Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tư DUY mới của ĐẢNG về xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân GIAI đoạn 1986 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.87 KB, 30 trang )

1

TƯ DUY MỚI CỦA ĐẢNG TRONG XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG
NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC (1986 - 2006)

Dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc, đó là quy luật tồn tại phát triển của dân tộc ta. Trong công cuộc đổi mới
cùng với nhiệm vụ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa phải
luôn luôn coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tư
duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân
luôn được Đảng ta quan tâm coi trọng và đạt được bước phát triển mới. Bởi
vì, quốc phòng là hoạt động của một nước nhằm bảo vệ nền độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất
nước. Nền quốc phòng bao gồm tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về quân
sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của Nhà nước và của nhân dân để
phòng thủ đất nước, tạo sức mạnh toàn diện, cân đối trong đó sức mạnh quân
sự là đặc trưng để giữ vững hoà bình, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động gây
chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của địch.
Nền quốc phòng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đó là nền quốc phòng
toàn dân, mang tính chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phát triển
theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường ngày càng
hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là yêu cầu khách quan
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lênin đã khẳng định: “Một cuộc
cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ” 1. Và nếu “không cầm vũ
khí bảo vệ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa thì chúng ta không thể tồn tại
được”. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì chiến tranh là sự thử thách đối với hết
thảy mọi quốc gia dân tộc, do vậy muốn giành thắng lợi trong chiến tranh
1


V.I Lênin Toàn tập, tập 37, Nxb MXCVa, 1976, tr. 145.


2

phải có nền quốc phòng toàn diện vững mạnh, đó là kết quả của quá trình
chuẩn bị lâu dài nhưng hết sức khẩn trương kỷ luật, trên một quy mô rộng
lớn.
Trung thành, nhất quán quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh
khẳng định tính tất yếu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Người nói: “Ngày xưa,
các vua Hùng đã có công dựng nước. Ngày nay, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước.”. Theo Hồ Chí Minh, Bảo vệ Tổ quốc không phải là hành động
nhất thời mà là hành động có mục đích, có kế hoạch, thường xuyên được
chuẩn bị chu đáo. Cho nên bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh ta cũng phải nắm
vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước, phải nhìn xa, trông rộng thấy
trước âm mưu thủ đoạn kẻ thù, để chủ động chuẩn bị trước về mọi mặt, nhằm
tăng cường sức mạnh đất nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ nước.
Nhiệm vụ của nền quốc phòng toàn dân theo Hồ Chí Minh là phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, của toàn dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả
cách mạng, giữ gìn hoà bình. Đây là nhiệm vụ hết sức lớn lao vì như Người
đã nói: Ta giành được chính quyền rồi, giữ chính quyền mới là khó.
Thường xuyên chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
để bảo vệ Tổ quốc cũng là sự kế thừa phát huy truyền thống của ông cha ta
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” - tư
tưởng xuyên suốt trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc. Tư tưởng dân
giàu - nước mạnh; nước giàu - binh mạnh, chủ trương: “ khoan thư sức dân
làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”, những chính sách độc đáo:
“tận dân vi binh”, “Bách tính gia binh”, “ngụ binh ư nông”v.v...là sự phản ánh
truyền thống chăm lo nhiệm vụ quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc từ bao
đời nay của dân tộc Việt Nam, luôn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh

kế thừa, phát triển cao trong thời đại mới.


3

Tính khách quan của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh còn do đòi hỏi trước hết, trên hết của thực tiễn sự phát triển phức tạp
của tình hình thế giới và diễn biến mới của tình hình trong nước liên quan đến
nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong những năm qua và hiện nay.
Trên thế giới, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, so sánh lực lượng có
lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Nhân cơ hội này, chủ nghĩa đế quốc càng điên
cuồng chống phá cách mạng thế giới. Đế quốc Mỹ âm mưu thiết lập “trật tự
thế giới mới”- thế giới một cực do Mỹ đứng đầu, khẳng định ưu thế tuyệt đối
của Mỹ đứng đầu, khẳng định ưu thế tuyệt đối của Mỹ về quân sự, chính trị,
kinh tế, đe doạ độc lập chủ quyền các quốc gia dân tộc. Với việc triển khai
chiến lược an ninh mới, tăng cường can thiệp các nước hòng áp đặt tiêu chuẩn
giá trị Mỹ cho cả thế giới, bỏ qua vai trò của Liên hiệp quốc, Mỹ tự cho phép
mình quyền lãnh đạo thế giới, can thiệp vào bất cứ đâu tạo tiền tệ nguy hiểm
đe doạ toàn bộ thế giới.
Lợi dụng tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và nạn khủng bố
phức tạp, chủ nghĩa đế quốc tăng cường can thiệp tạo nguy cơ mất ổn định ở
nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới.
Tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương là khu vực đang có sự phát triển kinh
tế cao và năng động, cùng với việc Mỹ điều chỉnh chiến lược, chú trọng hơn đến
khu vực này càng tạo nhiều nhân tố tiềm ẩn gây mất ổn định khu vực này. Trong đó
Việt Nam với vị trí địa - chính trị, địa kinh tế, địa quân sự quan trọng vừa thuận lợi
cho ta trong phát triển, nhưng mặt khác các thế lực thù địch cũng tìm mọi thủ đoạn
chống ta. Với mục tiêu “chiến thắng không cần chiến tranh”, thực hiện “triệt phá kẻ
thù cũ”, Mỹ và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện “Diễn biến hoà bình”, bạo

loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta bằng thủ đoạn thâm hiểm, tạo nên một
trong bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam như Đảng đã chỉ ra.


4

Tình hình trong nước, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng về kinh
tế - xã hội ta đã đạt được như: chính trị - xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng
khá; đời sống nhân dân được nâng lên; lòng tin của dân được củng cố...Song
vẫn còn những biểu hiện cần quan tâm như: còn một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống...mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân xảy ra ở nhiều nơi, việc tranh chấp khiếu kiện kéo dài ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự và ổn định xã hội dễ bị kẻ thù lợi dụng.
Mặt khác, sự phát triển tư duy trong xác định đường lối xây dựng nền
quốc phòng toàn dân còn do đòi hỏi của chính thực trạng nền quốc phòng
toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân của ta những năm qua đặt ra.
Theo đánh giá của Đảng ta, nhiệm vụ quốc phòng an ninh những năm
qua đã đặt những ưu điểm, kết quả là: tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn
định, quốc phòng và an ninh được tăng cường, các lực lượng vũ trang nhân
dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm
an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân được phát
huy; Quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới; kết hợp quốc
phòng và an ninh với kinh tế và đối ngoại có tiến bộ.
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng toàn quân lần thứ VII (6/1991),
nhận định: Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, sự nghiệp xây dựng quốc phòng củng cố quân đội còn bộ
lộ những yếu kém khuyết điểm cần khắc phục là: nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và chưa
thật vững chắc. Chậm hình thành chiến lược thống nhất gắn quốc phòng - an
ninh với phát triển kinh tế xã hội...khả năng trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức

cơ động chưa cao, còn mất cảnh giác dẫn đến bất ngờ lúng túng...Trong xây
dựng quân đội về chính trị tuy còn nhiều cố gắng song trình độ lý luận, tính
nhạy bén, bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống ở không ít cán bộ đảng viên


5

chưa tương xứng yêu cầu nhiệm vụ quân đội, công tác tư tưởng ở một số đơn
vị còn giản đơn kém hiệu quả; trình độ chính trị của quân đội chưa đáp ứng
yêu cầu; chưa xác định chiến lược tổng thể về trang bị quân đội và công
nghiệp quốc phòng...nhận thức về nhiệm vụ sản xuất làm kinh tế chưa sâu
sắc.
Nắm vững tình hình thế giới và trong nước, tại Đại hội IX (4/2001),
Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam là: tụt
hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các
thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen,
tác động lẫn nhau, làm cho tình hình trở lên phức tạp. Đặc biệt, tình trạng
tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị ,đạo đức lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân;
nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp,
trong khi đó cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không
nhanh chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hôn về kinh tế. Bỏi vậy, nắm bắt
cơ hội,vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn
đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.
Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, kế thừa phát huy truyền thống dân tộc, nắm chắc
tình hình thế giới và trong nước và nhất là thực trạng nền quốc phòng toàn
dân, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới, tư duy mới của Đảng

trong xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc
đã được hình thành và phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006.


6

Tư duy mới của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân được hình
thành, phát triển qua các kỳ Đại hội VI, VII,VIII, IX và X của Đảng, tập trung
vào các vấn đề cơ bản là: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Tổ
quốc gắn với bảo vệ chế độ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng và an ninh, xây dựng
lực lượng vũ trang vững mạnh đáp ứng phát triển của thực tế tình hình.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã chủ trương thực hiện đổi mới đồng
bộ, toàn diện, triệt để nhằm, đưa đất nước vượt qua khó khăn khủng hoảng để
đi lên. Trong đó vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc
cũng được Đại hội rất quan tâm. Quán triệt tinh thần cảnh giác cách mạng mà
Đại hội V đã chỉ rõ: trong khi “đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội”, “không một phút nơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”, Đại hội VI chủ
trương: “Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước. Phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày
càng vững mạnh...”1 nhằm mục tiêu: “Tăng cường tổ chức bảo vệ chủ quyền
và giữ vững các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo” 2. Để thực
hiện mục tiêu đó, Đảng xác định công cuộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội cần được tiến hành bằng sức mạnh của mọi lực
lượng; bằng mọi phương tiện cần thiết, trong từng địa bàn, ở tất cả mọi đơn
vị..., phải chú trọng tổ chức phong trào cách quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, phát huy vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá đường lối

chính sách của Đảng đối với quốc phòng. Các cấp, các ngành phải thực hiện
nghiêm túc nhiệm vụ quốc phòng an ninh, coi đó là nhiệm vụ quan trọng
thường xuyên.
21, 2

Văn kiện Đại hội Đảng VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 223.


7

Kế thừa, phát triển quan điểm của Đại hội VI, quan điểm về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân của Đảng ta đến Đại hội VII (6/1991) có bước phát
triển mới đáp ứng tình hình thế giới và trong nước. Trước thực tế ở Đông Âu
và Liên Xô; Tổ quốc, đất nước không bị xâm lược mà chủ nghĩa xã hội bị mất
bởi những thủ đoạn tiến công thâm hiểm của kẻ thù. Nhận thức rõ tình hình,
Đại hội VII đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ của quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân
dân, làm thất bại mọi âm mưu, hành động của các thế lực đế quốc, phản động
phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1.
Xác định nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là
“nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”. Do đó,
phải không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây
dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới. Khẳng
định sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc
phòng - an ninh. Phải “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc
phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” 2. Đại
hội VII chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với quân số thích hợp
theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại với lực lượng
dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; phát triển

đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong hoàn cảnh mới.
Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, quân sự, văn
hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời
sống vật chất, tinh thần cho cán bộ chiến sĩ trong Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân.
1

Cương lĩnh xây dựng đất nươc...Nxb Sự thật, H.1991, tr. 16


8

Cùng với sự phát triển, bổ sung, hoàn thiện của đường lối đổi mới, tư
duy của Đảng về quốc phòng an ninh không ngừng được khẳng định, bổ sung
đáp ứng tình hình mới. Qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội VIII
của Đảng (6/1996) tiếp tục khẳng định nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là:
“phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng
bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh đất nước, xây dựng vững
chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an
ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân...Bảo vệ vững chắc độc lập, an
ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”1. Thực hiện ngăn ngừa và làm thất bại
mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm
phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc đổi mới xây
dựng đất nước. Đại hội VIII còn xác định tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới đó là: kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh
tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, khẳng định mối quan hệ

khăng khít giữa hai mặt đó trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc gia và an ninh với hoạt
động đối ngoại. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh; xây dựng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng
toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân...; Hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ trương chính sách của
1,2
,

Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 118.


9

Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội và công an và sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh.
Kế thừa tư duy mới và quan điểm về xây dựng, củng cố nền quốc phòng
toàn dân của các đại hội trước và yêu cầu mới của thực tiễn tình hình cách
mạng Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đại hội Đảng lần thứ IX
(4/2001) khẳng định bước phát triển cao về tư duy mới của Đảng trong xác
định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Đại hội
IX tiếp tục khẳng định vai trò vị trí quan trọng của nhiệm vụ quốc phòng,
khẳng định tăng cường quốc phòng, an ninh là đòi hỏi khách quan trong tình
hình mới. Đại hội IX xác định phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn
dân trong giai đoạn mới là phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện,
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ngày càng hiện đại. Mục tiêu của việc xây

dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới nhằm:
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận và lực lượng an ninh nhân dân, không ngừng tăng cường tiềm lực
quốc phòng đất nước đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần,
xây dựng cơ sở chính trị xã hội, xây dựng thế trận lòng dân nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp của đất nước. Đặc biệt, chú ý chú trọng ở các hướng chiến
lược, các vùng trọng điểm.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là quân đội
nhân dân. Thực hiện xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và
từng bước hiện đại.
Xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng độc lập tự chủ với
bước đi thích hợp trên cơ sở khai thác sự phát triển khoa học công nghệ,
thành tựu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


10

Chủ động phòng ngừa và làm thất bại mọi âm mưu “Diễn biến hoà bình”
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt đối với quân đội và công an nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu phương hướng trên, Đại hội IX đã xác định những
quan điểm cơ bản để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng
toàn dân như sau:
Về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Đại hội IX khẳng định: “Bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn
hoá; Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc”1.
Quan điểm này của Đảng xác định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có

nội dung rất rộng: Bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội chính là bảo vệ thành quả cách
mạng to lớn của mấy thập kỷ đấu tranh gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Có bảo vệ độc lập, chủ quyền giữ vững an ninh quốc gia mới
tạo sự ổn định, hoà bình để phát triển. Phải bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa vì chỉ có Đảng, Nhà nước mới đem lại hạnh phúc
cho nhân dân, mới có chủ nghĩa xã hội; phải bảo vệ nhân dân vì Tổ quốc là
Tổ quốc của nhân dân, không bảo vệ nhân dân thì không có Tổ quốc. Mặt
khác, phải bảo vệ sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng lãnh đạo và thành
tựu 15 năm đổi mới đạt được.
Điểm mới nữa là phải “bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc”, đấu tranh kiên
quyết với mọi hành động đe doạ an ninh và lợi ích quốc gia dân tộc, không
được hy sinh hoặc để tổn hại lợi ích quốc gia dân tộc.
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 39.


11

Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân,
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng
toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”1.
Sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được tạo thành bởi nhiều yếu tố:
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá...trong đó yếu tố giữ vai trò quyết định và
được biểu hiện tập trung nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì “giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân là
đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn gốc sức mạnh và động lực to

lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”2.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong đó sức mạnh dân
tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, phải hết sức coi trọng phát huy sức mạnh thời đại và kết hợp sức
mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc.
Về kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, Đại hội IX
khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng
và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội”3. Sự kết hợp này đòi hỏi hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế
phải được đánh giá bằng kết quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi
trường, quốc phòng và an ninh. Mọi hoạt động quốc phòng, an ninh phải được
đánh giá bằng hiệu quả răn đe, ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu hành động
chống phá của kẻ thù, giữ vững hoà bình ổn định để phát triển kinh tế, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại, Đại
hội IX khẳng định: phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
1 , 2, 3

: Sđd tr. 40,44


12

ngoại là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi, là bài học thành công của
cách mạng Việt Nam. Việc phối hợp này phải thực hiện trong mối liên hệ giữa
hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc
dân tộc. Theo ý nghĩa đó, Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế”...Đồng thời, Đảng cũng khẳng định nhiệm vụ đối ngoại là: tiếp tục giữ vững

môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia.
Về tăng cường quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Tăng cường quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ thường xuyên, thường trực, song tình hình mới dẫn đến nội dung
này có bước phát triển mới: nếu Đại hội VIII xác định là “củng cố quốc
phòng” thì Đại hội IX nói là: “tăng cường quốc phòng...”. Đây là một nhiệm
vụ lớn lao, hết sức nặng nề nên cần có sự tham gia, trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, trong đó quân đội và công an đóng vai trò nòng cốt.
Trên đây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng
nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu phương hướng đã định:
Những quan điểm đó cần được quán triệt cụ thể trong tiến hành xây dựng nền
quốc phòng toàn dân trên những nội dung cụ thể: xây dựng lực lượng quốc
phòng toàn dân cũng như trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân:
Xây dựng lực lượng quốc phòng là xây dựng tiềm lực, thực lực của nền
quốc phòng, bao gồm cả con người và các điều kiện vật chất, tự nhiên khác. Xây


13

dựng lực lượng quốc phòng bao gồm cả xây dựng tiềm lực và thực lực quốc
phòng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tiềm lực và thực lực quốc phòng.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng hiện nay là xây dựng tiềm lực về chính
trị tinh thần, về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Trong đó mỗi tiềm lực có vai trò vị
trí quan trọng của nó trong mối quan hệ chung khăng khít với nhau.
Xây dựng tiềm lực về chính trị tinh thần là khả năng về chính trị tinh
thần có thể huy động nhằm tạo thành sức mạnh thực hiện nhiệm vụ quốc

phòng an ninh. Đây là nhân tố cơ bản tạo tiềm lực quốc phòng là nền tảng
chính trị tinh thần tạo sức mạnh quân sự, nó quyết định hiệu quả việc sử dụng
phát huy các tiềm lực khác, nó là ưu thế tuyệt đối của chiến tranh chính nghĩa
bảo vệ Tổ quốc. Do đó, nó giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng trong xây
dựng tiềm lực quốc phòng. Nội dung xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần
hiện nay là xây dựng chế độ chính trị xã hội (chế độ xã hội chủ nghĩa) ngày
càng vững mạnh; tiếp tục cải cách, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nhằm không ngừng tăng cường pháp chế đi đôi với phát huy dân
chủ; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân; không ngừng giác ngộ cách mạng,
giác ngộ chính trị cho nhân dân, xây dựng lòng tin vững chắc của nhân dân
với Đảng và chế độ.
Xây dựng tiềm lực về kinh tế là khả năng nền kinh tế có thể khai thác
huy động để phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh. Đây
là nhân tố cơ bản tạo nên tiềm lực quốc phòng, là cơ sở vật chất của nền quốc
phòng toàn dân, giữ vai trò quyết định đến tiềm lực quốc phòng (vì nền quốc
phòng chỉ khi ta có nền kinh tế mạnh độc lập tự chủ). Nội dung xây dựng tiềm
lực kinh tế của ta trong giai đoạn hiện nay phải đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời với
chăm lo củng cố quan hệ sản xuất; tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ công
bằng xã hội; kết hợp xây dựng kinh tế với tăng cường quốc phòng trên từng


14

địa phương, địa bàn chiến lược của đất nước; phát triển nền công nghiệp quốc
phòng lưỡng dụng vừa đáp ứng nhu cầu quân sự vừa tham gia phục vụ nhu
cầu kinh tế - xã hội...
Xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ: Là xây dựng khả năng khoa học
công nghệ có thể huy động nhằm giải quyết các nhiệm vụ trước mắt, lâu dài
của xã hội và của quốc phòng. Đây là một nhân tố cơ bản tạo nên tiềm lực

quốc phòng. Phương hướng cơ bản xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ là
phải xây dựng phát triển khoa học công nghệ một cách toàn diện, vừa đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, vừa đáp ứng yêu cầu quốc phòng, xây dựng khoa
học quân sự Việt Nam mạnh, phục vụ đắc lực cho xây dựng củng cố quốc
phòng và xây dựng quân đội, tập trung xây dựng một số lĩnh vực khoa học,
công trình khoa học quân sự đáp ứng yêu cầu trực tiếp trước mắt.
Xây dựng tiềm lực quân sự: Là xây dựng khả năng vật chất và tinh thần
có thể huy động được để tạo thành sức mạnh quân sự, phục vụ cho nhiệm vụ
quân sự, cho chiến tranh. Nó được hình thành trên cơ sở của thành tựu các
tiềm lực trên, sức mạnh tiềm lực quân sự biểu hiện sức mạnh của Nhà nước,
sức mạnh của lực lượng vũ trang.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng tiềm lực quân sự của đất nước yêu
cầu phải xây dựng lực lượng vũ trang (quân đội và công an) theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; phải xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại cần thiết cho mọi hoạt động của lực lượng vũ trang
trong thời bình và thời chiến; xây dựng và bố trí chiến lược của nền quốc
phòng toàn dân (bố trí lực lượng, thế trận chiến lược) đáp ứng yêu cầu xây
dựng kinh tế đất nước và nhu cầu chiến tranh đặt ra...
Đi đôi với xây dựng lực lượng quốc phòng, phải xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân vững mạnh. Đây là tổ chức bố trí lực lượng của toàn dân trên
toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu bảo


15

vệ trong thời bình và khi chiến tranh xảy ra. Xây dựng thế trận quốc phòng
phải tiến hành trên nhiều nội dung như: Xây dựng cơ sở chính trị xã hội, thế
trận lòng dân; phân vùng chiến lược bảo vệ Tổ quốc; xây dựng hậu phương
từng vùng chiến lược và hậu phương chiến lược quốc gia; xây dựng các tỉnh,
thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc; tổ chức các lực lượng vũ trang

sẵn sàng đối phó mọi tình huống; tổ chức hệ thống phòng thủ dân sự bảo vệ
nhân dân, bảo vệ kinh tế; kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cải tạo
địa hình xây dựng các công trình quân sự...
Để thực hiện tốt nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cần nắm
vững một số giải phá chủ yếu là: Thường xuyên coi trọng đẩy mạnh giáo dục
quốc phòng nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, của toàn bộ hệ thống chính
trị đối với sự nghiệp quốc phòng, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quốc phòng an ninh bảo vệ Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân và thế trận an
ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng -an ninh, quốc phòng an
ninh với kinh tế trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội...
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới; cùng với những thành tựu đạt
được trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội; tư duy bảo vệ Tổ quốc của Đảng thể
hiện rõ sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu
sắc đầy đủ và toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình; về
những yếu tố cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh
quốc phòng của đất nước trong điều kiện mới. Chúng ta cũng ngày càng thấy
rõ hơn vai trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết kết hợp chặt
chẽ giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại, giữa quốc phòng, an ninh, đối
ngoại với xây dựng kinh tế.
Bởi vì, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không chỉ là đối phó với hành
động vũ trang xâm lược của kẻ địch từ bên ngoài mà còn phải đặc biệt chăm lo


16

xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó với những thủ đoạn phi vũ trang của
địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà
là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh kinh tế, chính trị làm
cơ sở.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi
trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc đã được bổ sung phát triển, đầy đủ,
toàn diện hơn, thể hiện nhận thức, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hoá kinh
tế và hội nhập kinh tế quốc tế, đã khắc phục sự phiến diện trong tư duy chỉ
nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; làm
rõ hơn mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, biện chứng giữa các nội dung trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, khắc phục những quan
niệm một chiều, giản đơn về bảo vệ Tổ quốc, chỉ nhấn mạnh đến mặt tự
nhiên-lịch sử, hoặc chỉ nhấn mạnh bảo vệ chính trị – xã hội.
Chúng ta cần nắm vững quan điểm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc Đảng ta
xác định là: kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy
việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế- xã hội là lợi
ích cao nhất của Tổ quốc; sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định; kết hợp
chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh đối ngoại, chủ động phòng
ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những
đột biến bất lợi.


17

Trên cơ sở đó phương châm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc chỉ rõ: kiên
định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với vận dụng linh hoạt sách lược, tranh
thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế, phân hoá, cô

lập các phần tử chống đối ngoan cố nhất, các thế lực chống phá Việt Nam
hung hăng nhất, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa
là chính, đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai
phạm…Giáo dục, lôi kéo nhưng người lầm đường không để hình thành tổ
chức đối lập dưới bất cứ hình thức nào…Xử lý kịp thời mọi mầm mống gây
mất an ninh, không để bị động, bất ngờ.
Quan niệm về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc cũng thể hiện sự bổ sung phát
triển; đó là: sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác.
Hiện nay, trong điều kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, chủ
nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, sức mạnh bên trong của đất
nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất
của Nhà nước mà lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy về quốc phòng, nhận thức
đầy đủ hơn mối quan hệ giữa chiến tranh và hoà bình; xây dựng phát triển
kinh tế-xã hội với củng cố quốc phòng- an ninh của đất nước. Do vậy, trong
xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần tập trung thực hiện tốt các yêu cầu
chủ yếu sau:


18

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ quan điểm nhận thức về
xây dựng nền quốc phòng toàn dân; sức mạnh tổng hợp của quốc phòng toàn
dân và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới. Tập trung làm rõ các mối

quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lực lượng và thế trận quốc phòng
toàn dân; quan hệ giữa quốc phòng với an ninh, đối ngoại, kinh tế…quan hệ
giữa thù trong với giặc ngoài; đối tượng với đối tác; phân biệt rõ bạn, thù để
khắc phục các biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng; nhận rõ mối quan hệ giữa hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch từ bên ngoài vào những sai lầm, yếu
kém trong nội bộ.
Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần nắm vững những quan
điểm cơ bản
Trong xây dựng quốc phòng phải lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng củng cố quốc phòng là trọng
yếu thường xuyên. Đồng thời, phải giải quyết nhiều mâu thuẫn; giữa tốc độ
phát triển chậm của nền kinh tế với yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững chắc; giữa trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước còn thấp với yêu
cầu hiện đại hoá quân sự quốc phòng; giữa yêu cầu bảo vệ vững chắc chế độ
chính trị với tăng cường nhanh sức mạnh quốc phòng để ngăn ngừa và sẵn
sàng đánh thắng chiến tranh hiện đại trong bất kỳ tình huống nào.
Đấu tranh quốc phòng trong tình hình mới, phải quán triệt quan điểm,chủ
trương, đường lối đối nội, đối ngoại; nắm vững nguyên tắc chiến lược, vận dụng
sáng tạo sách lược phù hợp với từng đối tượng, chú trọng “thêm bạn, bớt thù”.
Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, tích cực phòng thủ vững
chắc, bảo vệ từ xa; chủ động giải quyết tình huống kịp thời, nhanh gọn, không để
mở rộng, kéo dài, kẻ địch lợi dụng tạo cớ can thiệp. Khi sử dụng lực lượng vũ
trang, nhất là quân đội phải tuân theo đúng quy định của Bộ Chính trị và Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng. Phát huy sức mạnh tại chỗ, lấy cơ sở để giải quyết là


19

chủ yếu, chú ý vận dụng phù hợp các biện pháp giáo dục, kiên trì vận động
thuyết phục đi đôi với xử lý nghiêm bằng biện pháp hành chính và pháp luật.

Ba là, thống nhất đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân
Cần thấu suốt các vấn đề mà Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định: Những ai chủ
trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị
hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất
kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Đó là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của ta trong
xây dựng và đấu tranh quốc phòng. Tuy nhiên giữa đối tượng và đối tác ngày
nay luôn có sự đan xen. Trong khi đối tượng là đấu tranh, nhưng vẫn có
những mặt cần tranh thủ, hợp tác; ngược lại là đi tác trong quan hệ làm ăn,
nhưng vẫn có những mặt đối lập phải cảnh giác và đấu tranh. Do vậy, đối
tượng và đối tác có thể chuyển hoá cho nhau, nên cần đánh giá một cách
khách quan, toàn diện để có đối sách đúng đắn, khắc phục tình trạng mơ hồ,
mất cảnh giác hoặc lại quá máy móc, cứng rắn trong quan hệ. Thực hiện
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Bốn là, chủ động dự báo đúng các tình huống chiến lược
Trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần chủ động dự
báo các khả năng, tình huống có thể xảy ra đối với đất nước. Dự báo càng
chính xác, càng có điều kiện để chuẩn bị ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả.
Những năm tới, đất nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển, đồng thời cũng
phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức đe doạ sự tồn tại của đất nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy chiến tranh xâm lược ít có khả năng xảy ra,


20

nhưng cần phải hết sức cảnh giác đề phòng tình hình có những diễn biến xấu,

phức tạp khó lường.
Trước hết, bằng thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ các thế lực thù địch tìm cách làm cho ta suy yếu, cùng với những sai phạm
của ta không được khắc phục như: suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, tệ
tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, mất đoàn kết, thiếu dân chủ; tụt hậu xa hơn
về kinh tế…làm cho quần chúng bất bình, mất lòng tin; kết hợp với các hoạt
động chống phá, kích động, lôi kéo của bọn cơ hội chính trị và các thế lực thù
địch là những yếu tố tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” dẫn tới biến động
chính trị trong nước. Địa bàn cần đặc biệt chú ý là: Tây Nguyên, Tây Bắc,
Tây Nam Bộ các thành phố lớn, các trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội…
Từ những diễn biến trên, các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng
các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” và những tồn
tại của lịch sử…tăng cường thâm nhập sâu vào các cơ sở xã hội để lôi
kéo, chia rẽ, kích động quần chúng đòi ly khai, tự trị. Chúng sử dụng bộ
máy phản động lưu vong từ bên ngoài xâm nhập, móc nối, xây dựng lực
lượng phản động bên trong đẩy mạnh các hoạt động gây mất ổn định
chính trị. Lợi dụng những sơ hở của ta, chúng có thể gây bạo loạn ở một
số vùng, khu vực, thực hiện âm mưu chia cắt đất nước. Trường hợp dựng
được ngọn cờ, tạo được thời cơ và những yếu tố cần thiết, chúng có thể lật
đổ chế độ theo kiểu “cách mạng nhung” như đã tiến hành gần đây ở một
số nước hoặc tạo cớ để can thiệp vũ trang. Địa bàn cần đề phòng là các
vùng biên giới, ven biển, những nơi nhạy cảm về chính trị, nơi tập trung
đông dân tộc thiểu số, nhiều đồng bào theo đạo…
Ngoài ra, trong trường hợp Lào và Campuchia có biến động lớn, xảy ra
bạo loạn, đảo chính, mất ổn định về chính trị sẽ có tác động trực tiếp đến quốc
phòng, an ninh của nước ta. Tình hình khu vực biên giới sẽ hết sức phức tạp,


21


các thế lực thù địch gây xung đột vũ trang, đòi xét lại các vấn đề tồn tại về
lịch sử…Khi cần thiết chúng có thể sử dụng địa bàn Thái Lan, lợi dụng
Campuchia làm bàn đạp gây chiến tranh chống Việt Nam. Trên Biển ĐôngTrường Sa, các nước trong khu vực do tranh chấp chủ quyền, khai thác tài
nguyên…có thể xảy ra xung đột vũ trang; các thế lực thù địch bên ngoài khu
vực có thể lợi dụng thời cơ để can thiệp vũ trang gây cho tình hình phức tạp
hơn. Trong nội địa, do sơ hở, mất cảnh giác, lực lượng khủng bố, hoặc do thế
lực thù địch lợi dụng tiến hành, lấy cớ “chống khủng bố” chúng có thể tiến
hành can thiệp vũ trang và tiến hành chiến tranh xâm lược.
Một số giải pháp chủ yếu xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Đại hội X đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân của ta
là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an nuinh nhân dân vững mạnh toàn
diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn
ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch,
không để bị động, bất ngờ.
Để thực hiện mục tiêu trên, cần thực hành đồng bộ nhiều giải pháp
chiến lược, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều
hành của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Qua hai mươi năm đổi mới, kết quả thực hiện cơ chế theo Nghị quyết
02/BCT của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước giữ vai trò quyết định trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Tuy nhiên, qua vận hành, cơ chế đó cũng có nhiều hạn chế cần được tổ chức
tổng kết rút kinh nghiệm để tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh.
Về Đảng: cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung điều chỉnh hệ thống cơ cấu
tổ chức đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng cho thống nhất, đồng bộ từ


22


Trung ương đến các địa phương, nhất là đối với cấp quân khu và cơ sở. Cụ
thể hoá các nội dung cần lãnh đạo về quốc phòng và bổ sung thêm cơ chế hoạt
động của từng cấp, ngành, địa phương đặc biệt chú trọng khi xử trí các tình
huống phức tạp. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, tăng cường biện pháp
tuyên truyền vận động các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng và đấu tranh
quốc phòng.
Về Nhà nước: cần điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc
phòng của bộ máy các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế
hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách về
công tác quốc phòng ở các bộ, ngành. Xây dựng và ban hành quy chế thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng cho cán bộ cơ quan, ban, ngành các cấp để phát
huy cao nhất quyền lực trong quản lý nhà nước về quốc phòng.
Các cơ quan chức năng, cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách,
tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ
chức thực hiện xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Tiếp tục nghiên cứu
xây dựng quy chế quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa các ban ngành, các cấp,
nhất là trong xử lý các tình huống. Chấp hành nghiêm Quy định 107/TTG của
Thủ tướng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an và Quy định
71/QĐTW về Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng
Tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân là kết quả của quá
trình xây dựng lực lượng quốc phòng kết hợp chặt chẽ với bố trí xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân. Muốn có tiềm lực quốc phòng mạnh phải huy
động, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ
thống chính trị tham gia. Trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước để xây dựng, tích luỹ tiềm lực quốc phòng. Do vậy, cần kết hợp chặt
chẽ ngay từ trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch của từng ngành, từng địa


23


phương trên từng lĩnh vực. Sức mạnh tổng hợp được phát huy từ nội lực, bằng
nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với tranh thủ khai thác
mọi nguồn lực từ bên ngoài cả trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tiềm lực quốc phòng và khả năng vật chất, tinh thần có thể huy động
để bảo vệ đất nước, là lực tổng hợp của các tiềm lực: chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, quân sự, an ninh, đối ngoại trong đó tiềm lực quân sự là đặc
trưng. Mức độ huy động tiềm lực quốc phòng tùy thuộc vào yếu tố, trong đó
vai trò lãnh đạo của Đảng , quản lý của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân
có ý nghĩa quyết định. Do vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục cần có cơ chế,
chính sách thích hợp để phát huy ý thức trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, chỉ
đạo các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị và toàn dân tham gia.
Muốn vậy, phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng cho
toàn dân, trước hết là bồi dưỡng kiến thức quốc phòng theo phân cấp cho các
đối tượng cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp. Biện pháp cụ thể là: tổ
chức rút kinh nghiệm, bổ sung điều chỉnh về tổ chức, chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục, bồi dưỡng cho sát hợp, thiết thực hơn đối với từng đối
tượng. Trong tổ chức giáo dục, cần hết sức coi trọng đối tượng thanh niên,
học sinh, sinh viên. Nội dung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cần chú trọng
toàn diện, phù hợp với từng đối tượng, nhất là đối với cán bộ chủ trì các cấp.
Mục tiêu giáo dục, bồi dưỡng không chỉ nhằm nâng cao quan điểm,
nhận thức, ý thức, ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng mà còn
phải chú trọng bồi dưỡng, hướng dẫn về nội dung, phương pháp, kinh nghiệm
tổ chức thực hiện theo yêu cầu đặt ra đối với từng đối tượng. Cần giáo dục
làm cho mọi người nhận thức sâu sắc đặc điểm tình hình, yêu cầu mới về
quốc phòng, nâng cao ý thức cảnh giác, xây dựng lòng tin vào bản lĩnh con
người Việt Nam, tự hào về truyền thống dân tộc, chủ động chuẩn bị, sẵn sàng
đối phó có hiệu quả với mọi tình huống.



24

Quá trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cần tập trung hướng dẫn
trao đổi cách làm, cách giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, sát thực tế
như: phương pháp phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị; cách xây
dựng quy hoạch, kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng –an ninh, tổ chức
thực hiện các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo, cách đấu tranh xử lý
các tình huống phức tạp…
Ba là, đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc
Quá trình xây dựng phát triển đất nước, việc triển khai xây dựng cơ sở
hạ tầng, bố trí hệ thống các công trình kinh tế-xã hội…có quan hệ rất lớn đến
thế trận quốc phòng toàn dân. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng bổ sung, điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh cho
phù hợp với yêu cầu mới. Triển khai bố trí thế trận quốc phòng toàn dân phải
tính toán kết hợp chặt chẽ với các quy hoạch đầu tư phát triển kinh tế, kỹ
thuật. Trong tình hình mới, cần đặc biệt quan tâm việc bố trí cơ cấu theo
hướng “đan xen lợi ích” trên các địa bàn, vùng miền, thành phần kinh tế khác
nhau. Tổ chức xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải đảm bảo thế liên
hoàn, vững chắc, kết hợp thế trận tại chỗ với cơ động, rộng khắp, thời bình
với thời chiến, tập trung các hướng, khu vực mục tiêu trọng điểm chiến lược.
Trên cơ sở thế trận phòng thủ bảo vệ Tổ quốc, các ngành, lĩnh vực cần cụ
thể hoá sự kết hợp trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch để hình thành thế trận
quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Trong thế
trận quốc phòng toàn dân chung của cả nước, cần tiếp tục nghiên cứu việc tổ
chức chiến trường theo yêu cầu mới, là cơ sở để xây dựng căn cứ hậu phương
chiến lược, căn cứ hậu cần-kỹ thuật trên từng hướng chiến trường, gắn với đầu
tư xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, phòng thủ dân sự…
Tiếp tục bổ sung điều chỉnh thế trận bố trí các lực lượng tác chiến kết
hợp giữa chủ lực với địa phương tại chỗ với cơ động, trên không với trên bộ,



25

trên biển và trên biên giới đất liền, biển đảo…Trên cơ sở đó mà tổ chức xây
dựng công trình phòng thủ cho hợp lý và chặt chẽ, đạt hiệu quả tốt về kinh tế,
quân sự.
Triển khai xây dựng cơ bản kết hợp với thế trận phòng thủ trên các địa
bàn, vùng trọng điểm của quốc gia như hệ thống cầu cảng, sân bay, khu vực
dầu khí. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng như Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc. Triển khai nghiên cứu để từng bước “dân sự
hoá” quần đảo Trường Sa theo mô hình kết hợp dịch vụ - du lịch - kinh tế
biển gắn với quốc phòng - an ninh.
Qua tổng kết 15 năm xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành), cần chỉ
đạo đẩy mạnh hơn việc xây dựng có chiều sâu, ngày càng vững chắc. Từng
địa phương có biện pháp tích cực để huy động sứ mạnh tổng hợp tại chỗ để
xây dựng phát triển, đồng thời có thể độc lập tự lực bảo vệ, tự giải quyết được
các tình huống cả trong thời bình, thời chiến.
Trước mắt, trên cơ sở quy hoạch xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân của địa phương, các khu vực phòng thủ tỉnh (thành) cần tiếp tục thực hiện
quy hoạch điều chỉnh dân cư đến các vùng còn thưa dân, nhiều đất đai và tiềm
năng chưa được khai thác như vùng sâu, vùng xa trên biên giới đất liền, biển đảo,
nhất là các đảo xa bờ, không có dân để tạo các điểm dân cư mới. Tổ chức di dân
cần có kế hoạch chuẩn bị cơ sở hạ tầng, bảo đảm đời sống chu đáo để dân sớm ổn
định đời sống, hình thành thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Đồng thời các
địa phương cần có biện pháp chống di dân tự do, gây mất ổn định về nhiều mặt.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải tiến hành đồng bộ, trên
các mặt, nhưng quan trọng và quyết định nhất là cần tập trung xây dựng cơ sở
chính trị vững chắc tạo cho được “thế trận lòng dân”. Có nhiều biện pháp tiến
hành, nhưng trước hết là phải tập trung chăm lo đời sống cho quần chúng,
thực hiện “xoá đói giảm nghèo”, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh



×