Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH một số NGUYÊN tắc TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH đối với VÙNG dân tộc và MIỀN núi của ĐẢNG và NHÀ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.68 KB, 18 trang )

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TRONG THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.
Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, được đặc
trưng bằng sự cộng đồng bền vững về lãnh thổ, ngôn ngữ, tâm lý, mối liên hệ
kinh tế và đặc trưng sinh hoạt văn hóa. Cho đến nay, dân tộc là hình thức
cộng đồng tộc người cao nhất, cố kết chặt chẽ và sâu sắc nhất ra đời vào thời
kỳ tư bản chủ nghĩa ở phương Tây. Tuy nhiên, ở một số nước phương Đông,
loại hình dân tộc ra đời sớm hơn, có thể ngay từ thời kỳ phong kiến như dân
tộc Nhật Bản, dân tộc Việt Nam ... So với các hình thức cộng đồng tộc người
trước đó, dân tộc có các đặc trưng tộc người bền chặt, sự cố kết trong nội bộ
tộc người rất sâu sắc bởi một thị trường chung thống nhất và chủ quyền lãnh
thổ quốc gia thiêng liêng. Khái niệm lãnh thổ tộc người cũng dần được mở
rộng, bao gồm: đất liền, biển đảo, vùng trời. Ý thức tự giác quốc gia dân tộc
của công dân mạnh mẽ, vượt trội ý thức địa phương tộc người.
Dân tộc hình thành bằng hai con đường: là kết quả phát triển từ một bộ
tộc hoặc là kết quả thống nhất các bộ tộc tạo thành các quốc gia. Cố nhiên,
không phải bất cứ quốc gia nào trên thế giới hiện nay cũng đạt đến trình độ
dân tộc. Có các quốc gia là cộng đồng dân tộc nhưng nhiều quốc gia lại bao
gồm các bộ tộc, bộ lạc. Tình trạng này phổ biến ở các quốc gia châu Phi hiện
nay. Mặt khác, có cộng đồng dân tộc còn những nhóm cư dân thiểu số mang
dấu ấn thời kỳ tiền dân tộc. Phần lớn các quốc gia trên thế giới đang diễn ra
quá trình cố kết, hòa hợp giữa các tộc người mặc dù giống hay khác nhau về
lịch sử, ngôn ngữ, nhân chủng nhưng cùng chung lãnh thổ và vận mệnh, lợi
ích quốc gia để đi đến thống nhất tạo thành cộng đồng dân tộc. Việt Nam là
một quốc gia đa thành phần dân tộc. Trong 54 dân tộc, có tới 53 dân tộc thiểu
số. Các thành phần dân tộc thiểu số có sô dân gần 11 triệu người, chiếm hơn
13% dân số cả nước. Các dân tộc sống đoàn kết, thân ái, tương trợ với nhau,
tạo nên sức mạnh đại đoàn kết và bản sắc đa dạng và phong phú về văn hoá



2
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các dân tộc thiểu số Việt Nam có tỷ lệ
số dân không đồng đều: 12 dân tộc có số dân từ 10 vạn người trở lên (trong
đó có 04 dân tộc có số dân trên 1 triệu người); 21 dân tộc có số dân từ 1 vạn
đến 10 vạn người; 15 dân tộc có số dân từ 1.000 người đến 1; 05 dân tộc có số
dân dưới 1.000 người. Các thành phần dân tộc thiểu số cư trú phân tán, ở tất
cả các tỉnh, thành phố trong cả nước; cư trú xen kẽ. Trong 1 đơn vị hành
chính, có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống. Địa bàn có đông dân tộc
thiểu số cư trú là vùng miền núi, biên giới, với diện tích tự nhiên chiếm 2/3
diện tích cả nước; là vùng có vị trí địa lý, kinh tế và quốc phòng quan trọng.
Về sự phân bố thì vùng Tây Bắc: Tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm 79,2%
dân số vùng và chiếm 16,8% dân số dân tộc thiểu số của cả nước. Vùng Đông
Bắc: tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm 41,3% dân số toàn vùng và 34,6% dân số
dân tộc thiểu số của cả nước. Vùng Bắc Trung bộ: Tỷ lệ dân số dân tộc thiểu
số chiếm 10,6% dân số vùng và 10% dân số dân tộc thiểu số của cả nước.
Vùng Tây Nguyên: Tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số chiếm trên 33% dân số của
vùng và khoảng 13% dân số dân tộc thiểu số của cả nước.
Các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội không đều nhau. Các dân tộc thiểu số ở vùng đồng bằng Nam bộ với địa
hình đất đai khá màu mỡ, khí hậu, thời tiết ổn định, canh tác thuận lợi, đời
sống kinh tế xã hội phát triển, ổn định hơn các vùng khác. Vùng Tây bắc,
Đông Bắc, miền Trung, với địa hình chia cắt, phức tạp, đất đai khô cằn, nhiều
đồi dốc, núi đá, khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, canh tác
rất khó khăn, đời sống các dân tộc thiểu số khó khăn hơn, tỷ lệ hộ nghèo cao
hơn, kinh tế chậm phát triển hơn.
Các dân tộc thiểu số có những sinh hoạt, di sản văn hoá đa dạng, bản
sắc riêng, trong đó có những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể rất độc đáo,
mang tầm quốc gia, quốc tế. Tuy vậy, trong sinh hoạt, vẫn còn những ảnh
hưởng của chế độ Mẫu hệ, còn nhiều phong tục tập quán lạc hậu.



3
Thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà
nước ta trong thời gian vừa qua thực chất là xác lập quyền dân tộc cơ bản tạo
nên những quan hệ công bằng, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng nhau giữa các
dân tộc trong quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong
quan hệ quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhằm thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Do vậy Điều 5, Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu rõ: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc
dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt
đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”. Đồng
thời Chính phủ Việt nam đã có nhiều chính sách, cơ chế và các biện pháp để
đảm bảo đời sống, các quyền của các nhóm người thiểu số. Với sự quan tâm,
chính sách, biện pháp ưu tiên nêu trên của Nhà nước, cùng với tinh thần nỗ
lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc, tình hình kinh tế - xã hội, vùng đồng
bào dân tộc đã có bước chuyển biến, tiến bộ đáng kể, cuộc sống của đồng bảo
dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt, quyền của các dân tộc thiểu số ngày
càng được đảm bảo.
Thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay phải quán triệt những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về
chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các
dân tộc. Có thể khẳng định chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt
và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai

đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện
đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Với quan điểm cách


4
mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của
Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và
hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và
trong tương lai.
Chính sách dân tộc phải thực hiện theo nguyên tắc: bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giữa các dân tộc. Người yêu cầu: “Các cấp bộ đảng phải thi
hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giữa các dân tộc”1. Nước độc lập rồi thì các dân tộc phải xóa bỏ mọi hiềm
khích, phải đoàn kết, phải giúp đỡ nhau để các dân tộc có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Hồ Chí Minh nói: “Đồng bào tất cả các dân tộc, không phân biệt
lớn nhỏ, phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh
em một nhà để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no” 2. Để thực hiện bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh yêu cầu phải lấy
khối liên minh công – nông – tri thức làm nền tảng. Thực hiện đại đoàn kết
rộng rãi lâu dài; mở rộng, đa dạng các hình thức tập hợp đồng bào các dân
tộc; sử dụng nhiều phương thức, biện pháp khoa học phù hợp với từng dân
tộc, vùng miền, cảnh giác bài trừ các nguy cơ chia rẽ dân tộc...“khắc phục tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc”3.
Đối với nước ta, Bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện rõ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và các Hiến pháp ở nước ta. Hiến pháp đầu tiên ở nước ta
năm 1946 đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo’’9. Các Hiến pháp tiếp theo đã thể hiện rõ nguyên tắc quan trọng này.
Bình đẳng giữa các dân tộc là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội. Bình đẳng còn thể hiện trong quyền phát triển, được
đảm bảo và tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực hiện và có cơ hội phát triển
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia. H. 2000, tập 10, tr.323
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia. H. 2000, tập 10, tr.282
3 Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia. H. 2000, tập 11, tr.136
1
2


5
bình đẳng với các dân tộc khác. Để thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải làm
giảm, tiến tới từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc do các điều
kiện lịch sử quy định trên thực tế mang lại ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Phát triển nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các dân tộc
của Lênin, trên nền tảng truyền thống Việt Nam, Đảng ta coi đoàn kết dân tộc
có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Hồ Chí Minh đã nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công’’ 4.
Đảng đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược
lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”5.
Các dân tộc đều là những thành viên, hợp thành của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số. Sức mạnh
của dân tộc Việt Nam là sức mạnh đoàn kết. Đoàn kết các dân tộc trong đấu
tranh chống ngoại xâm; chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt; xây dựng và
bảo vệ CNXH; hội nhập, hợp tác quốc tế.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đã
tạo nên sức mạnh to lớn để giành lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, các dân tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mình trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đó chính là cơ sở để chúng ta thực hiện thắng lợi

đường lối, chính sách dân tộc của Đảng. Giữ gìn và phát triển khối đại đoàn
kết toàn dân là trách nhiệm của toàn dân tộc như Đảng ta đã khẳng định: “Hoàn
thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”6.

Hồ Chí Minh : toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, tập 10, tr350
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006
6 Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.76
4
5


6
Xuất phát từ một thực tế lịch sử là sự phát triển không đều giữa các dân
tộc khi chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cho
thấy, sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội là một đặc điểm lớn. Tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau là sự giúp đỡ của dân tộc này với dân tộc khác, không
phải là sự giúp đỡ một chiều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau vừa là yêu cầu, vừa
là mục tiêu của sự phát triển, vì sự phát triển bền vững của cộng đồng quốc
gia dân tộc. Đó cũng chính là bản chất của chính đảng vô sản. Để thực hiện
vấn đề này, vai trò của nhà nước và hệ thống chính trị rất quan trọng. Trong
các văn kiện của Đảng, nguyên tắc tương trợ được bổ sung các thành tố tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng tiến bộ. Có thể coi đây là một
nguyên tắc đối với vấn đề dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay.
Bình đẳng là cơ sở để đoàn kết, đoàn kết là biểu hiện thực hiện bình
đẳng và tương trợ giúp đỡ nhau là điều kiện để thực hiện bình đẳng và đoàn

kết. Các nguyên tắc cơ bản trên có mối quan hệ biện chứng, có tác động, quan
hệ chặt chẽ với nhau, được xác định và triển khai đồng bộ trong quá trình xây
dựng và triển khai thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta. Thực trạng vấn đề
đoàn kết các dân tộc tthời gian qua vẫn còn nhiều bất cập như Đảng ta khẳng
định: “sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc,
có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và
dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan
điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của
các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể
chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc”.7
Thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay chỉ có thể được thực hiện gắn liền với sự
7

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.157


7
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cứu nước giải phóng dân tộc phải đi
theo con đường cách mạng vô sản - theo hình mẫu cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917. Trong Cương lĩnh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: nước ta, sau khi làm cách mạng tư sản dân quyền và cách
mạng thổ địa sẽ tiến hành đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được sự
nghiệp cách mạng vẻ vang đó, Người chủ trương giáo dục nâng cao ý thức
dân tộc, xóa bỏ hiềm khích giữa các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc
để “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Chính sách dân tộc phải phát huy được khả
năng vươn lên của các dân tộc, phù hợp đặc thù từng dân tộc, từng vùng miền.
Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa, phong tục tập quán riêng, bởi vậy, chính

sách dân tộc phải chú ý đặc điểm đó. Người nói: “Một tỉnh có đồng bào Thái,
đồng bào Mèo thì tuyên truyền huấn luyện đồng bào Thái khác, đồng bào
Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp” 8. Nội dung, phương pháp thực
hiện chính sách dân tộc phải phù hợp: “Miền núi, đất rộng người thưa, tình
hình vùng này không giống vùng khác...Vì vậy, áp dụng chủ trương với chính
sách phải thật sát với tình hình mỗi nơi, tuyệt đối chớ dập khuôn, chớ máy
móc, chớ nóng vội”9. Chính sách dân tộc phải toàn diện, phát huy thế mạnh
của từng vùng miền, từng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội phải phát triển cả công
nghiệp và nông nghiệp. Nhưng ở vùng dân tộc thiểu số có lợi thế đất rừng
nên cần phát triển thế mạnh đó bằng cách phát triển lâm nghiệp, để tạo tiền đề
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng dân tộc thiểu số.
Thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay phải có sự nhất quán trong hệ thống quan
điểm đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển
kinh tế- xã hội về dân tộc, miền núi.
Điều này đã được minh chứng ngay từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng
Cộng sảnViệt Nam (tháng 3/1935) đã thông qua Nghị quyết “Về công tác
8
9

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia. H. 2000, tập 11, tr.118
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia. H. 2000, tập 10, tr.611


8
trong các dân tộc thiểu số”, xác định rõ: “Đại hội đảng xét rằng lực lượng
tranh đấu của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn. Cuộc dân tộc giải
phóng của họ là một bộ phận quan trọng trong cuộc cách mạng phản đế và
điền địa ở Đông Dương, bộ phận của cuộc cách mạng thế giới”. Hiến pháp
năm 1946: “ Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được

giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”.
Đến Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2/1951)
đã quyết nghị: “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều được bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc.
Kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đánh đổ âm mưu gây hằn thù
chia rẽ các dân tộc của đế quốc và lũ tay sai. Cải thiện đời sống cho các dân
tộc thiểu số, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi mặt, đảm bảo họ tham gia chính quyền
và dùng tiếng mẹ đẻ trong giáo dục ở các địa phương thiểu số”. Hiến pháp
năm 1959: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước thống nhất gồm
nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vu gìn giữ và phát triển sự đoàn
kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị
nghiêm cấm.”
Báo cáo chinh trị Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba (tháng 9/1960) nêu
rõ: “Vấn đề xây dựng kinh tế miền núi là một bộ phận khăng khít của chính
sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới của cách mạng. Nó đảm bảo cho
miền núi dần dần tiến kịp miền xuôi, cho các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc
Kinh, thực hiện đầy đủ sự bình đẳng và tăng cường đoàn kết giữa các dân
tộc.” Đặc biệt, Nghị quyết số 22 (Khoá VI) ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị
về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi,
nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế - xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của
chiến lược phát triển kinh tế quốc dân, là sự nghiệp chung của nhân dân cả
nước… Phát triển miền núi toàn diện cả về kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc
phòng, an ninh trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế- xã hội gắn với thực


9
hiện chính sách dân tộc của Đảng.” Hiến pháp năm 1992: “Nước CHXHCN
Việt nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa

các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thi, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những
phong tục tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số…Nhà nước thực hiện
chính sách ưu tiên đảm bảo phát triển giáo dục, miền núi, các vùng dân tộc
thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn; ưu tiên thực hiện chương trình chăm
sóc sức khoẻ cho đồng bào và dân tộc thiểu số…Toà án Nhân dân bảo đảm
cho công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thuộc các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.”
Tiếp đến Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định: "Đoàn kết,
bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc
là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Có chính sách phát triển
kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phải phù hợp với điều kiện và
đặc điểm từng vùng, từng dân tộc; bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai
thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo về đất nước. Tôn trọng tiếng nói và chữ viết đối với
các dân tộc". Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu: Vấn đề dân
tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ" giữa
các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX về công
tác dân tộc đã xác định: “Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược cơ bản, lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của
cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thắng lợi


10
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi gắn với tăng trưởng kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân
tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất.”
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội lần thứ X, XI của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt nam đoàn kết,
bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo về tổ
quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh,
định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân
cư, gắn với phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng. Củng cố và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số; động viên, phát huy vai trò những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực
hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân
tộc thiểu số - cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần
gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác
dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.”
Và cuối cùng sự nhất quán trong hệ thống quan điểm đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội về dân



11
tộc, miền núi được Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có
vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết,
giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo
chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng
bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số,
người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra,
giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.”10 Có thể nói
chính sách đối với dân tộc, miền núi luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm và luôn luôn tìm mọi cách để đưa các chính sách đó đến với mọi đồng
bào, đi vào cuộc sống thực tế của họ.
Thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay là hiện thực hóa hiệu quá những chính sách
phát triển kinh tế- xã hội đang thực hiện ở vùng dân tộc, miền núi
Hiện tại có hơn 40 chương trình, mục tiêu, dự án lớn được triển khai
thực hiện ở vùng này với mục tiêu tập trung đầu tư cho giáo dục & đào tạo, Y
tế, giao thông, thuỷ lợi và hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển sản xuất
và xóa đói giảm nghèo, khai thác tiểm năng thế mạnh của vùng, bảo vệ môi
trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc… Có
thể đưa ra một số chương trình, mục tiêu, dự án quan trọng như: chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo với mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo
bình quân mỗi năm từ 1,5- 2% (tương đương giảm 30 vạn hộ/ năm). Chương
trình đã áp dụng một số chính sách: hỗ trợ đất sản xuất, hỗ trợ làm nhà ở, hỗ
trợ về y tế, giáo dục, hướng dẫn cách làm ăn hiệu quả, dạy nghề cho thanh
niên trong độ tuổi lao động, cho hộ nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho

10

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.164


12
sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo. Chương trình phát triển
kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi Chương trình 135 giai đoạn 1 (1998-2005) và giai đoạn 2 (2006-2010). Quy
mô 50 tỉnh, 354 huyện, 1.946 xã khu vực 3 và 3.274 thôn, bản đặc biệt khó
khăn của xã khu vực 2. Mục tiêu tổng quát của CT 135 là: tạo sự chuyển biến
nhanh về sản xuất, thúc đâỷ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho đồng bào dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn một cách bền
vững, giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong cả
nước; phấn đấu đến năm 2010, cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo
xuống dưới 30%, trên 70% số hộ đạt mức thu nhập bình quân đầu người trên
3,5, triệu đồng/năm… Chương trình hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước
sinh hoạt cho hộ nghèo (các Quyết định 134, 167, 74). Chương trình giảm
nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo nhất nước (Nghị quyết 30a).
Các chính sách phát triển kinh tế theo vùng: Quyết định 168 - phát triển kinh
tế - xã hội các tỉnh khu vực Tây Nguyên; Quyết định 173 - phát triển kinh tế xã hội các tỉnh khu vực đồng bằng Sông Cửu Long; Quyết định 186 - phát
triển kinh tế - xã hội các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc…
Ngoài ra còn một loạt các hệ thống các chính sách, chương trình dự án
ưu đãi cho từng lĩnh vực, ngành như: chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển
các mặt hàng, vật tư thiết yếu. Chính sách cấp không thu tiền cho 20 ấn phẩm
báo, tạp chí phát hành tại vùng đặc biệt khó khăn. Chương trình phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Chương trình nước
sạch và vệ sinh môi trường cho khu vực nông thôn, miền núi. Chương trình
dân số, kế hoạch hoá gia đình. Chương trình y tế với các mục tiêu phòng
chống các dịch bệnh nguy hiểm, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

Chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đặc biệt khó khăn.
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá - thông tin. Chương trình mục tiêu
quốc gia về giáo dục, đào tạo (trong đó có chương trình dạy và học tiếng nói,
chữ viết cho một số dân tộc thiểu số; Chương trình cử tuyển học sinh dân tộc


13
thiểu số vào các trường Cao đẳng, đại học...). Chiến lược bảo vệ môi trường
miền núi và bảo vệ đa dạng sinh học... Ngoài ra còn có Chính sách hỗ trợ phát
triển toàn diện một số dân tộc đặc biệt ít người: dân tộc Si La (Lai Châu, Điện
Biên), dân tộc Pu Péo (Hà Giang), dân tộc Rơ Măm, dân tộc BRâu (Kon
Tum), dân tộc Ơ Đu (Nghệ An)…
Trong thời gian vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình
miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan
trọng. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Nền kinh tế nhiều
thành phần ở miền núi và các vùng dân tộc từng bước hình thành và phát
triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc được
cải thiện rõ rệt. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả to lớn.
Mặt bằng dân trí được nâng lên. Mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xoá
mù chữ đã được thực hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được
hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, cụm xã. Văn hoá phát triển phong
phú hơn; đời sống văn hoá của đồng bào được nâng cao một bước; văn hoá
truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các loại
bệnh dịch cơ bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi; việc khám, chữa bệnh
cho người nghèo vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn. “Hệ thống chính trị ở
các vùng dân tộc và miền núi bước đầu được tăng cường và củng cố. Tình
hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định; an ninh, quốc phòng được giữ
vững”.11 Kết cấu hạ tầng khu vực miền núi, dân tộc phát triển nhanh, bước
đầu đáp ứng phát triển sản xuất và phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc

thiểu số, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. “Các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước, đặc biệt Chương trình 135; Chương trình
134...được triển khai tích cực đã đem lại kết quả quan trọng cho vùng dân tộc
thiểu số, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao một bước đời sống của

11

ĐCSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc.


14
đồng bào. Ngày càng xuất hiện những mô hình đồng bào dân tộc thiểu số làm
kinh tế giỏi”12.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế trong thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là: Nhìn chung kinh tế ở vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn chậm phát triển. Nhiều nơi tập quán
canh tác còn lạc hậu, lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chất lượng
sản phẩm thấp, tiêu thụ rất khó khăn. Tình trạng du canh, du cư, di dân tự do
vẫn diễn biến phức tạp. Một số hộ thiếu đất sản xuất. Kết cấu hạ tầng ở một
số vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ rất thấp kém. Kinh tế lâm
nghiệp chuyển biến chậm, chính sách đối với lâm nghiệp chưa thật sự đảm
bảo cho đồng bào gắn bó với rừng. Nhiều nơi môi trường sinh thái đang tiếp
tục bị suy thoái.
Tỷ lệ đói nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, đời sống văn
hóa còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nhiều vùng dân tộc và miền núi
cao hơn bình quân chung của cả nước. Đến năm 2001, cả nước còn khoảng
2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17,2%. Khu vực nông thôn miền núi, chủ yếu
là đồng bào dân tộc thiểu số, có tới 2.362 xã đặc biệt khó khăn. Sự chênh lệch
về mức độ kinh tế giữa các dân tộc cũng còn khá lớn. Chất lượng, hiệu quả về
giáo dục và đào tạo còn thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm. Công

tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển.Một số truyền
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc đang bị mai một. Mức hưởng thụ văn
hóa của các đồng bào còn thấp.
Hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn
yếu; tôn giáo phát triển không bình thường. Trình độ, năng lực của đội ngũ
cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn thấp so với mặt bằng chung
của cả nước; trình độ của cán bộ ở các xã đặc biệt khó khăn còn thấp hơn
nhiều. Tỷ lệ đảng viên so với dân số thấp. Tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số
12

ĐCSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc.


15
phát triển không bình thường: một số nơi xuất hiện hiện tượng truyền đạo trái
phép, một số nơi tín đồ theo các tôn giáo tăng nhanh, không bình thường, một
số tín đồ, chức sắc tôn giáo bị các thế lực thù địch lợi dụng gây rối mất trật tự
an ninh, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đi ngược lại lợi ích chung, chống
phá cánh mạng.
Để thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc, mỗi chúng ta cần thực
hiện tốt một số vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình
hình mới. Xem việc quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Tuyên truyền, giáo
dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cho mọi cán
bộ, đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi cho đồng bào các dân tộc

thiểu số.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính
sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu
phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
Huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc và miền
núi. Ưu tiên đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh kinh tế - xã hội,
giải quyết những khó khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc và miền núi ;
trước hết tập trung cho các vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện nghiêm chỉnh
việc công khai hóa các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư... để đồng
bào biết và tham gia quản lý, giám sát quá trình thực hiện. Đẩy mạnh ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ ở vùng dân tộc và miền núi.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ
là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm


16
trước mắt, cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến
công tác ở vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh,
quốc phòng; coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành
nghĩa vụ quân sự làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở; nghiên cứu sửa đổi
tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ
công tác ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở
miền núi, vùng cao.
Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công tác
dân tộc từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường số lượng và chất lượng
đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc để làm tốt công tác tham mưu cho cấp
ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Một số
bộ, ngành cần tổ chức bộ phận và có cán bộ chuyên trách làm công tác dân
tộc.

Tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực
hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nâng cao hơn
nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong việc
tham gia triển khai, thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc. Có chính
sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có
uy tín trong đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào
dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế
nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân
tộc, từng địa phương. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi phải quán
triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận: “Trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”.
Đối với bản thân là một quân nhân trong quân đội luôn thấu hiểu được rằng
quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng


17
của Đảng, của nhân dân, chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Là
một đội quân chiến đấu, đội quân lao động, sản xuất và đội quân công tác, quân
đội ta có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, luôn đóng quân ở các vùng
miền núi, biên giới, gắn bó sâu nặng với đồng bào các dân tộc thiểu số. Là lực
lượng giác ngộ cách mạng cao, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, gắn bó máu thịt
với đồng bào các tộc người nên có khả năng, điều kiện để thực hiện tốt chính
sách dân tộc.
Hiện nay, trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch
đang có nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc xuyên tạc chống phá quan điểm,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tìm cách chia rẽ, kích động, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc, hòng làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh đó, quân đội ta tích cực thực hiện thắng lợi quan điểm, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta càng có ý nghĩa chính trị to lớn, trực
tiếp củng cố thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng
trực tiếp góp phần xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt và phục vụ tích
cực, có hiệu quả cuộc sống của đồng bào các dân tộc, xứng đáng với niềm tin
yêu của nhân dân.
Do đó, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là
nhiệm vụ chính trị, đồng thời là vinh dự của quân đội và của bản thân, thể
hiện bản chất, truyền thống cách mạng và tình cảm tốt đẹp của quân đội ta.
Đồng thời thực hiện tốt chính sách dân tộc là một trong những điều kiện cơ
bản để xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện
đại; củng cố thế trận quốc phòng toàn dân; góp phần xây dựng biên cương
vững mạnh về mọi mặt. Bởi thế thực hiện tốt chính sách dân tộc vừa là trách
nhiệm vừa là vinh dự thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Do vậy, bản thân phải luôn góp sức mình làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ
quân đội quán triệt sâu sắc, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước, nhận rõ nhiệm vụ, vinh dự trách nhiệm, từ đó có ý thức và hành động
thiết thực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và


18
Nhà nước. Trên cương vị công tác, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ và tích cực thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước; động viên đồng bào hăng hái thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng - an ninh ở vùng dân tộc, miền
núi góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tích cực tham gia xây
dựng miền núi, cơ sở địa phương, vùng dân tộc thiểu số tiến bộ và vững mạnh
về mọi mặt: Xây dưng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; Giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới. Chủ động giúp đỡ đồng
bào xây dựng kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, xoá mù chữ; nâng cao dân

trí, xây dựng nếp sống văn minh; định canh, định cư, trồng và bảo vệ rừng, xây
dựng các vùng kinh tế, phổ biến khoa học - kỹ thuật, chăm sóc sức khoẻ,
phòng, chữa bệnh cho nhân dân. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, xây
dựng cốt cán, tạo nguồn cán bộ cho cơ sở. Cùng với các đơn vị trong quân đội
xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc ở vùng dân tộc thiểu số.
Thường xuyên giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân ở cơ sở. Kết hợp tốt kinh
tế với quốc phòng, quốc phòng với an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế.
Xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng vững mạnh. Xây dựng, hoàn
thiện khu vực phòng thủ ở vùng dân tộc, vùng biên giới. Chú trọng xây dựng
các lực lượng vũ trang và nâng cao trình độ hiệp đồng giữa các lực lượng vũ
trang với các cấp bộ đảng, chính quyền - đoàn thể và toàn dân; cảnh giác chủ
động xử lý tốt các tình huống chiến đấu xảy ra trên địa bàn, làm thất bại mọi
âm mưu phá hoại của kẻ xấu và các thế lực thù địch.
Là một giảng viên trong quân đội, bản thân thường xuyên giáo dục cho
cán bộ, chiến sỹ hiểu rõ, tôn trọng phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá
các dân tộc; giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật quân dân; giữ gìn và phát huy
giá trị truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ". Thực hiện tốt phương châm công tác dân
tộc: " Chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc" và phong
cách công tác dân vận: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân học dân,có trách nhiệm
với dân”.



×