Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Nguồn gốc sự xung đột giữa người palestine và người israel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.74 KB, 5 trang )

Nguồn gốc sự xung đột giữa người Palestine và người Israel
Trong nhiều thập kỷ qua, LHQ và nhiều nhà lãnh đạo của các quốc gia, quốc tế cũng như
nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đã lên tiếng kêu gọi các bên kiềm chế, cùng nhau
thương lượng hòa bình, không biến Thánh địa thành sân khấu chiến tranh và tất cả hãy bằng mọi
nỗ lực để cứu vãn nền hòa bình ở Trung Đông. Người Ả-rập muốn được sinh sống hòa bình với
mọi dân tộc khác nhau trên toàn thế giới. Sau nhiều năm chiến tranh liên miên, người dân Israel
đã mệt mỏi và theo hướng của LHQ cũng như dư luận quốc tế, đã chịu “đổi đất lấy hòa bình”
nên lần lượt trả lại đất cho các nước Ả-rập mà Israel đã chiếm đóng vào năm 1967 nhưng hòa
bình vẫn chưa mỉm cười với họ. Phải chăng số phận đã cột chặt hai dân tộc Do Thái và Ả-rập với
nhau, hòa trộn những ham muốn, những tín ngưỡng và những bi kịch của họ. Sự tranh chấp
mang màu sắc kinh thánh trên mảnh đất Palestine có quá nhiều hứa hẹn này thật hiếm có. Người
ta tranh nhau không chỉ từng sườn đồi, từng con suối mà cả Thánh và Lịch sử. Mảnh đất này là
thánh địa của ba tôn giáo: Ki-tô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Cả ba tôn giáo này đều coi
Jerusalem là Đất Thánh của mình. Theo Thánh tích của người Ki-tô giáo, Jerusalem là nơi qua
đời của Chúa Jêsus; đối với người Hồi giáo đây là nơi nhà Tiên tri Mohammad bay lên trời; còn
đối với người Do Thái giáo, với Đền Salomon là thành phố thiêng liêng nhất, là cội nguồn bản
sắc của họ.
Chính xung quanh cái lòng chảo sôi sục này, người Palestine và người Israel bằng súng
đạn, đã và đang tìm cách khẳng định nguồn gốc và tính hợp pháp của họ trong việc kiểm soát
mảnh đất nhỏ bé nằm giữa Địa Trung hải và sông Jordan. Đó là sự xung đột giữa hai chủ nghĩa
dân tộc, giữa người Do Thái với người Ả-rập bắt nguồn từ xa xưa.
Chưa bao giờ có một sự kiện tương tự xảy ra trên trái đất này từ xưa tới nay: hai nước
cùng tranh giành một thủ đô. Ngày 01/01/1996, tại Tekoa cách Jerusalem 12 km, Chủ tịch Tổ
chức giải phóng Palestine (PLO) Araphat từ trên máy bay trực thăng bước ra với lời tuyên bố đầu
tiên: “Một nước Palestine đang hình thành với thủ đô là Jerusalem” và sau khi lần đầu tiên bầu
cử Quốc hội Palestine vào ngày 20/01/1996, Chủ tịch Quốc hội cũng tuyên bố: “Lấy Jerusalem
làm thủ đô của Nhà nước Palestine”. Trước đó, vào ngày 30/7/1980, Quốc hội Israel đã đơn
phương tuyên bố: “Lấy Jerusalem làm thủ đô vĩnh viễn của Israel”. Cả hai nước đều đã được
quốc tế thừa nhận: Israel được gia nhập LHQ vào năm 1949, còn Palestine hiện mới đệ đơn xin
gia nhập mặc dù được LHQ và nhiều quốc gia thừa nhận, ủng hộ nhưng chưa là thành viên chính
thức của LHQ và như vậy quốc tế phải công nhận Jerusalem là thủ đô của một nước thôi, vậy là


nước nào vì cả hai đều công bố Jerusalem là của nước mình? Liệu ai sẽ nhường cho ai? Đây là
vấn đề mà nhiều nhà quân sự, nhiều chính khách trên thế giới đã ví vùng Trung Đông như là một
nồi thuốc súng đang nổ chậm! Ngọn lửa chiến tranh ở Trung Đông khi nào mới bị dập tắt?
Đặng Thanh An (Ban tôn giáo chính phủ)


Gaza - máu và nước mắt Bài 1: Nguồn gốc xung đột Palestine-Israel
Đến nay, lịch sử về vùng đất bao gồm lãnh thổ trên thực tế của Palestine và của Israel
ngày nay vẫn còn chưa có cách nhìn thống nhất của các nhà sử học.
Vùng lãnh thổ Palestine ngày nay gồm ba khu vực lớn: Bờ Tây sông Jordan, một phần
phía đông Jerusalem, và phần lãnh thổ tách rời- Dải Gaza.
Lịch sử tranh chấp đất đai và hận thù giữa người Do Thái Israel và người Arập Palestine
ngày nay có nguồn gốc rất xa từ thời hình thành các tôn giáo lớn trên thế giới.
Tại vùng đất này, người Hồi giáo Arập và người Do Thái giáo chưa có thời nào chịu
chung sống hòa bình với nhau, khiến lịch sử vùng Trung Đông trở nên vô cùng phức tạp.
Từ năm 1517-1920, toàn bộ vùng lãnh thổ thuộc Palestine và Israel ngày nay do Đế chế
Ottoman cai quản. Sau Thế chiến I, Đế chế Ottoman sụp đổ, các bên thắng trận gồm Anh, Pháp,
Ý, Nhật Bản tổ chức hội nghị Sanremo (Ý) từ ngày 19-26/4/1920 để chia quả thực.
Thực dân Anh được ủy trị cai quản phần đất trước kia thuộc về Đế chế Ottoman, bắt đầu
từ 1920-1948. Đến năm 1948 vùng đất này vẫn chỉ có tên gọi là Palestine dưới sự cai quản của
thực dân Anh.
Thời kỳ chiến tranh tôn giáo trước Đế chế Ottoman, người Do Thái ở vùng đất này phải
ly hương sống lưu vong tại nhiều nước châu Âu khá nhiều.Tuy nhiên đến thời kỳ Đế chế
Ottoman và thực dân Anh, vùng đất này được xác định là có số người Do Thái phải di cư sang ở
các quốc gia khác nhau trên thế giới, nhiều nhất là châu Âu.
Người Do Thái nổi tiếng là thông minh nên rất thành đạt trong các ngành kinh tế, đặc biệt
là ngân hàng, tài chính ở châu Âu tại các nước họ nhập cư. Quốc trưởng Đức Adolf Hitler của
nhà nước Đức Quốc xã không thể chấp nhận trên thế giới có một dân tộc nào thông minh và
thành đạt hơn dân tộc German nên ra lệnh tàn sát hủy diệt người Do Thái.
Suốt thời kỳ trước và trong Thế chiến II, người Do Thái ở châu Âu bị Đức Quốc xã săn

đuổi, giết hại. Hơn năm triệu người Do Thái sinh sống ở châu Âu bị phát xít Đức bắt dồn vào các
trại tập trung lao động khổ sai và giết hại dã man bằng cách xả hơi độc vào trong trại tập trung
Do Thái ở Ba Lan và Đức để giết tập thể.
Do bị săn đuổi ở châu Âu, người Do Thái lần theo kinh thánh của họ tự xác định quê cha
đất tổ của mình là vùng đất thuộc Israel ngày nay. Từ đó, trên thế giới có phong trào phục quốc,
kêu gọi tất cả những ai là người Do Thái đang sống ly hương trở về đất tổ.
Giữa người Do Thái hồi hương và người Palestine ở vùng đất này liên tục xảy ra xung
đột tranh chấp đất đai. Các cuộc tranh chấp này đều đẫm máu cho cả hai bên. Tình hình tranh
chấp giữa người Arập và Do Thái ở đây càng gay gắt sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945 có


làn sóng lớn người Do Thái trở về chiếm đất của người Arập tại vùng đất ủy trị của thực dân
Anh.
Hai năm sau khi kết thúc Thế chiến II, ngày 29/11/1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
(LHQ) thông qua Nghị quyết 181 không ràng buộc để chấm dứt quyền ủy trị của Anh đối với
vùng đất này kể từ ngày 1/8/1948.
Nghị quyết 181 của Đại hội đồng LHQ cũng chia vùng đất Palestine trước đó dưới sự ủy
trị của Anh thành hai phần gần bằng nhau cho cả người Palestine lẫn người Do Thái.
Phần cho Israel gồm 20.770 km2 và cho Palestine 26.320 km2. Nghị quyết nói rằng nếu
cả Palestine và Israel đều thực thi Nghị quyết 181 của Đại hội đồng và thành lập nhà nước của
mình trên vùng đất được chia, LHQ sẽ công nhận đó là những nhà nước độc lập.
Với Nghị quyết 181 Đại hội đồng LHQ, những người Do Thái chớp ngay cơ hội để lập ra
nhà nước Israel và được LHQ công nhận như ngày nay. Trong khi đó, những người Arập
Palestine bác bỏ Nghị quyết 181 vì cho rằng như thế là công nhận bị mất gần một nửa lãnh thổ
của ông cha họ.
Người Arập Palestine không thành lập nhà nước của mình nên đã lỡ cơ hội. Đó là vì sao
cho đến nay người Palestine vẫn còn mơ ước thành lập một nhà nước độc lập Palestine.
Khái quát về Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam
A. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
I. Khái quát sự ra đời và quá trình truyền bá Hồi giáo vào Việt Nam

1. Sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
1.1. Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên. Sự ra đời
của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Mohammad - người mạc khải, khai sáng tín
ngưỡng Hồi giáo. Mohammad được tín đồ Hồi giáo thế giới tôn vinh là "tinh thần", "duy nhất",
"toàn năng", "độ lượng", "siêu việt" và "vĩnh cửu"... là thiên sứ và Giáo chủ.
1.2. Sau khi Hồi giáo ra đời, vào khoảng thời gian từ năm 622 đến năm 630, cùng
với việc xây dựng lực lượng, tôn giáo này phải trải qua thời kỳ đấu tranh quyết liệt, kết hợp
những cuộc "thánh chiến" với những hoạt động chính trị và ngoại giao, Mohammad và những
người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca và truyền bá Hồi giáo đến vùng này.
Mohammad cùng những người anh em Hồi giáo xây dựng Mecca thành "Thánh địa " - trung tâm
Hồi giáo thế giới cho tới ngày nay. Sau khi chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một
đế quốc bành trướng thế lực, tiếp tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng thế giới Hồi
giáo. Cho đến thế kỷ XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc gia dân tộc
từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ XIV đến XVI), Hồi giáo
truyền bá xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.


1.3. Hiện nay, Hồi giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ),
có mặt ở hơn 100 quốc gia trên tất cả các châu lục. Quốc gia có đông người Hồi giáo nhất hiện
nay không phải là nước ở khu vực Trung Đông như nhiều người vẫn tưởng, mà là Indonesia
nước ở khu vực Đông Nam Á với trên 180 triệu tín đồ chiếm 87% dân số của đất nước này.
2. Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam
Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu so với
các khu vực Hồi giáo khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á chủ yếu
bằng con đường "hoà bình" qua những thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba Tư. Theo Tống sử Trung
Quốc thì thế kỷ X đã thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao
Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được
truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa
thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời

sống tâm linh người Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần thánh
Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong
xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ
vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo chưa phải là tôn giáo chính thống của người Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia,
Indonesia, Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ
tôn giáo truyền thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn
giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng
kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo
Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung
bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị
quân của An Dương - Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu
Đốc - An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc
đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng
thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm - đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng
giao lưu buôn bán với một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam
bộ. Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên,
cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm đóng, quá trình giao thương với bên
ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập
cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng
xuất hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm


nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc hình thành cộng
đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay.
II. Đức tin và giáo luật của Hồi giáo
Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về
thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người

Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào
thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin
vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah)
với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời giáo
huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua thiên thần
Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo
của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính
thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại
nhất, thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
B. HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM
Hiện nay, theo số liệu thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo
khoảng hơn 72.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63
tỉnh, thành phố cả nước. Hồi giáo ở nước ta hình thành hai dòng:
- Một là: Cộng đồng Hồi giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi
là Chăm Islam, sống tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Đồng Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình Phước
và Thủ đô Hà Nội.
- Hai là: Cộng đồng theo Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập
trung ở ba tỉnh: Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Phước.
Trần Thị Minh Thu (Chuyên viên Vụ Các tôn giáo khác - Ban Tôn giáo Chính phủ)



×