Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN góp PHẦN tìm HIỂU THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.24 KB, 18 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN – MỘT
1.1
1.2

SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN
Khái quát thị trường lao động nông thôn
Những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập

Trang
3
4
4

của lao động nông thôn hiện nay
Thực trạng thị trường lao động nông thôn ở nước ta

5

hiện nay
Việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay - những vấn đề

8

đặt ra cần giải quyết.
Chương 2 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VÀ

11



1.3
1.4

TẠO VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM

2.1
2.2

HIỆN NAY
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

13

hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiên và ban hành bổ sung

13

các chính sách kinh tế vĩ mô
2.3
Giải pháp phân bố nguồn lao động
2.4
Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động
2.5
Một số giải pháp khác
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

16
18
20
21
22


2

MỞ ĐẦU
Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng lớn
trên thế giới, là nền kinh tế rất hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá và đô thị hoá ngày
càng nhanh chóng kéo theo sự thu hẹp diện tích đất nông nghiệp ở khu vực
nông thôn. Nhưng lực lượng lao động nông thôn chiếm phần lớn lực lượng
lao động trong cả nước, khoảng 68% lực lượng lao động cả nước (số liệu
thống kê năm 2009). vấn đề chuyền dịch cơ cấu lao động còn chậm chưa theo
kịp với tốc độ đô thị hoá nên trong khoảng 10 năm từ 2000 đến 2010 mới
giảm được khoảng 3-4% lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp. Tới năm 2015, phấn đấu giảm tỷ lệ lao động xã hội trong lĩnh vực
nông nghiệp xuống khoảng 16-17%. Đây là một chỉ tiêu khá cao so với mức
đạt được của khoảng thời gian 10 năm trước. Trong khi đó bước vào giai đoạn 2001-2010 tỷ
lệ tăng dân số cả nước còn ở mức 1,7%/năm và ở nông thôn là 2%/năm. Hàng năm có khoảng 1,5 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, số người tìm được việc làm là 1,2 triệu người. Như vậy hàng năm trên
cả nước số người không có việc làm tăng thêm khoảng 0,3 triệu người (hơn 2/3 số này là ở khu vực
nông thôn). Chiến lược phát triền kinh tế - xã hội nước ta còn khoảng 50% và quỹ thời gian lao động
được sử dụng ở nông thôn đạt khoảng 80-85%. Việc thực hiện chỉ tiêu chiến lược về lao động nông
thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nước ta trong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại, hoá đất nước.
Trên thực tế, việc hoàn thành những chỉ tiêu chiến lược về lao động và sử dụng quỹ thời gian

lao động ở nông thôn nước ta vào năm 2015 có ý nghĩa to lớn xong cũng là nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có những giải pháp vĩ mô đồng bộ và hữu
hiệu để thực hiện một cách có kết quả việc phân công lại lao động và tạo thêm nhiều việc làm cho lao
động ở khu vực nông thôn nước ta.

Chương 1
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN
1.1 Khái quát thị trường lao động nông thôn
Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, quan niệm của
người Việt Nam về vấn đề việc làm và thất nghiệp từng bước được đổi mới,


3

tiến sát dần cách quan niệm hợp lý, theo những tiêu chí chung của thế giới.
Đặc biệt, xét dưới góc độ luật pháp, quan niệm chính thống (của Nhà nước)
về vấn đề việc làm cũng đã được thay đổi. Bên cạnh đó, cách thức phân loại
việc làm ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản, cũng đã được thực hiện theo các
quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế. Quan niệm về thất nghiệp và thiếu
việc làm ở Việt Nam hiện nay cũng có sự thay đổi rõ rệt.
Trước hết, hiểu như thế nào về việc làm? Việc làm được hiểu là mọi hoạt động
tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm. Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao
gồm : Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật. Những công việc tự làm đê
thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình, nhưng không được trả công ( bằng tiền
hoặc hiện vật ) cho công việc đó.

Từ cách tiếp cận như vậy, ta có thể thấy, người có việc làm được hiểu:
là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà
trong tuần lễ trước điều tra. Ngược lại, người thất nghiệp được hiểu: là người

đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước
quá trình điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Thứ hai, xét thị trường lao động: thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa
người bán sức lao động và người mua sức lao động, thông qua các hình thức thoả thuận về tiền công
hay tiền lương và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng
miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận khác.

Thị trường lao động là một sân chơi bình đẳng mà ở đó có nhiều chủ
thể tham gia với các vai trò khác nhau: Nhà nước, người sử dụng lao động,
người lao động, nhà cung cấp các dịch vụ việc làm, các đối tác xã hội khác.
Các chủ thể tham gia thị trường lao động có vai trò khác nhau nhưng giữa
chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là hình thành cơ chế ba bên
trong xử lý các quan hệ lao động, đảm bảo hài hoà quyền hạn, trách nhiệm và
lợi ích các bên vì mục tiêu phát triển chung.
1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của lao
động nông thôn hiện nay
* Các nhân tố về tự nhiên: Thu nhập của lao động nông thôn một phần


4

rất lớn là thu từ nông nghiệp, do đó các yếu tố về điều kiện tự nhiên ảnh
hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến thu nhập
của lao động nông thôn. Các yếu tố về điều kiện tự nhiên gồm:
Vị trí địa lý: Những vùng thuận lợi là những vùng gần các trung tâm đô
thị, các trung tâm kinh tế và văn hoá sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với
các thông tin khoa học kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cũng
như mua sắm các tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngược
lại, những vùng nông thôn sâu, cách xa các trung tâm kinh tế và văn hoá sẽ
rất khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá, sản xuất thuần nông là

chính, trình độ sản xuất hạn chế dẫn tới thu nhập thấp.
Điều kiện về đất đai, địa hình: Những vùng trung du và miền núi (đặc
biệt là miền núi) có địa hình hiểm trở bị chia cắt do đó rất khó khăn trong việc
phát triển giao thông và thuỷ lợi. Việc áp dụng máy móc kỹ thuật cũng rất
hạn chế do đất đai bị chia cắt manh mún. Vì vậy, năng suất lao động thấp, hạn
chế trong khả năng giao lưu kinh tế và tiếp cận với thị trường, với các thông
tin về văn hoá, khoa học kỹ thuật do vậy cũng hạn chế quá trình sản xuất kinh
doanh và ảnh hưởng đến thu nhập.
Điều kiện khí hậu, thuỷ văn. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
những cơ thể sống mà cơ thể và môi trường là một thể thống nhất. Do vậy các
điều kiện về khí hậu và thuỷ văn có vai trò vô cùng quan trọng trong phát
triển nông nghiệp. Các vùng có khí hậu thuận lợi, điều kiện tưới tiêu thuận lợi
sẽ có năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp cao mang lại thu nhập
cao cho nông dân. Ngược lại những vùng có nhiều yếu tố bất lợi về thời tiết
khí hậu, khan hiếm nguồn nước sẽ khó khăn trong phát triển sản xuất và từ đó
ảnh hưởng tới thu nhập và đời sống của dân cư. ở nước ta, những vùng có
điều kiện khó khăn điển hình là vùng miền Trung, miền núi và trung du Bắc
Bộ. Các sự biến đổi thất thường của thời tiết như hạn hán, bão, lũ lụt, sương
muối...luôn gây những thiệt hại to lớn cho sản xuất và đời sống. Để hạn chế


5

thiệt hại của những hiện tượng này cần phải có hệ thống thông tin dự báo hiện
đại để có phương án phòng chống có hiệu quả .
* Các nhân tố kinh tế – xã hội: Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn bao gồm:
Mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: Đây là
yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết là hệ thống giao thông, thuỷ
lợi, hệ thống thông tin và năng lượng. Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ giảm

chi phí vận tải, thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hoá với các vùng khác từ
đó hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và phát triển các ngành
nghề phi nông nghiệp. Hệ thống điện, thông tin giúp cho người dân có khả
năng trang bị máy móc kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
thuận lợi trong việc tiếp thu những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, trình
độ dân trí được nâng cao. Hệ thống trường học, bệnh viện có vai trò quan
trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và đào tạo nhân lực. Vì vậy,
hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tác động một cách tổng hợp tới quá trình
phát triển kinh tế xã hội và mức sống của dân cư.
Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của người lao động: Con người
với tư cách là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi hoạt động lao động, vì vậy, chất
lượng của nguồn lao động quyết định hiệu quả của hoạt động lao động. Trong
quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, con người được coi là
nguồn lực của mọi nguồn lực cho phát triển. Do đó, trình độ văn hoá, trình độ
khoa học kỹ thuật của người lao động có ảnh hưởng quyết định đến phát triển
kinh tế. Điều đó đòi hỏi không ngừng đào tạo, tập huấn cho nông dân, phát
triển mạnh giáo dục ở các vùng nông thôn để hình thành một lực lượng lao
động có chất lượng ngày càng cao.
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng: Để phát triển kinh
tế phải có nguồn vốn đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất và làm cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Với trình độ phát triển kinh tế ở


6

nông thôn hiện nay, hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn sản xuất. Với các
hộ gia đình trẻ mới tách hộ thì tình trạng thiếu vốn càng trầm trọng. Do vậy,
để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn thì cần phải giúp đỡ
người nông dân có khả năng huy động mọi nguồn vốn vào sản xuất, đồng thời
mở lớp tập huấn cho người nông dân nâng cao khả năng quản lý và sử dụng

có hiệu quả nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước
cũng cần cung cấp vốn cho nông dân qua nhiều hình thức để mở rộng sản
xuất kinh doanh và tăng thu nhập.
Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của từng địa phương, từng
dân tộc: Mỗi địa phương có những phong tục tập quán riêng, có truyền thống
văn hoá riêng. Mỗi dân tộc cũng có những truyền thống, những phong tục tập
quán riêng. Có những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp có ảnh hưởng
tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội và ngược lại cũng có những phong
tục tập quán, lạc hậu trở thành vật cản cho sự tiến bộ xã hội. Truyền thống
giúp đỡ nhau trong đời sống hàng ngày, trong làm ăn kinh tế, trong khuyến
học...là những truyền thống tốt đẹp. Có những làng xã người dân xây dựng
thành các nhóm, hội kinh doanh rất hiệu quả, có làng khuyến khích người dân
làm kinh tế và báo cáo kết quả trong ngày hội làng...đã có tác động thúc đẩy
kinh tế phát triển và thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy
nhiên, cũng có những hủ tục như ma chay cưới xin linh đình, công việc xong
trả nợ hàng năm mới hết. Các tệ nạn mê tín dị đoan...thói quen sống và làm
việc mang tính tự nhiên không tính toán...là lực cản vô cùng to lớn cho sự tiến
bộ xã hội. Vì vậy, các giải pháp giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho
lao động nông thôn cần xem xét kỹ đến các yếu tố về phong tục tập quán của
mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc, từ đó mỗi giải pháp mới có tính khả
thi và hiệu quả.
* Các nhân tố thuộc về cơ chế chính sách. Chính sách của nhà nước
ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của lao động nông thôn. Người nông dân


7

không thể có khả năng làm mọi việc mình muốn. Họ có quyền tự chủ khá lớn
trên mảnh đất của họ, tuy nhiên vẫn phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Ví dụ: Không được tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất...Còn những điều

kiện khác cho phát triển sản xuất thì chủ yếu phải do chính sách của nhà nước
như: Chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn, chính sách
khuyến nông, chính sách hỗ trợ nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ nông
sản ...Đều phải dựa vào vai trò của nhà nước và nó có tác động to lớn và lâu
dài tới phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
1.3 Thực trạng thị trường lao động nông thôn ở nước ta hiện nay
* Cung lao động nông thôn:

Dân số ở nông thôn nước ta hàng năm tăng với tốc độ

vẫn khá cao, khoảng 2% (năm 2001- 2010). Có khoảng 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động mỗi
năm. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh trong khi cơ cấu lao động chuyển dịch chậm làm cho
lao động nông thôn thiếu việc làm và thất nghiệp tăng nhanh. Trình độ chuyên môn của lao động nông
thôn ở mức rất thấp, phần lớn chưa qua đào tạo.

* Cầu lao động ở khu vực nông thôn:

Khu vực nông thôn kinh tế xã hội còn

chưa phát triển, tạo ra ít việc làm, chủ yếu là làm nông nghiệp, đất đai bị thu hẹp do đô thị hoá, sản xuất
nông nghiệp cũng giảm dần nên lao động nông thôn thường tồn tại dưới hình thức thất nghiệp trá hình
hoặc sử dụng không hết quỹ thời gian lao động trong nông nghiệp. Dịch vụ ở mức thấp do cuộc sống
còn khó khăn, người dân ít quan tâm nên khó phát triển.

* Tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn:

Tình trạng thiếu việc làm

hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Theo số liệu báo cáo
điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2010 của Tổng cục Thống kê, tổng số lao động nông thôn

là 36.606,2 triệu người chiếm 72% lực lượng lao động cả nước, trong đó thường xuyên tồn tại một lực
lượng lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu việc làm mang tính thời vụ. Năm 2010, tỷ lệ thiếu việc
làm trong độ tuổi lao động của khu vực nông thôn ở mức 4,26%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nông
thôn cao gấp hơn 2,3 lần khu vực thành thị, trong khi có sự chênh lệch không đáng kể về mức độ thiếu
việc làm giữa nam và nữ ở khu vực nông thôn của các vùng kinh tế - xã hội. Trên địa bàn nông thôn cả
nước hiện có 6 đến 7 triệu lao động dư thừa không có việc làm thường xuyên, trong đó có trên 50% chỉ
có việc làm từ 3 tháng đến 4 tháng trong năm. Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động ở
nông thôn khá thấp chỉ khoảng trên dưới 75%. Vào thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông thôn
thường di chuyển đến các địa phương khác nhất là các thành phố lớn để tìm kiếm thêm việc làm nhằm
mục đích tăng thu nhập.
Những năm gần đây, tình trạng lao động nông nhàn trở thành vấn đề xã hội nổi cộm vì đó là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng di chuyển lao động nông thôn mang tính thời vụ


8

để tìm kiếm việc làm và tăng thêm thu nhập. Đặc biệt trong điều kiện gia tăng tình trạng thiếu việc làm
trong toàn bộ nền kinh tế thì vấn đề lao động nông nhàn ở nông thôn càng trở nên bức bách. Đó là
nguồn bổ sung đáng lo ngại vào lực lượng lao động thiếu việc làm nói chung và làm tăng thêm dòng
người di dân, di chuyển lao động từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra thành thị.

Nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thất nghiệp:
Thứ nhất, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chậm chạp dẫn
tới chưa giải quyết được một cách cơ bản và đồng bộ tình trạng thất nghiệp và
thiếu việc làm ở nông thôn. Lực lượng lao động nông thôn vốn đã dư thừa,
nay do tác động của cơ chế thị trường càng trở nên trầm trọng. Từ năm 19901997, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm 3,5%, bình quân mỗi năm giảm
được 5%. Số hộ hoạt động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ hai, quá trình đô thị hoá nhanh chong, những vùng ven đô phát
triển rầm rộ các khu công nghiệp, khu chế xuất đã chiếm mất một phần đất
nông nghiệp làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp, nông dân mất đất trở

nên thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Mặt khác, do cơ cấu lại nông nghiệp và
kinh tế nông thôn chưa nhận được sự hỗ trợ đúng mức về vốn, tín dụng, thuế,
thị trường... Vì vậy, làm cho sự phục hồi các làng nghề truyền thống, hình
thành và phát triển nghề mới để công nghiệp hoá nông thôn, mà đặc biệt là
công nghiệp chế biến chậm và hạn chế phát triển. Do vậy, không thế có tác
động mạnh và thu hút một bộ phận đáng kể lao động dư thừa ở nông thôn.
Hơn nữa, họ hầu như không nhận được bất cứ sự đào tạo kỹ thuật hoặc ngành
nghề nào. Họ rất ít có cơ hội đế tìm việc làm mới, nâng cao thu nhập và cải
thiện điều kiện sống. Ngoài ra lao động nông thôn vẫn chưa thích nghi với quan hệ cung cầu của
cơ chế thị trường. Thị trường nông thôn còn mang tính tự phát, kém năng động và không theo kịp với
tốc độ tăng trưởng kinh tế và phân công lại lao động.

* Mức tiền công và thu nhập của lao động nông thôn: Mức tiền công và thu
nhập của lao động nông thôn tăng đều qua các năm từ 1999 đến 2010. Tuy
vậy, mức tăng còn thấp và có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn.
Tiền công và thu nhập của lao động nông thôn thấp hơn của lao động ở thành
thị rất nhiều, luôn luôn hấp hơn khoảng 50% so với khu vực thành thị. Điều


9

này dẫn đến hậu quả là mức sống của lao động nông thôn thấp hơn nhiều so
với thành thị. Đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người một tháng của lao
động khu vực thành thị là 2130 nghìn đồng/người/tháng, thì thu nhập bình
quân đầu người một tháng ở nông thôn mới là 1071 nghìn đồng./người/tháng.
Vùng có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng thấp nhất tính đến
2010 là vùng Trung du và miền núi phía Bắc (905 nghìn đồng/người/tháng);
cao nhất là vùng Đông Nam Bộ: 2304 nghìn đồng/người/tháng
1.4 Việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay - những vấn đề đặt ra.
Qua phân tích thực trạng của thị trường lao động ở nông thôn chúng ta

nhận thấy có những vấn đề cần quan tâm giải quyết để tạo điều kiện phát triển
thị trường lao động ở nông thôn là: Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, trong giai
đoạn 2001-2020 dự báo bình quân mỗi năm tăng khoảng 2,75%. Trong khi các điều kiện về kinh tế còn
yếu kém thì tốc độ tăng nguồn lao động như vậy sẽ tạo ra sức ép lớn về việc làm. Trình độ văn hoá của
người lao động nông thôn còn thấp so với yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Tỷ lệ thời gian nhàn rỗi của lao động nông thôn còn quá cao nhưng nhiều nơi vẫn
không tuyển đủ lao động có chuyên môn kỹ thuật. Lao động ở nông thôn vẫn còn chiếm tuyệt đại đa số
về mặt số lượng trong nguồn lực lao động, tốc độ gia tăng dân số tự nhiên ở nông thôn lại nhanh hơn so
với khu vực công nghiệp và thành thị. Chất lượng nguồn lao động nông thôn thấp hơn nhiều so với các
vùng đô thị, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao. Phần lớn người lao động ở khu vực nông thôn còn
mang nặng tác hong của người sản xuất nhỏ nên tính tổ chức, tinh thần kỷ luật yếu kém, chưa có tác
phong công nghiệp, do đó năng suất lao động chưa cao và khả năng cạnh tranh trên thị trường sức lao
động kém. Khả năng thu hút lao động của các hoạt động phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông
thôn còn thấp. Công tác thông tin về lao động, việc làm chưa kịp thời, chi tiết, chưa huy động hết khả
năng cho xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm. Kết cấu hạ tầng ở nông thôn như hệ thống giao
thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống đê biển, hệ thống cung cấp nước sạch, công trình ngăn, xả lũ... còn
thiếu đồng bộ, chưa được quan tâm đầu tư thích đáng. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chưa
tạo ra được sự phát triển hài hòa giữa các vùng đô thị và nông thôn. Khoảng cách về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn còn lớn và có chiều hướng ngày càng gia
tăng. Các hoạt động dịch vụ, công nghiệp chế biến phục vụ cho phát triển nông nghiệp ở nông thôn còn
chưa phát triển gây không ít khó khăn cho sản xuất và lưu thông nông sản hàng hóa.


10

Chương 2

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VÀ TẠO VIỆC LÀM Ở
NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp

hoá- hiện đại hoá:

Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc gắn
với công nghiệp chế biến và thị trường xuất khẩu nông sản. Muốn vậy, cần
đổi mới quan điếm và nhận thức về vai trò và vị trí của mặt trận nông nghiệp
trong cơ cấu kinh tế quốc dân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phải gắn phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, ngư nghiệp với
chuyến đối cơ cấu sản xuất ngành này.
Tăng đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu đầu tư
dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân, bao gồm đào tạo nghề
mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức và kinh nghiệm làm ăn bằng
các ngành nghề nông nghiệp và dịch vụ.
Hoàn thiện quy hoạch tống thê về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
chế biến nông sản làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn. Ưu tiên các vùng miền núi, vùng có nhiều trang trại, vùng sản xuất
tập trung cây công nghiệp, cây ăn quả.
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và lâu dài.
Trong quy hoạch cần quan tâm đến các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn
phục vụ xuất khẩu, các ngành công nghiệp chế biến nông sản và những ngành
công nghiệp phục vụ nông nghiệp như điện, cơ khí, chế biến nông, lâm thuỷ
sản, quy hoạch hệ thống trạm, trại nghiên cứu thực phẩm và chuyên giao tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông dân. Thực hiện các biện pháp
khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến nông.
Thực hiện giải pháp kích cầu bằng các chính sách khoán sức dân ở
nông thôn, trong đó bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp là việc nên làm. Mở
rộng diện miễn giảm thuế cho các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông


11


sản, lâm sản và thuỷ sản. Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này để tạo cầu cho lao
động nông nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn
nông dân và gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến theo hướng tích cực
hơn và hiệu quả hơn. Nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp kiếu mới, nhất
là mô hình kinh tế trang trại, tố hợp tác tự nguyện của các hộ, tổ hợp công
nghiệp chế biến nông sản, liên doanh với nước ngoài về chế biến nông sản.
Phát triển nông nghiệp theo hướng đa canh và chuyên canh, chuyến đôi
cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp. Hiện nay, ngành nông nghiệp nước ta vẫn còn mang nặng tính
độc canh cây lương thực mà chưa thật sự chú trọng vào phát triển các loại cây
con khác có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, cần quy hoạch cụ thể từng vùng trọng
điểm, hướng dẫn nông dân cải tạo vườn, và thuyết phục họ trồng các vùng
cây mới như: cây ăn trái, hoa - cây cảnh... theo hướng sản xuất hàng hoá.
Đồng thời nghiên cứu cải tiến giống mới một cách hoàn thiện trên cơ sở xem
xét những lợi thế tiềm năng cho phép ở từng vùng, thúc đấy nông nghiệp phát
triển theo hướng kinh doanh tông hợp, mở rộng thị trường hàng hoá nông sản
cả trong và ngoài nước.
Phát triển công nghiệp nông thôn, hướng ngành này vào phục vụ sản
xuất nông nghiệp là chính như: Sản xuất máy móc, công cụ sản xuất nông
nghiệp, phát triển công nghiệp, chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Đẩy mạnh
phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, trên cơ sở cân nhắc
kỹ lưỡng về đất đai, lao động, vùng nguyên liệu... như: công nghiệp mía
đường, công nghiệp xi măng, công nghiệp hàng tiêu dùng,...Nên chăng hình
thành những xí nghiệp công nghiệp vệ tinh sản xuất phụ tùng hoặc gia công
cho các nhà máy lớn.
Phát triển dịch vụ nông thôn, không chỉ chú trọng phát triển các dịch vụ
truyền thống, như dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ hàng tiêu dùng mà cần đây



12

mạnh phát triển các loại dịch vụ khác như dịch vụ việc làm, dịch vụ cho vay
vốn... đồng thời nâng cao chất lượng các loại dịch vụ thúc đẩy sản xuất phát
triển và nâng cao đời sống nhân dân.
2.2 Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiên và ban hành bổ sung các chính sách kinh tế vĩ
mô.

Đây là công việc rất quan trọng quyết định sự tăng, giảm chỗ làm việc
trong từng thời kỳ. Có những chính sách lại tác động theo cả hai hướng trái
ngược nhau: vừa tạo chỗ làm việc mới, vừa làm mất chỗ làm việc, như: chính
sách khoa học - công nghệ, chính sách tín dụng, đầu tư. Vì vậy, cần thiết phải:
Tố chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá các yếu tố tác động tới việc
tăng, giảm chỗ làm việc ở từng vùng cụ thể để hoạch định, bổ sung, điều
chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế
với mục tiêu giải quyết việc làm. Tống kết, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, quá trình chuyển đổi và tích tụ, tập trung ruộng đất, phân tích sự
tác động của những hiện tượng kinh tế này tới vấn đề lao động - việc làm đế
từ đó có phương thức xử lý linh hoạt mền dẻo, định hướng cho quá trình này
phát triển theo đúng quy luật khách quan.
Ban hành bô sung hoàn thiện chính sách trực tiếp tác động tới giải
quyết việc làm ở nông thôn, như: chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết
việc làm ở nông thôn, như: Chính sách dịch vụ việc làm, chính sách cho vay
vốn và hỗ trợ tài chính giải quyết việc làm. Đặc biệt, tạo ra những tiền đề tiến
tới hình thành quỹ bảo hiểm việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn trên
cơ sở Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiên nay
không chỉ là vấn đề kinh tế hay vấn đề xã hội đơn thuần mà là một quá trình
tổng họp và rất phức tạp. Vì vậy, cần phải giải quyết nó trên phạm vi rộng,
bao gồm những vấn đề liên quan đến quá trình phát triền nguồn nhân lực cũng

như sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở nông thôn.


13

2.3 Giải pháp phân bố nguồn lao động
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và hoàn

cảnh thực tế của nông thôn

Việt Nam hiện nay, việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động trước hết phải hướng vào những ngành,
những hoạt động quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, vào
việc khai thác những nguồn lao động có chất lượng cao, lao động được đào tạo, ưu tiên lao động tại chỗ
và chú ý tỷ suất sử dụng thời gian lao động trong những thời điếm nông nhàn. Cụ thể là:

Thứ nhất, giảm thiêu lao động trong khu vực nông thôn:
Số lao động trong độ tuổi lao động hiện nay khoảng 7 triệu người( chiếm gần 50% tổng dân số
trong vùng). Để duy trì mật độ dân số cũng như chỉ tiêu về diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân
khẩu, số lượng lao động nông nghiệp cần được giữ ở mức ổn định khoảng 7-8 triệu người bằng các biện
pháp: Giảm tỷ lệ sinh đẻ để từ đó giảm thiểu số lượng lao động trong vòng 15-20 năm sau; Di chuyền
bớt lao động ra khỏi vùng bằng hai cách chủ yếu: di cư lao động đến những vùng thiếu lao động đặc biệt
là các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng bớt số lao động trẻ ra làm việc tại các khu công
nghiệp, đô thị, thành phố lớn. Để thực hiện việc rút bớt sức lao động theo cách này, trong những năm
trước mắt, cần hết sức coi trọng giáo dục và đào tạo đối tượng lao động trẻ.

Thứ hai, tích cực nghiên cứu, tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực
nông thôn bằng hệ thống các biện pháp phong phú, có hiệu quả.:
Thay đối chuyển dịch cơ cấu cây trồng: Mặc dù là nước có ngành sản xuất nông
nghiệp khá phát triển, nhưng về cơ bản vẫn là nông nghiệp thuần nông, cây lúa vẫn là chủ đạo trong cơ
cấu cây trồng. Vì vậy, lao động nông thôn trong vốn đã dư thừa lại càng có nguy cơ dư thừa nhiều hơn

khi việc canh tác lúa nước và những cây lương thực ngắn ngày như khoai lang, khoai tây, rau đậu càng
ngày càng đòi hỏi ít lao động thủ công hơn; hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất, trình độ
cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tương đối hoàn
chỉnh. Chính vì vậy, để phá thế thuần nông, độc canh, thực hiện đa dạng hoá nền nông nghiệp, tạo thêm
việc làm vho lao động nhất là những lao động lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng không được đào tạo, việc
chuyến đối dù rất ít - cơ cấu cây trồng cũng là một giải pháp tốt.
Thực hiện thâm canh, chuyên môn hoá nông sản hàng hoá mũi nhọn: Nước ta vốn có lực lượng
lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm, thâm canh không phải là vấn đề quá mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoàn
cảnh dư thừa lao động, ngành nghề tạm thời chưa phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng hạn chế... việc
nâng cao trình độ thâm canh, thực hiện chuyên môn hoá cao đối với một số cây trồng, một số sản phẩm
cũng là một biện pháp ít nhiều đóng góp cho việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động.

Thứ ba, phát triển ngành nghề:
Phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn chặt với sản xuất nông
nghiệp. Đây là hai ngành kinh tế mà trong quá trình phát triển có mối quan hệ
chặt chẽ về nguyên liệu, lao động, thị trường, môi trường. Phát triển ngành


14

nghề nông thôn phải chú ý tới các nghề mới và hết sức chú trọng khôi phục,
tái tạo, phát triển ngành nghề truyền thống.
Phát triển ngành nghề truyền thống phải gắn chặt trong mối quan hệ
chặt chẽ với công nghiệp thành thị, với thị trường trong và ngoài nước. Kết
hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức và sở hữu, lựa chọn công
nghệ, kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, thiết bị tiên tiến
thủ công, cơ khí nhỏ trong nhiều loại hình doanh nghiệp.
Giải quyết được đầu ra cho các ngành sản xuất trồng trọt là những
ngành mà việc tiêu thụ sản phẩm được coi là ách tắc nhất hiện nay.
Tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn và từ đó tăng thu

nhập cho lao động. Tạo cơ sở thức ăn đế phát triển ngành chăn nuôi. Cho
phép giữ lại một phần lợi nhuận sản xuất nông nghiệp cho khu vực nông thôn,
vì nếu không có những ngành chế biến ở nông thôn thì lợi nhuận của sản
phẩm nông nghiệp sẽ di chuyên sang các ngành chế biến ở đô thị và sang lĩnh
vực lưu thông. Khôi phục và phát triền những ngành nghề truyền thống, đặc
biệt là những ngành nghề tạo ra sản phẩm hiện đang có nhu cầu lớn trên thị
trường trong và ngoài nước.
Thời gian sản xuất không phụ thuộc vào mùa vụ, có thể sản xuất quanh năm,
làm nhiều giờ trong ngày, kể cả buổi tối; Nguyên liệu thường là nguyên liệu thu gom, nguyên liệu tái
sinh không đòi hỏi chất lượng cao. Không đòi hỏi nhà xưởng có quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, trang
thiết bị hiện đại.
Với những ưu điếm như vậy, trước mắt phát triển làng nghề cần tập trung vào các nghề có khả
năng thu hút nhiều lao động (là lao động tại chỗ), nhưng có khả năng tạo ra sản phẩm xuất khẩu mũi
nhọn, đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm, sứ, đồ mỹ nghệ, sản phẩm thêu ren, tơ lụa,...
Những ngành nghề sản xuất sản phẩm có nhu cầu lớn trên thị trường nhưng lại phải cạnh tranh
với công nghiệp đô thị như: vật liệu xây dựng, sản phẩm cơ khí, giấy, dệt may...đòi hỏi vốn đầu tư lớn,
trình độ lao động cao, trang thiết bị hiện đại cần phát triển thận trọng từng bước. Trước hết, cần phát
triển ở dạng liên kết với các cơ sở công nghiệp đô thị dưới hình thức tham gia sản xuất gia công, bán
thành phẩm.

2.4 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động:
Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn


15

trên phạm vi cả nước và triển khai thành các đề án trong từng vùng.
Đây là giải pháp mang tính tiền đề của hệ thống giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn lao động. Bởi vì, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông
thôn chỉ có thế mang lại hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi có

được hành động đúng. Từ đó, làm cơ sở xây dựng đề án nâng cao chất lượng
nguồn lao động hiện có và nguồn lao động trong tương lai.
Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa phương, các ngành
về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khối nông-lâm nghiệp và các địa
phương, nắm chắc yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động, thực hiện
phân tích, đánh giá yêu cầu hiện tại và yêu cầu tương lai trên cơ sở đó xây
dựng kế hoạch đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ...
Đế thực hiện nhiệm vụ trên, ngoài yêu cầu về mặt vật chất còn cần
chuẩn bị một lượng lao động có chất lượng cao của ngành giáo dục. Xét riêng
về các điều kiện vật chất cho ngành giáo dục, cần chuẩn bị trên các phương
diện sau: Chuẩn bị hệ thống cơ sở trường lớp, đặc biệt là trường dân tộc nội trú một cách đầy đủ theo
điều kiện của các địa phương, chủ yếu dựa trên cơ sở giúp đỡ của ngân sách. Đối với các xã miền núi,
trong đó có các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, cần tận dụng nguồn vốn của chương trình xoá đói
giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng sâu vùng xa, kết hợp với sự đống
góp sức lao động của địa phương để xây dựng trường lớp đảm bảo yêu cầu học tập của học sinh, tránh
tình trạng tranh tre nứa lá tạm bợ như hiện tại.

Để khuyến khích các thầy cô giáo về với nông thôn và miền núi, cần có
điều kiện vật chất nhất định, trong đó đảm bảo đời sống vật chất cho các thầy
cô giáo để họ yên tâm công tác là rất cần thiết, xây dựng cần kết hợp xây
dựng nhà tập thể cho giáo viên. Quy hoạch, sắp xếp các trường chuyên nghiệp
và dạy nghề nên tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Nghiên cứu thành lập một số trường và cơ sở đào tạo mới. Hiện đại, hệ
thống các trường đại học và cao đẳng đã đáp ứng các yêu cầu đào tạo các cử
nhân kinh tế, cử nhân khoa học xã hội và các kỹ sư, bác sĩ. Vì vậy, trước mắt,
việc thành lập các trường dạy nghề, các trường đào tạo các bộ kỹ thuật...
những đối tượng đang thiếu hụt lớn.


16


Củng cố và sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp và các cơ sở
dạy nghề hiện có. Việc củng cố, sắp xếp các trường chuyên nghiệp hiện có
theo hướng tập trung quản lý đào tạo và nâng cao năng lực đào tạo trên các
mặt như: Đội ngũ giáo viên, giáo trình, bài giảng và cơ sở vật chất cho quá
trình đào tạo. Ngoài các cơ sở đào tạo và dạy nghề do các tỉnh quản lý, trên địa bàn một số tỉnh còn
có một số trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề của trung ương đóng tại địa phương.

Liên kết nghiên cứu ứng dụng và chuyến giao tiến bộ kỹ thuật trực tiếp
vào sản xuất. Đây là hướng gắn trực tiếp đào tạo với thực tế. Hướng này có
phạm vi áp dụng rộng, tính khả thi cao và hiệu quả.
2.5 Một số giải pháp khác
Nhà nước cần có cơ chế và chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn
đầu tư trong và ngoài nước vào các chương trình và dự án, tạo thêm việc làm,
thu hút lao động nông thôn. Ưu tiên các dự án phát triền cơ sở hạ tầng nông
thôn, công nghiệp nông thôn, chuyên giao công nghệ, đào tạo cán bộ công
nhân lành nghề, cơ giới hoá và hiện đại hóa nông nghiệp, phát triền kinh tê - xã hội. Nhà
nước có chính sách miễn thuế, giảm giá thuế đất, các loại thuế, phí và đơn giản hoá các thủ tục trong
các khâu thẩm định, xét duyệt và triển khai các dự án đầu tư đó nhằm khuyến khích bằng lợi ích vật
chất các chủ đầu tư. Các chương trình và dự án bàng nguồn vốn ngân sách và vốn viện trợ không hoàn
lại của nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
Đối với phương pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải pháp hữu ích
cho vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông dân là xây dựng mới các trung tâm công nghiệp
chế biến và dịch vụ thương mại trên địa bàn nông thôn với quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ cao để
một mặt thu hút lao động nông nghiệp qua đó bồi dưỡng và nâng cao tay nghề của nông dân, mặt khác
gắn công nghiệp với vùng nguyên liệu một cách tự giác, có hiệu quả. Các mô hình công nghiệp mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá, gạo xuất khẩu ở nông trường Sông Hậu cần Thơ...


17


KẾT LUẬN

Nông thôn là khu vực tập trung đông dân cư (chiếm khoảng 80% dân số
cả nước) chủ yếu làm nghề nông. Có địa bàn rộng bao quanh thành thị, là nơi
hoạt động chủ yếu của ngành sản xuất vật chất nông lâm ngư nghiệp, nơi bảo
tồn và lưu trữ các di sản văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống, lễ hội
đồng thời cũng là những điểm nghỉ ngơi, giải trí, du lịch sinh thái hấp dẫn.
Tuy nhiên ở những vùng này còn một số mặt thấp kém về trình độ văn hoá,
khoa học và công nghệ.
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là xu thế tất yếu của các
vùng miền trong cả nước, song có những bước đi khác nhau tuỳ thuộc vào
đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hoá, kinh tế xã hội, và trình độ dân trí...Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn ở nước ta cần kết
hợp chặt chẽ các yếu tố, trong đó yếu tố đào tạo nguồn nhân lực để đón đầu
các bước phát triển là rất quan trọng đặc biệt trong việc đảm bảo thành công
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp cho việc chặn lại dòng di dân từ nông
thôn ra thành thị.
Công nghiệp hoa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thực chất là phát triển nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá đế đạt mục tiêu đa dạng hoá nền kinh tế và ngành nghề lao động, tạo ra ngành
nghề mới trên cơ sở ứng dụng khoa học và công nghệ tiến bộ, nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư
thừa ở nông thôn theo hướng sử dụng hợp lý lực lượng sẵn có và đào tạo nguồn nhân lực mới thích ứng,
qua đó góp phần nâng cao thu nhập mức sống và xoá đói giảm nghèo.

Vì vậy, việc nghiên cứu

giải quyết việc làm ở nông thôn hiện nay đối với Đảng và nhà

nước ta là vấn đề cấp thiết, có giải quyết được công ăn việc làm cho nông dân thì cuộc sống của họ mới
được nâng cao, từ đó thúc đẩy họ tập chung sản xuất tạo ra nhiều của cải cho xã hội, là tiền đề giúp cho

đất nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông
thôn - thực trạng và giải pháp", Nxb CTQG, Hà Nội 2005.
2. Hoàng Ngọc Hòa: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Nxb CTQG, Hà Nội 2008.


18

3. Lê Quang Phi: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới ”, Nxb CTQG, Hà Nội 2007.
4. "Một số vấn đề về thị trường lao động", Nxb KHKT, Hà Nội 2003.
5. "Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam", Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 2003.
6. "Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống người lao động ở
Việt Nam hiện nay", Nxb Lao động, Hà Nội 2004.
7. Nguyễn Sinh: “Nhìn lại nông nghiệp Việt Nam sau một năm vào Tổ
chức Thương mại Thế giới”, Tạp chí Cộng sản số 3 (2008).
8. Phạm Đức Chính: “Thị trường lao động - cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
9. “Thị trường lao động Việt Nam - thực trạng và các giải pháp phát
triển", Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội 2003.
10 "Việc làm ở nông thôn - thực trạng và giải pháp", Nhà xuất bản,
Nông nghiệp, Hà Nội 2001.
11. "Vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn lao động theo vùng và hướng
giải quyết việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Nxb Thống kê, Hà
Nội 2003….................




×