1
MỤC LỤC
Trang
A.Mở đầu…………………………………………………….…….2
B.Nội dung………………………………………………………....4
I.Bối cảnh thế giới và trong nước khi Đảng
đổi mới tư duy……………………………………………...…….4
II.Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế
thị trường thời kì đổi mới………………………..…………...….8
III.Những thay đổi về tư duy của Đảng ta..…………………….….11
IV.Những thành tựu của đất nước sau
20 năm đổi mới…………………………...………….……….....16
V.Phương hướng và giải pháp của Đảng về tư duy
kinh tế thị trường trong những năm tiếp.......…..………………...20
C.Kết luận…………………...……………………..…………...…….26
2
A. Mở Đầu
Qua hơn 20 năm đổi mới Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày
hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và đặc biệt Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng
tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế .
Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ
sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta.
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy
về kinh tế, đây là bước đột phá cho công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo.
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi
đầu đổi mới tư duy kinh tế là Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mô
hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được
xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa không chỉ có
hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế
khác nhau.
Việt Nam đang dần khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế. Tuy
nhiên nước ta vẫn còn là một nước nghèo, kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng
khá lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tệ
nạn xã hội tham ô tham nhũng vẫn tồn tại và phát triển. Đảng và Nhà nước đã
khẳng định quyết tâm dẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, định hướng XHCN, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo
3
nàn, lạc hậu, kém phát triển để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp.
Và trong xu thế hội nhập kinh tế, Việt Nam đang trên đường phát triển
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh việc đặt nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn đề không
kém phần quan trọng và cần thiết đó là phát triển nền kinh tế . Bởi vì khi một đất
nước nghèo nàn, lạc hậu thì cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ trở thnàh thuộc
địa về kinh tế của những nuớc phát triển. Vì thế, để phát triển kinh tế thì ngoài
việc chúng ta cần phải phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực
tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học... thì Đảng ta cần có một đường
lối tư duy đúng đắn để phát triển nền Kinh tế thị trường ở nước ta.
Sự thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong hơn 20 đổi mới ở nước ta-
một sự thay đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp
chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở
thành một nước có nền kinh tế vững mạnh.
Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình về
đường lối chính sách của Đảng về công cuộc đổi mới tư duy nền kinh tế thị
trường, em đã quyết định chọn đề tài : “Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị
trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta”. Đề tài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân
tích bối cảnh đẩt nước trước đổi mới, các giai đoạn phát triển tư duy của Đảng
ta, khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình bày những thành tựu và thách thức của nền
kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp
để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4
B.Nội dung
I.Bối cảnh trong nước và thế giới khi Đảng đổi mới tư duy về kinh tế thị
trường.
Trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ, mặc dù quan niệm về
tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành nhưng đến thời kỳ
năm 1954- 1975 mô hình chủ nghĩa xã hội mới được xác lập trên thực tế ở
miền Bắc. Đó là mô hình chủ nghĩa xã hội chịu sự chi phối của quy luật
chiến tranh khi miền Bắc giữ vai trò là hậu phương lớn của miền Nam và
đối với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. Nền kinh tế chỉ hủy với cơ
chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp dựa trên hình thức sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất được xác lập ở miền Bắc trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau năm 1975 cả nước ta đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng bức tranh mới về hiện tượng kinh tế xã
hội đã thay đổi.
1.Bối cảnh thế giới
Những năm 70 – 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - chính trị trên thế
giới và của các nước khối chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng to lớn đến tình hình
kinh tế Việt Nam ,thể hiện cụ thể:
Xu thế hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu
và xung đột. Trước tình hình đó, các quốc gia đều phải thay đổi về tư duy, chính
sách phát triển kinh tế đặc biệt là đường lối đối ngoại giữa các nước với nhau.
Chính vì vậy, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu bắt buộc, là đòi hỏi
của chính yêu cầu phát triển đối với nền kinh tế Việt Nam.
Tổ chức “các nước công nghiệp mới” ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý
5
về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ nông
nghiệp, có quan hệ xã hội theo kiểu giá trị văn hóa phương Đông. Đó là những
thành công của chiến lược phát triển: phát huy sức mạnh nội lực, thị trường –
mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Sự thất bại của công cuộc cải tổ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một bài học đắt giá. Đó là kết quả của
con đường cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải
quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.
Công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc – một nước xã hội chủ nghĩa
láng giềng với những đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội với Việt Nam –
theo định hướng thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 đã đạt được
những thành tựu nổi bật. Đó chính là nhưng kinh nghiệm quý báu trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, bối cảnh thế giới vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XX có những
ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để đáp
ứng được yêu cầu phát triển và phù hợp với xu hướng thời đại, chúng ta buộc
phải đổi mới về tư duy, tận dụng những cơ hội do thời đại mang lại nhưng đồng
thời, những bài học quan trọng trong sự thành công và thất bại trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa là những kinh nghiệm
quý báu cho việc hoạch định đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
2.Bối cảnh trong nước .
Nếu như trước đây nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời gian đầu thực
hiện đã tỏ ra phù hợp tạo bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế - xã
hội, đồng thời nó thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng của cả dân tộc. Nó cho phép
Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền
6
tuyến thì hiện nay việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp đã trở thành nguyên nhân đẩy nền kinh tế lâm vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng kéo dài.
Trong một nền kinh tế tồn tại ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế hàng hóa. Chúng ta có thể khái
quát mô hình kinh tế nước ta trước năm 1979 là “công hữu, kế hoạch hóa,
phi thị trường”, nhà nước trở thành cơ quan quyền lực kinh tế trực tiếp
mọi khâu, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, từ sản xuất vật chất đến lưu
thông, phân phối sản phẩm. Trong quan hệ với các đơn vị kinh tế cơ sở thì
nhà nước chịu trách nhiệm cấp phát vật tư, các đơn vị kinh tế chịu trách
nhiệm sản xuất và giao nộp sản phẩm theo chỉ tiêu giá trị hiện vật mang
tính pháp lệnh. Trong lĩnh vực thương nghiệp, nhà nước tổ chức thu mua,
tập trung nguồn hàng và thực hiện phân phối sản phẩm thông qua hệ
thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Nền kinh tế vận hành
theo kế hoạch pháp lệnh mang tính hành chính nên nhiều quy luật kinh tế
khách quan bị lãng quên.
Cộng thêm xuất phát điểm của nền kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, cùng với những vấp váp và sai lầm trong chính sách kinh tế nên
đến năm 1985, kinh tế nước ta đã rơi vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạm
phát, thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
Kinh tế tăng trưởng thấp: Từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội
tăng 50%, tức là bình quân mỗi năm trong giai đọan 1976-1985 chỉ tăng 4,6%.
Đã thế, sản xuất kinh doanh lại kém hiệu quả nên chi phí sản xuất cao và không
ngừng tăng lên. Năm 1980, chi phí vật chất chiếm 41,95% tổng sản phẩm xã hội,
năm 1985 tăng lên chiếm 44,1%. Do vậy, thu nhập quốc dân qua hai kế họach 5
năm tăng 38,85%, bình quân mỗi năm tăng 3,7%.
7
Làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn: Năm 1985, dân
số cả nước gần 59,9 triệu người, tăng 25,7% so với năm 1975. Như vậy, trong
10 năm, bình quân mỗi năm dân số tăng 2,3%. Để đảm bảo đủ việc làm và thu
nhập của dân cư không giảm thì ít nhất nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm.
Nhưng thực tế nền kinh tế không đạt được mức tăng đó nên sản xuất trong nước
luôn luôn không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tối thiểu. Thu nhập quốc dân chỉ
bằng 80-90% nhu cầu sử dụng. Tích lũy nhỏ bé nhưng toàn bộ quỹ tích lũy và
một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm
1981-1985, thu vay nợ và viện trợ nước ngoài bằng ngân sách và bằng 28,9%
tổng số thu trong nước. Nếu so với tổng số chi ngân sách thì bằng 18,6%. Đến
năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Tuy nguồn thu từ
nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và phải
bù đắp bằng phát hành trái phiếu. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm
1985 là 36,6%.
Trị giá xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá trị
nhập khẩu. Trị giá xuất khẩu chỉ bằng 20-40% nhập khẩu: Năm 1976 bằng
21,7%, năm 1981 bằng 19%, năm 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loại hàng hóa
thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một
phần do sản xuất không đảm bảo được tiêu dùng. Kể cả những mặt hàng trong
nước có thế mạnh như sản xuất gạo, vải. Quan hệ kinh tế quốc tế hầu như chỉ
gói gọn với các nước xã hội chủ nghĩa. Sau mười năm thống nhất, việc xây dựng
và phát triển kinh tế cơ bản trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu nên cái
gì cũng quý.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng theo cấp số nhân: Từ năm 1976,
tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà
nước ta. Năm 1985, cuộc cải cách giá - lương - tiền theo giải pháp sốc đã thất
8
bại làm cho cơn sốt lạm phát tăng nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hóa tác dụng đổi
tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô.
Giá cả không chỉ tăng trên thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị
trường có tổ chức. Về cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầm tay bao cấp của Nhà nước.
Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới
774,4%.
Như vậy, những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế của nước
ta đã lâm vào khủng hoảng mà đỉnh cao là năm 1986.Trước tình hình đó yêu cầu
đổi mới nền kinh tế là yêu cầu sống còn, là vận mệnh của đất nước.
II.Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới:
1.Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII:
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường. So với thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay
đổi căn bản và sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho
thấy sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát
triển của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội
nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa Tư
bản. Chủ nghĩa Tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hoá. Do đó, kinh tế thị
trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không phải là sản phẩm
riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh
tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất hoá
cao.
9
Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
Xã hội. Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương
thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ
chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh tế và điều tiết mối
quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế
thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã
hội. Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác
nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho
chúng.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, lỗ, lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường
phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui
luật vốn có của kinh tế thị trường: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật
lưu thông tiền thị trường…….. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước.
2.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X:
Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo qui luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn
dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất cùa chủ nghĩa xã hội”. Nội dung cơ
bản của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước
ta thể hiện ở 4 tiêu chí:
10
Về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá
giả hơn.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành
phần kinh tế, trong mọi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để
phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế,
định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải
quyết vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã
hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn
thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị