được rất nhiều sự hỗ
trợ của các chính sách an sinh xã hội từ phía Nhà nước tuy nhiên do chịu hậu
quả trực tiếp và gián tiếp của chiến tranh, gia đình Người có công và Nạn
nhân chiến tranh gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc tiếp cận các
dịch vụ an sinh xã hội. Những nhân tố tác động trực tiếp và có sức ảnh
hưởng lớn đến việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội là thu nhập, nó trở
thành yếu tố quyết định mạnh mẽ đối với từng hộ gia đình khi tiếp cận các
dịch vụ an sinh xã hội.
- Giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn công tác
thương binh liệt sỹ và người có công ở thị xã Cửa Lò [13]. Nghiên cứu đã
đánh giá về thực trạng đời sống NCC ở Thị Xã Cửa Lò cũng như tình hình
thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với NCCVCM ở Thị Xã Cửa Lò. Tác
giả cũng tập trung nghiên cứu quá trình tổ chức, thực hiện công tác xã hội hóa
chăm sóc NCC ở Thị Xã Cửa Lò. Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến
những vướng mắc và tồn tại trong công tác NCCVCM ở Thị Xã Cửa Lò từ đó
đề ra những giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn công tác
thương binh – liệt sỹ và người có công ở Thị Xã Cửa Lò.

3


- Trong một nghiên cứu khác, tác giả Trịnh Văn Đệ đã tìm hiểu về lĩnh

vực Hoàn thiện công tác quản lý người có công huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh
Hóa [3]. Tiếp cận theo hướng này, tác giả tập trung vào khía cạnh nâng cao
chất lượng quản lý NCC, tìm hiểu và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
vấn đề quản lý để có thể đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả tốt
nhất trong các hoạt động hỗ trợ, chăm sóc NCCVCM. Tác giả cũng đã có
những đánh giá và phân tích những đặc điểm tình hình riêng của Thanh Hóa
để từ đó có những vận dụng với các địa bàn khác.
- Cùng quan điểm này, tác giả Phạm Thị Trang đã triển khai nghiên cứu
Tình hình thực hiện chính sách người có công với cách mạng ở phường Yên
Phụ hiện nay - Nguyên nhân và giải pháp [14]. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về người có công như các khái niệm, hệ thống
luật pháp và chính sách đối với người có công. Trên cơ sở đó tác giả đã phân
tích tình hình thực hiện chính sách đối với người có công tại phường Yên
Phụ. Nhìn chung việc thực hiện chính sách ở đây đã được triển khai khá tốt,
tuy nhiên để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách thì cần phải
nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ vì phần lớn họ tốt nghiệp từ những
chuyên ngành khác nên còn gặp những vướng mắc nhất định khi có những
chính sách mới.
- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức thực thi chính sách chăm
sóc Người có công tại phòng lao động thương binh và xã hội quận Hồng
Bàng - Hải Phòng (2010). Việc thực thi chính sách với người có công cũng
được nghiên cứu tại địa bàn Hải Phòng. Ngoài những chính sách được thực
thi theo quy định của Nhà nước, tác giả còn tập trung phân tích điều kiện
riêng của Hải Phòng để đưa ra những chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ việc
thực thi chính sách tại Hải phòng được hiệu quả hơn. Kết quả của nghiên cứu
tập trung vào những kiến nghị về Chính sách, cơ cấu tổ chức và nhân sự triển

4



khai chính sách, những thủ tục hành chính và phương thức triển khai việc chi
trả chính sách…
- Đề tài Nâng cao đời sống Người có công ở tỉnh Quảng Nam (2012).
Trong nghiên cứu này, các khía cạnh về đời sống người có công như kinh tế,
tinh thần, xã hội được tác giả tập trung phân tích khá kỹ. Kết quả nghiên cứu
cho thấy người có công đã phần nào được hỗ trợ các chính sách về kinh tế.
Tuy nhiên đời sống về tâm lý và xã hội thì còn chưa được quan tâm nhiều.
Với những người sống cùng con cái và có mối quan hệ tốt trong cộng đồng thì
ít gặp vấn đề. Ngược lại với những người ít có các mối quan hệ thì thường họ
sẽ gặp phải nhiều vấn đề đặc biệt là các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm
thần. Do đó nghiên cứu đã đề xuất ra nhiều giải pháp trong việc nâng cao chất
lượng sống không chỉ về khía cạnh kinh tế mà còn nhấn mạnh đến đời sống
tinh thần và xã hội.
Như vậy có thể thấy vấn đề người có công bị tâm thần cũng đã có một
số nghiên cứu tập trung tìm hiểu ở một số khía cạnh khác nhau (chủ yếu là tập
trung vào các can thiệp chính sách). Tuy nhiên những can thiệp chuyên sâu
như CTXH nhóm với NCC bị tâm thần gần như bị bỏ ngỏ. Các phát hiện
trong nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đời sống tinh thần và xã hội của NCC đang
còn thiếu sự quan tâm và cần có những can thiệp về lĩnh vực này. Do đó việc
nghiên cứu tập trung vào một hoạt động can thiệp đặc thù là CTXH nhóm sẽ
rất hữu ích và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực trạng công
tác xã hội nhóm đối với người có công bị tâm thần từ thực tiễn Trung tâm
Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm thần tỉnh Thái Bình. Từ đó

5



đề xuất các giải pháp để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các hoạt động của
công tác xã hội nhóm đối với có công bị tâm thần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Hệ thống hóa các lý luận về người có công, công tác xã hội nhóm đối

với người có công bị tâm thần
-

Nghiên cứu thực trạng CTXH nhóm đối với người có công bị tâm thần

tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm thần tỉnh Thái
Bình.
-

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới các hoạt động CTXH nhóm với

người có công bị tâm thần tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng
cho người tâm thần tỉnh Thái Bình.
-

Đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động CTXH nhóm đối với người

có công bị tâm thần từ thực tiễn Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng
cho người tâm thần tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động CTXH nhóm đối với người có công bị tâm thần
4.2. Phạm vi nghiên cứu

-

Phạm vi khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể chính đó là;
o Đội ngũ cán bộ nhân viên, quản lý tại trung tâm
o Người có công bị tâm thần nhẹ hoặc mới phục hồi

-

Phạm vi về không gian, thời gian: Từ tháng 10/2015 đến hết tháng
6/2016 tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm
thần tỉnh Thái Bình.

-

Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung phân tích một số hoạt động sử
dụng trong CTXH nhóm với NCC bị tâm thần. Một số yếu tố khác như
vai trò của nhân viên xã hội trong các hoạt động nhóm, những yếu tố
6


ảnh hưởng tới hiệu quả của các hoạt động nhóm cũng được đề cập
trong luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để xem xét hoạt
động CTXH nhóm với người có công bị tâm thần trong mối quan hệ với các
yếu tố môi trường và hệ thống xung quanh cũng như đặt vấn đề nghiên cứu
trong một tổng thể các tương tác với môi trường bên ngoài. Những vấn đề liên
quan đến CTXH nhóm, lý luận về NCC bị tâm thần cũng được phân tích theo
các tương quan để đưa ra một kết luận khách quan, toàn diện.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các

tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được áp
dụng phân tích các tài liệu như: Đề án 1215 “Chăm sóc phục hồi chức năng
cho người tâm thần và rối nhiễu tâm thần dựa vào cộng đồng”, Nghị định 67,
13 và 136 của chính phủ quy định về mức trợ cấp cho những nhóm đối tượng
bảo trợ xã hội; Các văn bản pháp luật có liên quan khác về vấn đề này. Các tài
liệu, văn bản, quy định của trung tâm trong việc chăm sóc, hỗ trợ, nâng cao
chất lượng sống cho người có công bị tâm thần.
-

Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được hiểu như là chụp ảnh trong quá trình thu

thập thông tin nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông tin đã thu thập bằng
việc quan sát hành vi, cử chỉ, thái độ của người được phỏng vấn. Trong luận
văn này, phương pháp quan sát sẽ được sử dụng để quan sát các hoạt động
CTXH nhóm trong trung tâm được triển khai như thế nào? Cách thức, thái độ

7


và cách điều hành của nhân viên xã hội như thế nào trong việc triển khai các
hoạt động nhóm? Thái độ, cách phản hồi lại của NCC bị tâm thần là như thế nào?
-


Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà

nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu thực trạng, những
mong muốn nguyện vọng, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp
thông tin thông qua chính ngôn ngữ, thái độ của người ấy.
Luận văn tiến hành phỏng vấn thu thập thông tin từ 12 người có công bị
tâm thần nhẹ. Đây đều là những người tham gia vào các hoạt động CTXH
nhóm
Ngoài ra luận văn còn phỏng vấn sâu với 3 cán bộ hiện đang chịu trách nhiệm
triển khai các hoạt động nhóm, 2 cán bộ lãnh đạo quản lý phụ trách lĩnh vực
này trong trung tâm
-

Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp huy động một số người

có kiến thức và sự hiểu biết về một lĩnh vực nhất định. Mục đích của phương
pháp này là để thu thập thông tin từ đa dạng từ nhiều chiều khác nhau. Hơn
nữa trong quá trình thảo luận nhóm, các quan điểm trái chiều sẽ được đưa ra
trao đổi để đi đến thống nhất. Như vậy nghiên cứu viên sẽ có được những ý
kiến sâu sắc và thống nhất về các vấn đề cần quan tâm. Luận văn đã thực hiện
một cuộc thảo luận nhóm với đối tượng người có công bị thâm thần.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài sẽ đóng góp một phần vào hệ thống lý luận hiện đại về thực trạng và
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động công tác xã hội nhóm với
người có công bị tâm thần. Trên thực tế đây là một khía cạnh còn ít được nghiên
cứu do tính đặc thù của nghề công tác xã hội và của nhóm đối tượng.


8


Đề tài cũng đã thể hiện được vai trò và tính lý luận cao trong lĩnh vực
công tác xã hội nhóm. Do đó đề tài sẽ đóng góp cho những nghiên cứu sau
để phát triển ý tưởng khoa học. Đề tài giúp vận dụng những kiến thức ở lĩnh
vực công tác xã hội nhóm không chỉ với nhóm người có công bị tâm thần mà
còn ở các nhóm đối tượng yếu thế cần trợ giúp khác.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
-

Đối với người có công
Kết quả của đề tài có ý nghĩa thực tiễn rất lớn không chỉ đối với người

có công trong Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm
thần tỉnh Thái Bình mà còn đối với NCC trên cả nước. Các kết quả nghiên
cứu khác cho thấy nhu cầu được chăm sóc về đời sống tinh thần và xã hội là
rất lớn. Do đó các hoạt động CTXH nhóm được nghiên cứu và nhân rộng về
mô hình này sẽ là cơ sở để có thể đáp ứng được những nhu cầu đã nêu ở trên.
-

Đối với cán bộ, nhân viên xã hội trong trung tâm
Đối với đội ngũ cán bộ và nhân viên xã hội trong trung tâm, kết quả

nghiên cứu của đề tài sẽ chỉ ra được những khó khăn, vướng mắc và phương
án khắc phục để họ có thể hoàn thiện hơn nữa kiến thức và kỹ năng CTXH
nhóm từ đó nâng cao hiệu quả trong công việc. Hơn nữa với những giải pháp
và đề xuất được nêu ra, đội ngũ cán bộ và nhân viên xã hội sẽ có thể giải
quyết được những khó khăn và vấn đề mà họ đang gặp phải trong quá trình
triển khai các hoạt động CTXH nhóm

-

Đối với đội ngũ lãnh đạo
Nghiên cứu sẽ mô tả thực trạng về các hoạt động, các vấn đề và các

nhân tố tác động tới hiệu quả CTXH nhóm đang được triển khai trong trung
tâm. Kết quả đó sẽ giúp đội ngũ lãnh đạo đánh giá được các hoạt động CTXH
nhóm này và lập kế hoạch, đưa ra những quyết sách nhằm nâng cao hiệu quả
của mô hình CTXH nhóm với NCC bị tâm thần

9


-

Đối với ngành công tác xã hội
Các hoạt động CTXH nói chung và hoạt động CTXH nhóm nói riêng

hiện nay còn nhiều hạn chế. Do đó nghiên cứu tập trung vào các hoạt động
nhóm với NCC sẽ làm sáng tỏ hơn nữa lý luận về các hoạt động CTXH nói
chung và CTXH nhóm nói riêng.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục biểu bảng.
Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm đối với
người có công bị tâm thần.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với người có công bị
tâm thần tại Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm thần
tỉnh Thái Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác xã hội nhóm

đối với người có công bị tâm thần từ thực tiễn Trung tâm Chăm sóc và Phục
hồi chức năng cho người tâm thần tỉnh Thái Bình.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG BỊ TÂM THẦN
1.1. Những vấn đề Lý luận về người có công và bệnh tâm thần
1.1.1. Khái niệm người có công
Theo Pháp lệnh ưu đãi dành cho người có công cách mạng [10],
“Người có công cách mạng" là những người:
-

Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.

-

Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945.

-

Liệt sĩ.

-

Bà mẹ Việt Nam anh hùng.


-

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động.

-

Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.

-

Bệnh binh.

-

Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học.

-

Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.

-

Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế.

-

Người có công giúp đỡ cách mạng.

-


Thân nhân của những người có công cách mạng.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng người có công CM bao gồm rất nhiều

đối tượng nhưng trong đề tài này tác giả sẽ đi sâu hơn về đối tượng thương
bệnh binh vì hơn ai hết họ là những người chiếm số lượng lớn trong số người
có công.
1.1.2. Một số khái niệm về tâm thần
-

Tâm thần
11


Tâm thần học là một môn Y học chuyên nghiên cứu các biểu hiện lâm
sàng, bệnh nguyên, bệnh sinh, các phương pháp điều trị và dự phòng bệnh
tâm thần. Bệnh tâm thần là những bất thường trong ý thức, tư duy, về cảm
xúc, hành vi hay hoạt động tâm thần nói chung. Do những biểu hiện rất phức
tạp và để hạn chế những mặc cảm của bệnh nhân cũng như sự kì thị của xã
hội, xu hướng chung hiện nay là dùng thuật ngữ rối loạn tâm thần, hạn chế
dùng thuật ngữ bệnh bệnh tâm thần [12].
-

Sức khoẻ tâm thần
Sức khỏe tốt không chỉ có sức khỏe thể chất tốt mà cần phải có một

tinh thần khỏe khoắn. Tổ chức y tế thế giới WHO đưa ra định nghĩa về sức
khoẻ tốt là “trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ
không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật” [12].
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa về sức khoẻ tâm thần

là“trạng thái hoàn toàn thoải mái mà ở đó mỗi cá nhân nhận thức rõ và phát
huy khả năng của mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình thường
trong cuộc sống, làm việc hiệu quả, năng suất và có thể đóng góp cho cộng
đồng”
-

Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Chăm sóc sức khỏe tâm thần [4] không chỉ bó hẹp trong việc điều trị

bệnh tâm thần, mà nó bao gồm phạm vi rộng hơn là đảm bảo trạng thái khoẻ
mạnh về mặt tinh thần:

-

-

Khả năng tận hưởng cuộc sống

-

Khả năng phục hồi

-

Khả năng cân bằng

-

Khả năng phát triển cá nhân


-

Sự linh hoạt

Chăm sóc sức khoẻ tâm thần dựa vào cộng đồng
12


Chăm sóc sức khoẻ tâm thần dựa vào cộng đồng là biện pháp chiến
lược nằm trong sự phát triển của cộng đồng về chăm sóc sức khoẻ tâm thần,
bình đẳng về cơ hội hoà nhập xã hội cho người có rối loạn tâm thần. CSSKTT
dựa vào cộng đồng được triển khai với sự phối hợp chung của chính bản thân
người có rối loạn tâm thần, gia đình và cộng đồng bằng những dịch vụ y tế,
dịch vụ hỗ trợ tâm lý xã hội, giáo dục và hướng nghiệp thích hợp [4].
-

Rối nhiễu tâm trí
“Rối nhiễu tâm trí” dùng để chỉ biểu hiện lệch lạc nói chung về sức

khoẻ tâm trí của một cá nhân. Tình trạng rối nhiễu tâm trí kéo dài sẽ dẫn đến
rối loạn giấc ngủ, hành vi, ngôn ngữ, nhân cách, và các tổn thương bệnh thực
thể như loét dạ dày tá tràng, suy dinh dưỡng hoặc phì nộn. Người có rối nhiễu
tâm trí là người có các hành vi, cảm xúc kém thích nghi, hành vi kỳ lạ, gây
đau khổ hoặc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc sống, mối quan hệ của bản
thân và những người xung quanh [4].
1.1.3. Một số bệnh tâm thần thường gặp
- Tâm thần phân liệt
Tâm thần phân liệt là một loại bệnh tâm thần nặng . Cứ trong 100
người dân thì có 1 người mắc bệnh này. Bệnh có thể biểu hiện dưới nhiều
dạng khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm là ảnh hưởng đến các hoạt

động tinh thần và về lâu dài có thể làm thay đổi nhân cách của bệnh nhân.Các
triệu chứng chính của bệnh là hoang tưởng, ảo thanh, rối loạn khả năng suy
nghĩ, mất đi ý muốn làm việc, giảm sự biểu lộ tình cảm và cách ly xã
hội. Bệnh thường bắt đầu ở tuổi trẻ và thường kéo dài suốt cả cuộc đời . Bệnh
thường khởi phát nhanh với các triệu chứng cấp tính xuất hiện trong vài tuần
hay có thể khởi phát chậm dần dần trong nhiều tháng, nhiều năm. Trong thời
gian bệnh, bệnh nhân thường trở nên xa lánh những người khác, ít nói chuyện
với người thân, trở nên trầm tư, lo âu hoặc hay sợ hãi .
13


-

Rối loạn trầm cảm
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp bao gồm nhiều triệu

chứng nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã một cách sâu sắc . Người bệnh luôn
cảm thấy mệt mỏi , mất hy vọng . Không có gì có thể làm cho người bệnh
thích thú được . Người bệnh cảm thấy thế giới chung quanh dường như lúc
nào cũng u ám. Các triệu chứng khác bao gồm sụt cân, khó ngủ, bồn chồn, dễ
tức giận, cảm thấy bản thân vô giá trị hoặc bị một tội lỗi gì ghê gớm, gặp khó
khăn khi muốn suy nghĩ , muốn tập trung chú ý hay khi phải ra một quyết
định nào đó và thường xuyên nghĩ đến cái chết hay có hành động chuẩn bị tự
tử ( đây là lý do quan trọng khiến bệnh này nên được điều trị sớm ).
-

Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn trong đó cảm xúc của bệnh

nhân thường thay đổi từ giai đoạn trầm cảm sang hưng cảm hoặc ngược lại.

Tuy nhiên cũng có những giai đoạn khí sắc bình thường nhưng nếu cứ để tiếp
tục không điều trị thì chẳng bao lâu tình trạng cảm xúc này sẽ chuyển từ cực
này sang cực đối nghịch. Các triệu chứng của giai đoạn trầm cảm giống như
đã mô tả trong phần rối loạn trầm cảm. Các triệu chứng của giai đoạn hưng
cảm bao gồm vui vẻ quá mức, hoang tưởng tự cao, cảm giác mình là vô địch,
tăng hoạt động, có những hành vi bao hàm nguy cơ cao (thí dụ như lái xe
không cẩn thận , tiêu xài hoang phí… ), không kiểm soát được nhịp độ suy
nghĩ hay nói chuyện, ngủ ít và dễ nổi cơn giận dữ bất ngờ.
-

Bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer là một loại bệnh tiến triển ngày càng nặng dần với đặc

điểm là sự hủy diệt từ từ các tế bào thần kinh trong não. Bệnh thường khởi
phát rất chậm và dần dần theo thời gian sẽ trở nên nặng hơn. Các triệu chứng
xuất hiện đầu tiên thường là thay đổi tính tình và giảm trí nhớ. Người bệnh trở
nên dễ mệt mỏi, tức giận hoặc lo âu. Thường hay quên đồ dùng mình để chỗ

14


nào nên hay mất thời gian tìm kiếm. Ui quần áo hoặc vặn nước thường quên
tắt sau khi làm xong. Đi đến những nơi quen thuộc thì dễ dàng nhưng nếu đến
những nơi lạ thì dễ lạc đường. Sự suy giảm trí nhớ bệnh lý này khác với sự
giảm trí nhớ nhẹ có thể gặp ở người già bình thường. Dần dần trí nhớ người
bệnh ngày càng giảm sút hơn. Họ thường quên tên của món đồ mà họ muốn
gọi, quên tên các bạn thân, không hiểu các con số trên hóa đơn tính tiền,
không hiểu những gì mình đọc trong sách báo, không thể viết và không thể
lập được kế hoạch làm việc hằng ngày. Lúc này người bệnh bắt đầu khó hoà
nhập vào môi trường xã hội chung quanh, thường dễ nổi giận vô cớ, hay la

lối, ăn mặc không phù hợp với hoàn cảnh. Cuối cùng người bệnh trở nên lú
lẫn, không biết ngày tháng năm, không nói được tên địa danh nơi họ đang
sống, nếu đi ra khỏi nhà thì thường hay đi lang thang và không tìm được
đường về, đêm khó ngủ, không thể nói chuyện mạch lạc với người chung
quanh, quên tên và không nhận ra con cái, không thể tự làm những việc cơ
bản hằng ngày như tắm rửa, ăn uống, làm vệ sinh cá nhân. Lúc này người
thân sẽ phải chăm sóc bệnh nhân về mọi mặt và trong mọi lúc.
Diễn tiến bệnh sẽ trở nên nặng hơn một cách từ từ . Thời gian sống trung
bình của người bệnh từ lúc phát bệnh đến lúc chết thường là từ 8 – 10 năm.
Bệnh nhân thường chết vì suy kiệt hoặc do các bệnh lý phối hợp như viêm
phổi, bệnh tim mạch …
-

Rối loạn ám sợ
Ám sợ được định nghĩa là toàn bộ các phản ứng tâm lý và cơ thể do

một đối tượng hay hoàn cảnh gây sợ gây ra. Đối tượng gây sợ có thể là một
con vật cụ thể như nhện, rắn, côn trùng … hoặc là một hoàn cảnh xã hội như
trong thang máy,khi đi máy bay hay trong xe bus, khi phải nói chuyện trước
đám đông … Bệnh này gây ra hậu quả làm giảm hiệu suất trong công việc và
các mối quan hệ xã hội ( do bệnh nhân sợ hãi và tránh né các hoàn cảnh có thể

15


gây ra phản ứng sợ hãi như không dám đi máy bay hay xe bus , không dám
bước vào thang máy … ). Các đặc điểm của ám sợ là bất thình lình cảm thấy
một nỗi sợ hãi, khiếp đảm khi đang ở trong một tình huống thực sự vô hại;
hoàn toàn nhận thức rằng nỗi sợ hãi này là quá mức và vô lý; phản ứng sợ
xuất hiện hoàn toàn tự động, không thể kiểm soát được và xâm chiếm toàn bộ

con người bệnh nhân và kèm theo sự sợ hãi cực độ là các phản ứng cơ thể như
: nhịp tim nhanh, thở hụt hơi hoặc cảm giác nghẹt thở, run rẩy, toát mồ hôi ,
buồn nôn, cảm giác khó chịu trong bụng, chóng mặt … và bệnh nhân chỉ có
một mong muốn duy nhất là thoát khỏi tình huống này. Sau khi thoát khỏi đối
tượng hay tình huống gây sợ bệnh nhân sẽ tìm cách tránh né chúng . Khi sự
tránh né này gây ảnh hưởng đến hiệu suất công việc hoặc các mối quan hệ xã
hội thì bệnh nhân cần phải được khám tâm thần và điều trị .
- Rối loạn lo âu lan toả
Đặc điểm của rối loạn này là bệnh nhân luôn cảm thấy lo âu và căng
thẳng quá mức hoặc không thực tế về mọi vấn đề của cuộc sống thí dụ họ
luôn sợ hết tiền dù họ vẫn còn nhiều tiền trong ngân hàng hoặc họ thường lo
sợ mình hoặc người thân sắp bị bệnh, bị tai nạn hay gặp chuyện không may
mặc dù không có dấu hiệu gì đáng để lo lắng về việc đó. Họ luôn cảm thấy
bồn chồn, bất an, căng thẳng, run, nhức đầu, dễ mệt mỏi, khó tập trung chú ý,
khó ngủ …
1.1.4. Đặc điểm đời sống tâm lý- xã hội và nhu cầu của người có công bị
bệnh tâm thần
-

Nhu cầu của người có công
Cũng như những người khác, NCC với cách mạng bị tâm thần rất cần

một cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ, ấm no hạnh phúc. Mặt khác họ đã
có nhiều cống hiến và hy sinh, chịu nhiều thiệt thòi và mất mát vì sự nghiệp
chung của dân tộc, do đó họ cần được mọi người tôn trọng, quan tâm chăm

16


sóc, chia sẻ động viên họ nhiều hơn để họ vơi đi nỗi đau mất mát, quên đi

bệnh tật và hòa nhập vào cuộc sống trong xã hội.

Bậc thang nhu cầu của Maslow
-

Đặc điểm tâm lý
NCC luôn có ý thức về quá khứ, cống hiến của mình cho cách mạng, có

tinh thần trách nhiệm giữ gìn những phẩm chất và truyền thống cách mạng.
Đại bộ phần những NCC luôn gương mẫu trong đời sống và công tác, thể hiện
thái độ trung thành với chế độ mà họ đã đem xương máu, sức lực ra chiến
đấu, bảo vệ. Khi hòa bình lập lại cho đến nay, nhiều người trong số họ dù
mang trong mình những thương tật về thể chất và tâm thần những họ vẫn nỗ
lực cố gắng vươn lên tìm cho mình một công việc phù hợp để vượt qua khỏi
những khó khăn trong cuộc sống, góp phần xây dựng tổ quốc và nhiều người
đã trở thành tấm gương lao động giỏi, chiến sỹ thi đua, nhà khoa học và nhà

17


quản lý có uy tín. NCC có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy thua thiệt, mất mát so
với những người xung quanh nên họ thích được mọi người quan tâm. Ngoài
ra những thương bệnh binh, họ còn có những đặc điểm tâm lý riêng như sau:
- Với NCC thời kháng chiến, hiện nay số người còn sống không nhiều và
tuổi đã cao, họ sống khiêm tốn, giản dị. Nhu cầu vật chất không nhiều
nhưng nhu cầu tinh thần về thông tin thời sự chính trị trong và ngoài
nước luôn được họ quan tâm. Họ thích tìm hiểu và tham gia bình luận
về tình hình xung quanh và muốn có nhiều bạn bè để cùng nhau ôn lại
kỷ niệm về những năm tháng hào hùng đã qua.
- Nhìn chung NCC có những đặc điểm tâm lý khác nhau đòi hỏi công tác

chăm sóc cũng khác nhau và phải tìm hiểu kỹ những đặc điểm, nhu cầu
riêng của họ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để đưa ra những giải
pháp chăm sóc, hỗ trợ phù hợp đem lại hiệu quả cao nhằm bù đắp phần
nào những hy sinh và cống hiến to lớn của người có công với cách
mạng.
1.2. Lý luận về công tác xã hội nhóm
1.2.1. Một số khái niệm
-

Khái niệm công tác xã hội
Theo Hiệp hội Quốc gia Nhân viên công tác xã hội của Mỹ (NASW):

“Công tác xã hội là những hoạt động chuyên nghiệp nhằm mục đích giúp đỡ
các cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn cảnh khó khăn, để họ tự phục hồi
chức năng hoạt động trong xã hội và để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ
đạt được những mục đích của cá nhân.
-

Khái niệm nhóm
Nhóm là một tập hợp người có từ hai người trở lên, giữa họ có một sự

tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chung
nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của tất cả các thành viên trong nhóm. Tất cả
18


các thành viên trong nhóm được điều chỉnh và tuân theo các qui tắc và thiết
chế nhất định [6].
-


Công tác xã hội nhóm
Công tác xã hội nhóm trước hết phải được coi là một phương pháp can

thiệp của công tác xã hội. Đây là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành
viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác
lẫn nhau, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào
các hoạt động nhóm nhằm đạt được tới mục tiêu chung của nhóm và hướng
đến giải quyết những mục đích của cá nhân thành viên giải toả những vấn đề
khó khăn. Trong hoạt động công tác xã hội nhóm, một nhóm thân chủ được
thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm [6].
-

CTXH nhóm với NCC bị tâm thần
Đây là một phương pháp can thiệp đặc thù trong CTXH với NCC bị

tâm thần. Nhân viên xã hội vận dụng những kiến thức, kỹ năng và tiến trình
đặc thù để triển khai các hoạt động CTXH nhóm từ đó giải quyết các vấn đề
và đáp ứng nhu cầu của NCC bị tâm thần [4].
1.2.2. Một số hoạt động cơ bản trong can thiệp nhóm công tác xã hội
Trong phạm vi của đề tài này, luận văn sẽ chỉ trình bày một số hoạt
động nhóm phù hợp với nhóm đối tượng là người có công bị tâm thần trong
Trung tâm [4]
-

Các hoạt động giúp các thành viên vận động, thay đổi không khí, tạo
hoạt động vui vẻ cùng nhau, trị liệu
Nhóm hoạt động này sẽ giúp cho các thành viên trong nhóm khoẻ

mạnh, tỉnh táo trong các hoạt động và thu hút sự tham gia của tất cả các thành
viên. Nội dung phần này sẽ trình bày hai kỹ thuật là các hoạt động vận động

thể chất, liệu pháp thư giãn và trò chơi.

19


- Thực hiện các hoạt động vận động thể chất
Các hoạt động vận động thể chất thường được sử dụng trong sinh hoạt
nhóm là các hoạt động giúp các thành viên có những vận động chân tay và cơ
thể nhẹ nhàng, hít thở...trong một khoảng thời gian ngắn và không phải di
chuyển xa khỏi nơi diễn ra hoạt động. Các hoạt động vận động này thường
thích hợp thực hiện khi các thành viên trong nhóm phải ngồi lâu thảo luận hay
nghe thuyết trình mà không có nhiều thời gian để có các hoạt động di chuyển
xa, tránh nhóm xáo trộn và không ổn định ngay để tiếp tục công việc được. Ví
dụ như hoạt động vận động tập thể dục tại chỗ: nhân viên xã hội yêu cầu các
thành viên đứng dậy, vươn thẳng người, hít thở sâu và kéo căng cơ tay hoặc
cơ chân.
- Liệu pháp thư giãn
Liệu pháp thư giãn là công cụ hữu hiệu và thường hay được sử dụng
giúp các thành viên trong nhóm đỡ mệt mỏi, lấy lại sức lực và tập trung tốt
hơn cho hoạt động nhóm. Đặc biệt là sau những hoạt động các thành viên
phải suy nghĩ nhiều hoặc có những căng thẳng thần kinh (stress). Liệu pháp
thư giãn là việc nhân viên xã hội giúp các thành viên ngồi thoải mái, điều
chỉnh nhịp thở (hít vào thật sâu và thở ra từ từ). Và qua lời hướng dẫn để các
thành viên lấy bớt đi khỏi cơ thể căng thẳng và đi đến môi trường an toàn, ấm
cúng và tràn đầy hạnh phúc. Liệu pháp này sẽ hiệu quả hơn nếu như được
thực hiện trong môi trường tĩnh lặng và có tiếng nhạc du dương. Liệu pháp
này chính là tách các thành viên ra khỏi môi trường hiện tại trong một khoảng
thời gian ngắn để đến một môi trường họ mong ước.
- Tổ chức các trò chơi
Theo nhiều nghiên cứu, trò chơi là một phương pháp rất có hiệu quả để

giúp các thành viên trong nhóm có các hoạt động vận động và cùng nhau
tham gia tạo bầu không khí vui vẻ và hợp tác với nhau. Trò chơi là biện pháp
20


×