Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế TRI THỨC và sự tác ĐỘNG của nó tới QUỐC PHÒNG AN NINH ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.2 KB, 13 trang )

BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC

KINH TẾ TRI THỨC VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA

ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH NƯỚC TA
HIỆN NAY


KINH TẾ TRI THỨC VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH NƯỚC TA HIỆN NAY
Kinh tế tri thức mới xuất hiện cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại của những thập niên gần đây. Sự ra đời và phát
triển kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đến mội quốc gia dân tộc, mọi hoạt động
xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta gắn liền với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển nền quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân đang phải đối mặt trực tiếp với những thuận lợi và khó khăn
của sự phát triển kinh tế tri thức. Nghiên cứu kinh tế tri thức và tác động của nó
đói với quốc phòng – an ninh nước ta hiện nay có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và
thực tiễn.
Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức đánh dấu bước nhảy vọt về chất của lực
lượng sản xuất. Bước nhẩy vọt về chất này biểu hiện ở việc tri thức khoa học
xâm nhập sâu sắc vào mọi lĩnh vực, quy trình sản xuất, cách mạng hoá lực lượng
sản xuất. Tri thức trở thành đối tượng khai thác của nền kinh tế. Với một quốc
gia, một dân tộc mà khai thác được nhiều tri thức, trí tuệ thì có lợi thế trong cạnh
tranh về kinh tế, tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học xâm
nhập vào quy trình sản xuất, tạo ra sự hợp lý tối đa của công tác tổ chức sản
xuất. Sự hợp lý này, cho phép hạn chế thấp nhất sức lao động thừa của con
người, công suất của máy móc trong sản xuất. Điều đó không chỉ trong một chu
trình sản xuất, mà còn trong toàn xã hội, cả thế giới Sự hợp lý này là thước đo
của trình độ phân công lao động xã hội ở trình độ cao. Kinh tế tri thức còn làm
cho giá trị hàng hoá được đo chủ yếu bằng chất sám.
Trong bối cảnh kinh tế tri thức phát triển, Việt Nam trên con đường tiến lên


tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức, coi đó là điều kiện cơ bản bảo đảm cho sự
thắng lợi của cách mạng nước ta hiện nay. Tính tất yếu đó được luận chứng trên
cơ sở là sự phát triển kinh tế tri thức càng thúc đẩy quá trình quốc tế hoá đời sống
kinh tế, nó không cho phép một quốc gia dân tộc nào tách rời quỹ đạo đó. Hiện
nay, một dân tộc đóng cửa là hinh thức tự sát toàn dân tộc. Phát triển kinh tế tri
thức là điều kiện để nước ta hội nhập được với quốc tế trong sự phân công lao

2


động quốc tế và để phát triển; là động lực phát triển kinh tế và nâng cao chất
lương nguồn nhân lực Việt Nam; là tiền đề cơ bản nâng cao vị thế Việt Nam và
tiến vững chắc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù phát triển kinh tế
tri thức vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, nhưng không cho phép lé trách
sự phát triển này. Như vậy, kinh tế tri thức hiện nay tác động sâu sắc đến tất cả các
quốc gia, dân tộc, các hoạt động và quá trình xã hội. Nước ta nói chung và vấn đề
quốc phòng – an ninh nói riêng cũng đang phải chịu tác động sâu sắc, toàn diện
của kinh tế tri thức.
Quốc phòng - an ninh ở nước ta hiện nay là vấn đề liên quan đến bảo về
Tổ quốc, thực hiện ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội…Nước ta hiện nay
đang diễn ra quá trình phát triển nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh
nhân dân, chiến đấu trong khu vực phòng thủ, quân đội là lực lượng nòng cốt
,dưới sự lãnh đạo của đảng…Đó là những vấn đề có tính quy luật của bảo vệ tổ
quốc hiện nay. Với một qúa trình khó khăn, phức tạp như quốc phòng - an ninh
càng chịu sự tác động to lớn của kinh tế tri thức. Sự tác động đó vừa có thuận lợi
, vừa có khó khăn, vừa tích cực, vừa có tiêu cực. Nó được biểu hiện trên một số
nội dung sau:
Thư nhất, kinh tế tri thức đã cách mạng hoá vũ khí trang bị quân đội
Đế quốc làm cho xây dựng nền quốc phòng ở nước ta phải có nội dung mới
để sẵn sàng đối phó thắng lợi với cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí

công nghệ cao
Nền kinh tế tri thức phát triển đã đem lại những kỳ diệu trong lĩnh vực
khoa học, chứng minh trình độ nhận thức, khả năng chinh phục tự nhiên của con
người là vô cùng to lớn. Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, kinh
tế tri thức được áp dụng trước hết vào lĩnh vực quân sự. Hàng loạt các loại vũ khí
tối tân, hiện đại ra đời khẳng định khả năng huỷ diệt đối phương vô cùng lớn.
Các thế hệ vũ khí hiện đại liên tiếp thay thế nhau một cách công khai. Các nước
lớn trên thế giới muốn khẳng định thế mạnh của mình thông qua việc chinh phục
vũ trụ. Chỉ thông qua Trung Quốc thực hiện thành công phóng tầu vũ trụ có
người lái Thần Châu V và VI đã làm cho Mỹ và Nga phải thay đổi chiến lược bố

3


phòng. Trên bầu trời gần như dầy đặc những trang bị phục vụ cho thăm dò, do
thám lẫn nhau, đe doạ nhau. Trên mặt đất, các nước cũng phải liên tục xây dựng,
bố phòng, luyện quân …thể hiện sức mạnh trong phòng thủ đất nước. Trên biển
tưởng như là tĩnh lặng, nhưng bên dưới các nước lớn cũng đang có những con
tầu ngầm thi nhau về tốc độ, trình độ lặn dài hơi và phát huy khả năng công
dụng. Toàn bộ những cái đó, chứng minh kinh tế tri thức làm cách mạng hoá vũ
khí trang bị quân sự nhanh chóng. Hậu quả của sự ra đời liên tiếp các thế hệ mới
về cũ khí trang bị ở các nước lớn đã tác đông sâu sắc đến phòng thủ, xây dựng
nền quốc phòng, an ninh ở nước ta.
Một vấn đề đặt ra là, với cơ bản vũ khí hiện có làm thế nào có thể bảo vệ
vững chắc Tổ quốc trong điều kiện có những đặc điểm mới và phải sẵn sàng đối
phó thắng lợi cuộc chiến tranh xâm lược vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế
quốc. Như vậy, xây dựng nền quốc phòng ở nước ta hiện nay phải hoàn thiện
khu vực phòng thủ; phát triển chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân; Phải
xây dựng quân theo mô thức là lực lượng nòng cốt, thực hiện tốt chức nằng của
đội quân công tác, tuyên truyền. Bên cạnh phải có chiến lược phát triển vũ khí

tối tân, hiện đại một cách phù hợp. Đây là một sự điều chỉnh có tính căn bản khi
kinh tế tri thức phát triển.
Kinh tế tri thức cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
phát triển mà chủ nghĩa đế quốc đã tận dụng được thành tựu làm cho nó thích
nghi, điều chỉnh, trong khi chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Liện Xô sụp đổ.
Kinh tế tri thức đã tạo ra hậu thuẫn có lợi cho chủ nghĩa đế quốc trong phát triển
chiến lược diễn biến hoà bình chống chủ nghĩa xã hội và bất lợi cho chủ nghĩa xã
hội. Điều đó làm cho bảo vệ tổ quốc có nội dung mới , bảo vệ tổ quốc không chỉ
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, mà còn bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị , an ninh
chính trị

4


Thứ hai, Kinh tế tri thức cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho
quốc phòng - an ninh và quân đội.
Kinh tế tri thức phát triển làm cho con người, người lao động được đào tạo
cơ bản hơn. Quá trình tri thức hoá cong nhân, người lao động diễn ra trong toàn
xã hộị. Trong khi xã hội lại là nới cung cấp nhân lực cho quân đội và tổ chức
quốc phòng. Thực chất kinh tế tri thức đã tạo cho nguồn nhân lực cho quốc
phòng an ninh có trình độ tri thức cao.
Phát triển kinh tế tri thức, nền quốc phòng - an ninh và quân đội có điều
kiện tri thức hoá ngày càng cao. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa nếu xảy ra trong tương lai, chúng ta sẽ phải đối phó với kẻ thù có tiềm lực
kinh tế; tiềm lực khoa học – công nghệ; tiềm lực quân sự hùng mạnh, được trang
bị vũ khí - phương tiện kỹ thuật hiện đại, tinh xảo hơn ta rất nhiều lần. Đây cũng
là cuộc đọ sức về trình độ trí tuệ và tri thức cao giữa các bên tham chiến. Từ đó
đặt ra yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực của quân đội trong bối
cảnh mới. Mỗi cán bộ, chiến sĩ không chỉ có tinh thần cách mạng, bản lĩnh chính
trị vững vàng, ý trí kiên cường, lòng dũng cảm vô song, thể lực dẻo dai khoẻ

mạnh, tâm lý bền vững mà còn phải giàu chất trí tuệ, hiểu biết sâu sắc tri thức
khoa học, nghệ thuật quân sự hiện cảnh, có khả năng làm chủ vũ khí trang bị
hiện đại, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
trong điều kiện chiến trang hiện đại, kẻ thù sử dụng vũ khí công nghệ cao. V.I.
Lênin từng chỉ rõ: Cuộc chiến tranh hiện đại đòi hỏi phải có con người có chất
lượng cao cũng như cần phải có kỹ thuật hiện đại.
Phát triển kinh tế tri thức tạo ra nguồn nhân lực bậc cao dồi dào, nghĩa là
nguồn nhân lực có tri thức cao, làm chủ khoa học - công nghệ hiện đại, tư duy
năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì sự phồn vinh của đất nước. Theo đó,
quân đội có điều kiện tuyển chọn nguồn nhân lực này cho phù hợp với hoạt động
đặc thù quân sự.
Quá trình phát triển kinh tế tri thức, khoảng cách phát triển giữa nước ta
với khu vực và thế giới được thu hẹp, sản phẩm hàng hoá và nền kinh tế đất
nước ngày càng có ưu thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế, đời sống của

5


con người lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao. Những chuyển
biến tích cực trong đời sống kinh tế - xã hội tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến
đời sống vật chất, tinh thần của quân nhân và gia đình họ. Điều đó, có sức mạnh
thuyết phục, cổ vũ to lớn đối với cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; làm tăng thêm
lòng tin, sự gắn bó với Đảng, với chế độ, nhiệt tình và trách nhiệm cao trong
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ lúc thời bình cũng như thời chiến tranh;
tích cực xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt. Như vậy, phát triển kinh tế
tri thức vừa trực tiếp, vừa gián tiếp chi phối đến chất lượng và số lượng nguồn
nhân lực cung cấp cho quốc phòng- an ninh và quân đội, góp phần nâng cao sức
mạnh nền quốc phòng - an ninh , chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu của quân đội.
Thứ ba, kinh tế tri thức làm cho khoa học - kỹ thuật quân sự đáp ứng

yêu cầu của chiến tranh công nghệ cao.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…công
nghệ năng lượng mới…không chỉ xâm nhập mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, mà còn thúc đẩy vũ khí công nghệ cao ra đời. Vũ khí công nghệ cao
xuất hiện góp phần quan trọng làm thay đổi hình thái và phương thức tiến hành
chiến tranh hiện đại.
Hiện nay, một số ngành công nghệ cao ở Việt Nam đang hình thành và có
những bước tiến đáng khích lệ. Vai trò và sự đóng góp của nó đối với tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội ngày càng to lớn. Theo đó, nền khoa học kỹ
thuật quân sự nước ta từng bước được phát triển theo hướng hiện đaị, cải tiến,
nâng cấp các trang thiết bị và vũ khí hiện có, đồng thời đi vào nghiên cứu chế
tạo vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại, bảo đảm cung cấp cho quân đội đáp
ứng quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân
vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ngày nay, việc tăng cường
trang thiết bị kỹ thuật và vũ khí hiện đại cho quốc phòng- an ninh và quân đội trở
thành nhu cầu bức thiết, luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Nghị
quyết Đại hội Đảng IX khẳng định: “Đầu tư thích đáng cho công nghiệp quốc

6


phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội, công an” 1. Chủ trương này không
những đáp ứng nhu cầu đổi mới vũ khí trang bị để hiện đại hoá lực lượng vũ
trang, quân đội, mà còn đáp ứng yêu cầu đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
bằng vũ khí công nghệ cao mà các thế lực thù địch có thể tiến hành đối với nước
ta.
Phát triển kinh tế tri thức sẽ đẩy nhanh sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực đời
sống kinh tế - xã hội, nhờ đó có điều kiện tốt hơn để đầu tư phát triển khoa học- công
nghệ quấn sự, nhanh chóng tiếp cận với trình độ công nghệ tiên tiến của khu vực và thế

giới , tạo ra những biến đổi cơ bản trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng đời sống của bộ đội và nhân dân.
Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho công tác quản
lý, chỉ huy bộ đội, quản lý vũ khí, khí tài và các phương tiện kỹ thuật quân sự đạt
chất lượng và hiệu quả cao hơn. Kinh tế tri thức phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội từng bước được xây dựng theo hướng hiện đại và đồng bộ, hệ thống bưu
chính viễn thông không ngừng phát triển, mạnh Intểnt được sử dụng rộng trong
đời sống kinh tế - xã hội. Hệ thống giao thông vận tải: đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường không được mở rộng, có sự liên kết chặt chẽ các vùng miền
của đất nước cũng như các nước trong khi vực và thế giới. Cơ sở hạ tầng xã hội
như: y tế, văn hoá, các trung tâm giáo dục - đào tạo, các viện nghiên cứu khoa
học, các khu công nghệ cao cũng từng bước phát triển. Toàn bộ hệ thống cơ sở
hạ tần kinh tế - xã hội đó vùa thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế tri thức, vừa
phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội trong thời
bình và cả trong thời chiến.
Thứ tư, kinh tế tri thức tác động đến xây dựng nền công nghiệp quốc
phòng hiện đại.
Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và xây
dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đặt
ra nhu cầu cần phải được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật công nghệ cao.
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta sẽ tạo cơ hội thuận lợi để xây dựng một nền
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 119.

7


công nghiệp quốc phòng hiện đại, đáp ứng yêu cầu đó, đồng thời phục vụ trực
tiếp cho nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội;

thoả mãn các yêu cầu của quân đội về huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công tác
trong thời bình và phần lớn nhu cầu hoạt động quân sự khi chiến tranh xảy ra
(sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng,
vũ khí, phương tiện kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của lực lượng vũ trang
nói chung, quân đội nói riêng).
Thông qua quá trình tham gia vào thị trường vũ khí và các sản phẩm quân
sự trong khu vựcvà thế giới, công nghiệp quốc phòng nước ta có điều kiện tiếp
thu, cải tiến, nâng cấp công nghệ, hướng xa hơn là sáng tạo ra công nghệ hiện
đại. Các sản phẩm quân sự của ta có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh ở thị
trường quốc tế, đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách quốc gia. Với nguồn
thu này, có thể tái trang bị cho quân đội các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật
hiện đại hơn và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự.
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế tri thức cũng có những tác động
tiêu cực đến quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội.
Sự phát triển của kinh tế tri thức làm tăng thêm khoảng cách giữa các vùng,
miền; gia tăng sự chênh lệch về thu nhập và mức sống của các tầng lớp nhân dân
ảnh hưởng đến quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội về nhiều mặt.
Thực tế cho thấy, ở các đô thị và thành phố lớn có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và dịch vụ tốt hơn, tập trung nhiều cơ sở đào tạo nhân lực, nhiều trung
tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ của đất nước, nhiều doanh nghiệp trong và
ngoài nước sản xuất kinh doanh sản phẩm thuộc các lĩnh vực công nghệ cao. Do
đó, thu hút được nhiều nhân lực bậc cao, lao động có tri thức; có điều kiện phát
triển nhanh và mạnh mẽ hơn so với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Sự
cách biệt về khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền tác động ảnh hưởng đến
việc bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật, lương thực, thực phẩm, huy động nguồn
nhân lực bậc cao để thực hiện yêu cầu xây dựng và sẵn sàng chiến đấu của quân
đội nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo hoặc trong những nhiệm vụ đòi
hỏi sự hy sinh, gian khổ sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại.

8



Phát triển kinh tế tri thức, khoảng cách thu nhập giữa những người giàu và
người nghèo trong xã hội ta ngày càng tăng lên. Xu thế phân hoá giàu nghèo và
tính chất khá phức tạp của cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi, sẽ tác động đến nhận
thức, tư tưởng, lối sống trong nhân dân cũng như trong quân đội. Hàng năm, có
một lực lượng lớn thanh niên thuộc nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội nhập ngũ,
phục vụ trong quân đội. Về mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức chính trị cũng như
hành động cách mạng trong lực lượng thanh niên này có sự khác biệt không nhỏ,
gây nhiều khó khăn và ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng quân đội về
chính trị. Mặt khác, sự phân hoá trên cũng ảnh hưởng xấu đến xây dựng kỷ luật
tự giác nghiêm minh, xây dựng niềm tin và ý trí sắt đá của cán bộ, chiến sĩ trong
quân đội. Thực trạng đó tác động bất lợi đến sức mạnh chiến đấu và khả năng
hoàn thành nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới.
Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
và công nghệ sinh học có thể làm gia tăng sự mất ổn định về an ninh của đất
nước, đặt quân đội trước nhiệm vụ phức tạp hơn.
Bởi vì, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, các hình thức quảng
bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, giao dịch mua - bán, kinh doanh trên
mạng diễn ra ngày càng phổ biến hơn. Đây là mặt tích cực, song cũng là điều
kiện cho kẻ xấu lợi dụng kỹ thuật cao để kiếm lợi bất chính, lừa đảo khách
hàng bằng cách bán hàng xấu, hàng giả; lập các công ty ma để ky kết hợp
đồng kiếm lợi của đối tác, bạn hàng; hoặc chúng còn vượt qua “hàng rào” bảo
vệ, hệ thống mật của máy tính cá nhân, máy chủ của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế để lấy cắp tư liệu và tiền bạc. Từ đó đặt an ninh kinh tế đứng
trước những thách thức và khó khăn mới.
Mạng Internet trải rộng khắp toàn cầu, nó chứa đựng một khối lượng tri
thức khổng lồ và đa dạng, ngoài dung lượng lớn về thông tin hữu ích còn xuất
hiện nhiều thông tin xấu độc, nhiều trò chơi, phim ảnh bạo lực, đồi truỵ( sex
games) gây tác hại không nhỏ đến đạo đức, lối sống, tư tưởng của nhân dân và
cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.


9


Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mạng Internet để gieo rắc, tuyên truyền
nhiều thông tin xấu chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ lãnh tụ. Phát tán thông tin trên mạng dưới
chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “dân tộc”, “tôn giáo” để nhằm quốc hoá các vấn
đề nội bộ của ta; lôi kéo, kích động các phần tử bất mãn chống đối cách mạng. Một
số kẻ khác vì lợi ích cá nhân dẫn đến sự “rò rỉ” , “thất thoát” các thông tin, bí mật
về kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng của đất nước và quân đội, làm hại đến
an ninh quốc gia. Lợi dụng kỹ thuật cao, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ
hội có thể thu thập, đánh cắp thông tin trên đường truyền hệ thống mạng và hệ
thống máy tính của các cơ quan, các tổ chức trong và ngoài quân đội; hoặc có thể
gây hỏng hóc, rối loạn hệ thống mạnh và hệ thống thông tin liên lạc của ta trong
thời bình, thời chiến.
Cùng với nguy cơ mất an ninh mạng là nguy cơ kẻ xấu lợi dụng thành tựu
của công nghệ sinh học, tạo ra các loại vũ khí sinh học để tiến hành các hoạt
động chống phá nước ta. Sự phát triển của khoa học- công nghệ là điều kiện
thuận lợi để hiện đại hoá quốc phòng – an ninh và quân đội, song trước sự chống
phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch, cũng đặt ra cho quân đội nhiều
yêu cầu nhiệm vụ mới cao hơn, phức tạp hơn.
Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thê lực
thù địch đang lợi dụng ưu thế về kinh tế tri thức để can dự xâm nhập, khống chế các
nước khác trong đó có Việt Nam. Chúng luôn tìm cách lợi dụng tiềm lực kinh tế,
tiềm lực khoa học - công nghệ và quân sự hùng mạnh, thông qua hợp tác phát triển
kinh tế, khoa học - công nghệ để thực hiện chính sách can dự, xâm nhập, khống chế
và chuyển hoá đối với nước ta. Bằng các trương trình hợp tác về khoa học - công
nghệ hỗ trợ đầu tư, chuyển giao - xuất khẩu công nghệ kết hợp với xuất khẩu tư bản
để xâm nhập, khống chế, buộc ta phải lệ thuộc vào công nghệ, lệ thuộc vào kinh tế,

từ đó lệ thuộc vào chính trị; lôi cuốn nước ta vào vòng xoáy của chủ nghĩa tư bản,
Thời gian qua, chúng ta đã phát hiện có trường hợp gián điệp nước ngoài lợi dụng
hình thức hợp tác khoa học- công nghệ, hợp tác kinh tế, hoặc giả danh nhà khoa học
tham gia các cuộc hội thảo khoa học nhằm khai thác thông tin, tài liệu mật của ta

10


phục vụ cho lợi ích của chúng. Do vậy, phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng - an
ninh và xây dựng quân đội; kết hợp giữa lợi ích kinh tế từng doanh nghiệp, từng địa
phương với lợi ích của cả quốc gia, không chủ quan, ảo tưởng.
Để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những khó khăn, thách thức
của quá trình phát triển kinh tế tri thức đến củng cố quốc phòng – an ninh và xây
dựng quân đội trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả
các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, kịp thời bắt nhịp với mỗi bước tiến của kinh tế tri thức để có phương
hướng, biện pháp phù hợp trong xây dựng và phát triển nền quốc phòng ở nươc ta
hiện nay. thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về sự kết hợp giữa phát triển kinh
tế tri thức với củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội trong thời kỳ
mới. Bởi vì, kinh tế tri thức còn là vấn đề mới mẻ, không phải tất cả mọi người,
mọi tổ chức trong xã hội đều nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó, cũng như mối
quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế tri thức với quốc phòng – an ninh và xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Vì vậy, phải tuyên truyền, giáo dục thường xuyên, sâu rộng, nhằm tạo ra
sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức tư tưởng và hành động, tạo ra sự đồng
thuận cao trong toàn xã hội.
Hai là, Chủ động xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển kinh tế tri thức
gắn với chiến lược quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội, giải phóng mọi
năng lực sản xuất và sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh

tế và củng cố quốc phòng – an ninh. Bởi vì, để phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi
phải xây dựng một chiến lược tổng thể, một kế hoạch và chính sách đồng bộ ở tầm
vĩ mô, mang tính lâu dài, xác định rõ mục tiêu, nội dung cơ bản, giải pháp chủ yếu
phát triển kinh tế tri thức; gắn chặt chiến lược phát triển kinh tế tri thức với quốc
phòng – an ninh và xây dựng quân đội trong thời kỳ mới.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực bậc cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
tri thức và củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội trong tình hình
mới. Phải tiến hành cải cách sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đồng thời,

11


xây dựng một xã hội học tập, đi liền với mở rộng quy mô và cách thức là nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo, liên thông và gắn bó chặt chẽ giữa giáo dục - đào
tạo dân sự với quân sự tạo nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế tri thức
gắn với quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội.
Bốn là, nâng cao năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ, tập trung phát
triển các ngành công nghệ cao để phát triển kinh tế tri thức, hiện đại hóa quốc phòng
– an ninh và quân đội. Bởi vì, năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ của nước ta
tuy đã có bước cải thiện, song nhìn chung còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức, hiện đại hóa quốc phòng – an ninh. Vì vậy, phải nhanh chóng xây
dựng và phát triển các lĩnh vực như: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và
triển khai công nghệ, chuyển giao và cải tiến công nghệ từ nước ngoài. Đồng thời
nhanh chóng phát triển các ngành công nghệ cao của đất nước, tạo đà cho sự phát
triển toàn bộ nền kinh tế và hiện đại hóa quốc phòng – an ninh và quân đội.
Năm là, phát huy vai trò của quân đội trong phát triển kinh tế tri thức, kết hợp phát
triển kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội. Bởi vì, quân
đội là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường hòa bình,
ổn định cho quá trình phát triển kinh tế tri thức. Quân đọi phải chủ động phối hợp với các
cấp, các ngành và địa phương trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy

hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, thẩm định các dự
án đầu tư trong và ngoài nước. Đồng thời, tích cực tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất
nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức; tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh ở
các lĩnh vực công nghệ cao nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách quốc phòng.
Kết luận. kinh tế tri thức là vấn đề mới mẻ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc vấn đề
này có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần giải đáp những vướng mắc trong nhận thức và
hành động trước một số vấn đề về kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Phát triển kinh tế tri
thức tất yếu tác động đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội trong đó có quốc
phòng – an ninh và quân đội. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế tri thức đến củng
cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội diễn ra nhiều chiều, cả tác động tích cực và
tác động tiêu cực, cả thuận lợi và khó khăn, thách thức”

12


13



×