Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN v i lê NIN bảo vệ , bổ SUNG, PHÁT TRIỂN học THUYẾT bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA, ý NGHĨA đối với CÁCH MẠNG nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.44 KB, 16 trang )

1

V.I.LÊ NIN BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
V.I.Lênin tên thật là Vladimiar Ilits Ulianov, sinh ngày 22 tháng Tư
năm 1870 trong một gia đình trí thức cách mạng tại thành phố Simbirsk (nay
là Ulianovsk), nằm bên bờ sông Vônga vĩ đại của nước Nga, mất ngày 21
tháng Giêng 1924 ở làng Gorki gần Mátxcơva. Ông là người kế tục xuất sắc
sự nghiệp bảo vệ và phát triển lý chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và
Ph.Ăngghen, có công lao to lớn trong việc lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Nga tiến hành cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại năm
1917 thắng lợi, lập nên nước Nga Xô viết xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã
hội khoa học từ lý luận trở thành hiện thực.
Trong quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng, V.I.Lênin đã
bảo vệ và phát triển nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, làm
cho chủ nghĩa xã hội luôn luôn cách mạng, khoa học và sáng tạo, luôn vận
động và phát triển theo kịp sự vận động phát triển của lịch sử, đáp ứng được
yêu cầu lý luận tiên phong soi đường cho phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân. Quá trình bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học của V.I.Lênin có thể phân thành hai giai đoạn: giai đoạn trước cách
mạng tháng Mười năm 1917 và giai đoạn từ sau cách mạng tháng Mười đến
năm 1924.
Sau cách mạng tháng Mười, tình hình thế giới có nhiều biến đổi sâu
sắc. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) làm cho chủ nghĩa tư bản
bị suy yếu nghiêm trọng, các nước tham gia chiến tranh bị tàn phá nặng nề,
kinh tế kiệt quệ. Sau khi chiến tranh kết thúc các nước tư bản, đế quốc lại rơi
vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, toàn diện.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười có ý nghĩa và giá trị lịch sử to
lớn. “Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to



2

lớn và sâu xa như thế”,1 nó mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại,
loài người bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới; giai cấp vô sản trở thành giai cấp trung tâm của
thời đại; chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực ở nước Nga.
Cách mạng tháng Mười là xung lực cách mạng mạnh mẽ thúc đẩy
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế phát triển. Từ sự phát triển của phong trào công nhân, một loạt đảng
cộng sản ra đời ở các nước và một số xô viết được thành lập ở châu Âu như
xô viết Hunggari, Bavie… Nét nổi bật trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế sau cách mạng tháng Mười là sự ra đời và hoạt động của Quốc
tế cộng sản (1919 - 1943). Thông qua các đại hội của Quốc tế III, V.I.Lênin đã
trình bày nhiều vấn đề chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nước Nga sau cách mạng tháng Mười gặp nhiều khó khăn trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội. Chính quyền non trẻ vừa phải tiến hành
xây dựng xã hội mới, vừa phải chống các thế lực thù trong, giặc ngoài. Nhưng
với sự lãnh đạo tài tình của V.I.Lênin và Đảng Cộng sản (b) Nga, giai cấp
công nhân và nhân dân Nga đã từng bước đưa đất nước thoát ra khỏi những
khó khăn, tiến hành có hiệu quả sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng nước Nga Xô viết đã đặt ra
nhiều nhiệm vụ đòi hỏi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học phải làm rõ. Từ
thực tiễn đó, sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin trong thời
gian này nhằm tiếp tục hoàn chỉnh lý luận chủ nghĩa xã hội của C.Mác Ph.Ăngghen, thúc đẩy cách mạng thế giới trước hết là cách mạng Nga giành
thắng lợi.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tâp, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr. 300.



3

Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin trong giai đoạn
này tập trung chủ yếu nhất vào những vấn đề như: chuyên chính vô sản và
dân chủ vô sản; cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội; thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa… Những vấn đề lý luận này
được thể hiện tập trung trong một số tác phẩm: “Nhà nước và cách mạng”,
“Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” (4 - 1918); “Bệnh ấu
trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản” (1918); “Cách mạng vô sản và tên phản bội
Cauxky” (1918); “Bàn về “dân chủ’ và chuyên chính” (1918); “Bàn về nhiệm
vụ của công đoàn” (1918); “Sáng kiến vĩ đại” (1919); “Kinh tế chính trị trong
thời đại chuyên chính vô sản” (1919); “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong
trào cộng sản” (1919); “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên” (1920); “Thà ít mà
tốt” (1923)…
Một vấn đề lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được V.I.Lênin bổ sung,
phát triển hết sức sáng tạo trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô
sản, có ý nghĩa thực tiễn vừa cơ bản, cấp thiết vừa chiến lược lâu dài đối với
cách mạng xã hội chủ nghĩa là học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thời đại C.Mác và Ph.Ăngghen sống, chủ nghĩa tư bản đang lên, giai
cấp tư sản đang giữ vị trí trung tâm của lịch sử, nó vẫn còn tính chất cách
mạng của mình và vai trò lịch sử đánh đổ chế độ phong kiến. Ngược lại, giai
cấp công nhân đang trong quá trình hình thành và phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản
“công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ
không có"1. Để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội, “Giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.2 Trong cuộc chiến đấu đó, giai
cấp công nhân từng bước giành được những thắng lợi và phải biết bảo vệ và

1,2,
2

C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tâp, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr. 623, 624.


4

phát huy những thành quả thắng lợi đó, tiến tới giành những thắng lợi to lớn
hơn và giành được thắng lợi cuối cùng. Với tư cách là người đại diện cho dân
tộc, giai cấp công nhân là người đại diện cho tổ quốc, “họ có nhiệm vụ phải
đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng để bảo vệ những thành quả cách
mạng đã đạt được, bảo vệ tổ quốc của mình”.1
Như vậy, trong thời đại C.Mác và Ph.Ăngghen sống, tổ quốc xã hội chủ
nghĩa chưa ra đời, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa đặt ra trực
tiếp. Song tổng kết thực tiễn cách mạng châu Âu 1848 - 1849, đặc biệt là
Công xã Pari (1871), C.Mác đã đưa ra những tư tưởng manh nha về bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở khoa học để sau này V.I.Lênin bổ sung,
phát triển xây dựng học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thắng lợi,
nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì tổ
quốc Nga xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt
tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách cấp bách, nó trở thành
nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa.
Trung thành với chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin cho rằng trong suốt thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại
và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt. Vì vậy, V.I.Lênin khẳng định: “Một

cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ”, 2 đồng thời nhấn
mạnh: “Kể từ ngày 25 tháng 10 năm 1917 chúng ta là những người chủ
trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến

C.M¸c - Ph.¡ngghen, Toµn tËp, tËp 4, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi. 1995, tr.528.
V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 37, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 145.

11 3
2


5

tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc”.1
Như vậy, ngày từ sau khi tổ quốc xã hội chủ nghĩa ra đời, giai cấp công
nhân có tổ quốc của riêng mình, V.I.Lênin đã đặt ra vấn đề tất yếu phải bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người báo trước cho Đảng, giai cấp công nhân
và nhân dân lao động của nước Nga Xô viết rằng, giai cấp vô sản sau khi đã
nắm được chính quyền phải sẳn sàng đối phó với chính phủ tư sản và các lực
lượng thù địch chống lại sự nghiệp cách mạng của công nhân và nhân dân lao
động. Do vậy, “Nếu không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ
nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh
trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có
khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để bảo vệ mình”2. V.I.Lênin còn chỉ rõ
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu
trung tâm, “Chúng ta, Đảng Bônsêvích, chúng ta đã thuyết phục được nước
Nga… bây giờ chúng ta phải quản lý nước Nga”.3
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, theo quan điểm của V.I.Lênin là bảo

vệ thành quả cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đó là bảo vệ chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở từng quốc gia dân tộc. Nó là một bộ
phận trong công cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế. V.I.Lênin đã
chỉ ra tính chất chính nghĩa, tính chất cách mạng, tính chất toàn dân, tính chất
quốc tế của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo Người, sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc Nga xã hội chủ nghĩa là “bảo vệ chủ nghĩa xã hội với
tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hoà Xô Viết, với tính cách là một đơn
vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”.4
V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 36, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 102.
V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 38, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 173.
3,3 V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 36, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 209, 102.
1
2
4


6

Khẳng định tính tất yếu và tính chất của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, V.I.Lênin còn xác định những vấn đề chiến lược về bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa như: kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội
với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa; mục tiêu chủ yếu của bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; sức mạnh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sức mạnh
tổng hợp của đất nước, của toàn dân của chế độ xã hội chủ nghĩa với tranh thủ
sự ủng hộ của bè bạn quốc tế; kiên định những nguyên tắc chiến lược, mềm
dẻo linh hoạt về sách lược; chăm lo xây dựng hậu phương chiến lược, xây
dựng nền quốc phòng vững mạnh; xây dựng Hồng quân công nông hùng
mạnh trên cơ sở vũ trang toàn dân làm lực lượng nòng cốt.

Nội dung bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của
V.I.Lênin có nội dung hết sức toàn diện. Người cho rằng bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa bao gồm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, bảo vệ
thành quả của cách mạng, những thành tựu kinh tế và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân…, trong đó bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhà nước Xô viết là trước hết và chủ yếu nhất.
Bàn về sức mạnh bảo vệ tổ quốc, V.I.Lênin nhấn mạnh: bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp chính nghĩa, có tính chất toàn dân, toàn diện, tất
cả các lực lượng của nhân dân và mọi tiềm lực của đất nước đều phải được
động viên để bảo vệ tổ quốc. Trong nội chiến cách mạng, Đảng Cộng sản Nga
và chính quyền Xô viết đã đã tiến hành đồng bộ các biện pháp để động viên,
tổ chức mọi lực lượng tham gia bảo vệ nước Cộng hoà Xô viết. Nhờ biết phát
huy sức mạnh toàn diện của đất nước mà công cuộc bảo vệ tổ quốc chống bọn
Bạch vệ và sự bao vây của 14 nước đế quốc của nhân dân Nga dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản (b) và V.I.Lênin đã giành thắng lợi.


7

Theo V.I.Lênin, trong các tiềm lực bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì
sức mạnh chính trị tinh thần giữ vai trò hết sức to lớn. Do vậy, công tác chính
trị - tư tưởng được đặc biệt coi trọng và phải được tiến hành kiên trì, liên tục,
sâu rộng với nhiều hình thức sinh động… làm cho mọi cán bộ, đảng viên,
nhân dân có nhận thức sâu sắc và có trách nhiệm cao đối với sự nghiệp bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phát huy cao độ nhân tố chính trị tinh thần là sức
mạnh đặc trưng, bản chất của con người, đồng thời là ưu thế vượt trội của sức
mạnh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa so với kẻ thù.
Một trong những vấn đề được V.I.Lênin quan tâm trong phát triển học
thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa và lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa ở nước Nga Xô viết là xây dựng lực lượng nòng cốt. Người

cho rằng cần thiết phải thành lập quân đội công nông thường trực, chính quy
và quy mô lớn. Đầu năm 1918, V.I.Lênin ký Sắc lệnh thành lập Hồng quân và
Hải quân công nông. V.I.Lênin còn chỉ ra phải thường xuyên chăm lo xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Hồng quân vững mạnh, thực
sự là lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng và nhân dân, Hồng
quân phải luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống. V.I.Lênin viết:
“Sự vững bền của nước cộng hoà trong cuộc chiến đấu chống đế quốc, thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở Nga và trên toàn thế giới đều tuỳ thuộc vào sự tăng
cường quân đội”.1
V.I.Lênin cho rằng, Hồng quân phải được xây dựng theo hướng cách
mạng, chính quy, hiện đại, thực sự là một quân đội kiểu mới của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Điều quan trọng nhất
là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với quân
đội, xây dựng Hồng quân luôn luôn vững mạnh về chính trị, thể hiện tập trung
ở lý tưởng chiến đấu, cơ chế lãnh đạo và tổ chức, cơ sở chính trị - xã hội và
1

V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 37, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 114.


8

chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Người viết: “Một khi chúng ta bắt tay vào
công cuộc hòa bình kiến thiết của chúng ta, thì chúng ta sẽ đem hết sức mình
ra để tiến hành công cuộc đó không ngừng. Đồng thời,… hãy chăm lo đến khả
năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo đến con
ngươi trong mắt mình".1
Ngoài ra, V.I.Lênin còn đề cập khá toàn diện đến khả năng phòng thủ
đất nước, đặt biệt là vấn đề xây dựng và củng cố quốc phòng. Người khẳng
định “… Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi

phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối
với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà” 2. V.I.Lênin cho rằng xây dựng
và củng cố quốc phòng là sứ mệnh của nhà nước chuyên chính vô sản, đồng
thời là nghĩa vụ của toàn dân: “… Nghĩa vụ tuyệt đối của toàn thể quần chúng
lao động là đem hết sức mình ra để khôi phục và tăng cường khả năng quốc
phòng của đất nước…”,3 “… mọi người phải có thái độ nghiêm túc đối với
việc quốc phòng”.4
Như vậy V.I.Lênin đã có công rất lớn trong bổ sung, phát triển lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những tư
tưởng này đã bổ sung, làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa xã hội,
đồng thời có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đây là cơ sở khoa học để các đảng
cộng sản, đảng công nhân và giai cấp công nhân quốc tế nghiên cứu, quán triệt
vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Giá trị to lớn của tư tưởng về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã được
thực tiễn cách mạng Nga và cách mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa khác
chứng minh hoàn toàn đúng đắn, khoa học. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng thế giới, song
V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 44, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1978, tr. 368 - 369.
V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 35, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1978, tr. 480 - 481.
3, 4 V.I.Lªnin, Toµn tËp, tËp 36, NxbTiÕn bé, M¸txc¬va. 1977, tr. 153, 358.
1
2

4


9

nó cũng để lại cho các nước xã hội chủ nghĩa bài học sâu sắc là: xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có như vậy, tổ

quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển, và giá trị của những tư tưởng
về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin càng được khẳng định.
Trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, sau khi lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm thành
công cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đất nước và toàn thể nhân dân bắt tay ngay vào
công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc, “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”, tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ bảo vệ Tổ quốc.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng nước ta. Chúng ta đồng thời phải ra sức xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn cách mạng trong hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước, đặc biệt là sau “kịch biến” sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô và các nước Đông Âu, tư duy bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta đã có sự phát
triển và đổi mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đẩy đủ và
toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình; về những yếu tố
cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh quốc phòng của
đất nước trong điều kiện mới. Chúng ta cũng ngày càng thấy rõ hơn vai trò
quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng với an ninh và đối ngoại, giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với phát
triển kinh tế.


10

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không chỉ là đối phó với hành động
vũ trang xâm lược của kẻ địch từ bên ngoài, mà còn phải đặc biệt chăm lo xây

dựng và giữ vững bên trong, đối phó với những thủ đoạn phi vũ trang của
địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang
mà là sức mạnh tổng hợp của đất nước và chế độ, lấy sức mạnh kinh tế, chính
trị làm cơ sở.
Sự đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa được thể hiện xuyên suốt qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn
quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) xác định: “...
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, ngăn
chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ
thù...”.1Như vậy, nội dung chủ yếu của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa bao hàm cả bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội và sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ động làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch. Tuy
nhiên, Đại hội chưa làm rõ về lực lượng và những phương hướng cơ bản để
bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) và Hội nghị
Trung ương 8 (khoá IX) Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
xác định: bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1991, tr. 85.


11


So với quan niệm về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
Đại hội VII, nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn
cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế có nội dung rộng hơn, đã khắc
phục sự phiến diện trong tư duy chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ biện chứng, thống nhất
giữa các nội dung trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
khắc phục những quan niệm một chiều, giản đơn về bảo vệ Tổ quốc, chỉ nhấn
mạnh đến mặt tự nhiên - lịch sử; hoặc chỉ nhấn mạnh bảo vệ chính trị - xã hội.
Quan điểm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; sức mạnh bên
trong là nhân tố quyết định; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu
những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Phương châm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là kiên định các nguyên tắc
chiến lược, đi đôi với vận dụng linh hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng
rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hoá, cô lập các phần tử
chống đối ngoan cố nhất, các thế lực chống phá Việt Nam hung hăng nhất; lấy
việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với
giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm... Giáo dục, lôi
kéo những người lầm đường, không để hình thành tổ chức đối lập dưới bất cứ
hình thức nào... Xử lý kịp thời mọi mầm mống gây mất an ninh, không để bị
động, bất ngờ.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại
và các lĩnh vực khác.



12

Trong điều kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, chủ nghĩa xã hội
trên thế giới lâm vào thoái trào, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh
của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước,
lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Trong tình hình mới, các thế lực thù địch thay đổi chiến lược và
phương thức chống phá nhân dân ta, sử dụng phương thức phi vũ trang là chủ
yếu, lợi dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để can
thiệp vào nội bộ nước ta với chiến lược hết sức nguy hiểm “diễn biến hoà
bình” kết hợp bạo loạn lật đổ. Do vậy, phương thức đấu tranh phi vũ trang
ngày càng giữ vị trí quan trọng. Đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
tư tưởng, văn hoá là những phương thức được quan tâm nhiều trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đổi mới, mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực kinh
tế - xã hội với quốc phòng - an ninh đã được nhìn nhận một cách toàn diện và
sâu sắc hơn. Mục tiêu của sự kết hợp ấy là khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất
nguồn lực tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhằm bảo đảm cho kinh tế - xã hội phát triển ổn
định, nhanh và bền vững; xây dựng, tăng cường quốc phòng - an ninh vững
chắc. Vì vậy, tăng cường quốc phòng, an ninh đã trở thành một trong những
mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta chủ yếu tập trung
vào các giải pháp quân sự, chuẩn bị để đánh thắng chiến tranh xâm lược quy
mô lớn. Ngày nay, chúng ta ngày càng nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn về
những yếu tố cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh
quốc phòng của đất nước trong điều kiện mới bằng biện pháp phi vũ trang là



13

chính, kết hợp với vũ trang theo mức độ, quy mô khác nhau, khi cần và tình
hình cho phép. Chúng ta thấy rõ hơn vai trò ngày càng quan trọng của an ninh
và đối ngoại đối với quốc phòng; sự cần thiết phải gắn chặt quốc phòng với an
ninh; kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, phối hợp chặt chẽ hoạt
động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại. Nhiệm vụ quốc phòng
ngày nay không chỉ nhằm chống lại chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia mà còn phải gắn chặt với yêu cầu bảo
vệ an ninh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học, công
nghệ, văn hoá, xã hội nhằm bảo đảm ổn định lâu dài của đất nước.
Tư duy về quốc phòng và an ninh có sự phát triển, gắn quốc phòng với
an ninh, gắn xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân với an ninh
nhân dân trên phạm vi quốc gia cũng như trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc
biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc.
Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh tổng hợp của quốc
gia để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và là sức mạnh tổng hợp của quốc phòng an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho
nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân
không những để sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, mà trước hết là để
phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ dẫn đến chiến tranh; đồng thời
đối phó thắng lợi các tình huống khác, do vậy, quan niệm về nền quốc phòng
toàn dân ngày càng toàn diện hơn.
Trên cơ sở quan niệm của Đại hội IX và Nghị quyết Trung ương 8
(khoá IX), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng làm rõ hơn
nội hàm của “bảo vệ an ninh quốc gia”. Theo đó, “bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế,
an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã



14

hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”.1
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, Đảng xác định một số phương hướng chiến lược cần phải tập trung
thực hiện: Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn
dân, có nội dung phù hợp với mọi đối tượng; Kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh ninh trên cơ sở phát huy
mọi tiềm năng của đất nước; Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; Xây dựng, bổ sung
cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động quốc
phòng, an ninh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Do vậy, để thực hiện
thắng lợi các mục tiêu bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy cao độ mọi tiềm
lực của đất nước và trách nhiệm của mỗi người dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta diễn ra trong bối
cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp mới, tạo ra cả những
thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển đất nước trong những năm
tới. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta bên cạnh những
thành tựu đạt được, “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế
độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ
vững..”,2 vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, “Nhận thức về quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành,
các cấp chưa đầy đủ, thiếu sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu ‘diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2006, tr. 108 -109.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội. 2011, tr. 115.
1


15

nội bộ...”.3 Để đảm bảo bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới, trên cơ sở tư duy, nhận thức về bảo vệ Tổ quốc
được thể hiện trong các kỳ đại hội trước, Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh: “bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ
quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch và sẳn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống
mang tính toàn cầu, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống”.2
Đại hội XI, đã xác định rõ mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia bao
gồm cả chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời. Bên cạnh đó, trước tình hình
phức tạp và những biến động bất ngờ của thế giới trong những năm gần đây,
Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đến nhiệm vụ chủ động ngăn chặn, làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẳn sàng ứng
phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không
để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Như vậy trên cơ sở học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta
trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn quan tâm, chăm lo đến nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới đất
nước, qua thực tiễn cách mạng, nhận thức của đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa ngày càng khoa học, toàn diện, sâu sắc. Trên cơ sở trung thành
với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta với nhận thức ngày càng phát
triển của mình đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, lãnh

đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tạo ra bảo đảm vững chắc cho đất nước
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội. 2011, tr. 170, 233.
1, 2
2


16

vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.



×