Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
VIỆC SỬ DỤNG VỐN FDI TRONG
NGÀNH CÔNG NGHIỆP – XÂY DỰNG Ở NƯỚC TA
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 07/11/2006 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
Thương mại thế giới, kết thúc 11 năm đàm phán gia nhập. Từ đây tuy phải đối mặt
với không ít thách thức những chúng ta cũng có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để
thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Một trong những thuận lợi lớn nhất là vốn
đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Các dòng vốn này đã mang lại một luồng sinh khí
mới cho kinh tế nước ta, góp phần không nhỏ trong việc tạo ra diện mạo mới cho
đất nước, tiêu biểu là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Riêng với ngành công nghiệp – xây dựng, xuất phát từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, bị chiến tranh kéo dài tàn phá nên cơ sở hạ tầng cũng
như trình độ công nghệ kĩ thuật còn rất yếu kém. Khi đó, vốn FDI đi kèm với sự
chuyển giao công nghệ mới chính là một cơ hội rất tốt để ngành này có thể phát
triển, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, sớm đạt tới mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, nguồn vốn này cũng tiềm ẩn
nhiều tác động tiêu cực đến kinh tế, xã hội, môi trường… ở nước ta, đòi hỏi chúng
ta trong khi tích cực thu hút vốn đầu tư vẫn phải sáng suốt có những quy định hợp
lý để hạn chế và ngăn chặn những tác động xấu đó. Tiểu luận sau xin được trình bày
khái quát về những tác động tích cực cũng như tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến
ngành công nghiệp – xây dựng ở nước ta, tìm hiểu nguyên nhân, từ đó đề ra những
biện pháp khắc phục.
1
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (FDI)
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment) là hình thức
đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập
cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản
lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
2. Đặc điểm và hình thức của FDI
2.1.Đặc điểm
• Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự
án đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định.
• Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý dự án mà họ bỏ vốn đầu
tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn của chủ
đầu tư trong vốn pháp định của dự án.
• Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia
cho các bên theo tỉ lệ góp vốn và vồn pháp định sau khi nộp thuế cho
nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
• FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp
mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động,
hoặc mua cổ phiếu để thôn tính, hoặc sát nhập các doanh nghiệp với
nhau.
• Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi
nhuận.
• Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập
kinh doanh chứ không phải lợi tức.
• Mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc
về chính trị, không có gánh nặng về nợ nần cho nền kinh tế nước nhận
đầu tư
• FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận
đầu tư.
2.2. Hình thức
Theo xu hướng thế giới hiện nay, hoạt động FDI diễn ra chủ yếu dưới các
hình thức:
- Hình thức doanh nghiệp Liên doanh
- Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Đầu tư theo hợp đồng BOT.
2
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
- Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company).
- Hình thức công ty cổ phần.
- Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài.
- Hình thức công ty hợp danh.
- Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A).
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
3.1.Các nhân tố liên quan đến chủ đầu tư
Lợi thế độc quyền riêng (lợi thế gắn với quyền sở hữu) : Các lợi thế này
được chia thành 3 nhóm cơ bản : kiến thức/công nghệ, giảm chi phí nhờ hoạt
động với qui mô lớn (lợi thế quản lý chung), lợi thế độc quyền tập trung vào
công ty đa quốc gia.
Lợi thế về nội bộ hóa
3.2.Các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư
Các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm: Tham
gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư hoặc có liên
quan đến đầu tư, Chính phủ đứng ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở
nước ngoài, ưu đãi thuế và tài chính, khuyến khích chuyển giao công nghệ,
trợ giúp tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin và trợ giúp kĩ thuật.
Các biện pháp hạn chế đầu tư: hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài, hạn chế
bằng thuế, hạn chế tiếp cận thị trường, cấm đầu tư vào một số nước.
3.3.Các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư
Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, bao gồm các quy định liên
quan trực tiếp đến FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI
Các yêu tố môi trường kinh tế: các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị
trường, các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản, các chủ đầu tư
tìm kiếm hiệu quả.
Yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh
3.4. Các nhân tố của môi trường quốc tế
Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn
định hay không, có thuận lợi hay không thuận lợi cho nước chủ đầu tư và nước
nhận đầu tư cũng như cho chính phủ đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước
ngoài.
3
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
4
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG VỐN FDI TRONG
NGÀNH CÔNG NGHIỆP – XÂY DỰNG
1. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI
1.1.Số vốn FDI đăng kí và thực hiện
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Giai đoạn 2007-2008: Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO
các chính sách ngoại thương cởi mở hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư, nhờ đó thu hút được một lượng lớn FDI vào trong nước, đưa Việt Nam lọt vào
top 10 nền kinh tế hấp dẩn vốn đầu tư FDI nhất. Năm 2007 đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam là 21,348 tỷ USD; đến năm 2008 vốn FDI đạt kỷ lục trên 64 tỷ
USD với 1171 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Mức vốn FDI thực hiện
cũng có tăng trưởng từ năm 2007 là 8 tỷ USD lên 11,5 tỷ USD (cao nhất trong hơn
20 năm qua) trong năm 2008.
G iai đoạn 2009-2010 : Lượng vốn FDI vào Việt Nam trên thực tế vẫn tăng
khoảng 9,6%; vốn FDI đăng ký năm 2009, ước đạt 23,107 tỷ USD bằng 1/3 so với
năm 2008. Năm 2010 vốn đăng ký là 19,886 tỷ USD. Số vốn FDI thực hiện năm
2009 tuy chỉ đạt 10 tỷ USD, giảm khoảng trên 10% so với năm 2008 nhưng đây vẫn
là kết quả đáng khích lệ trong điều kiện vốn FDI quốc tế giảm nhiều và FDI của
nhiều nước trong khu vực giảm 20-30%. Đến năm 2010, vốn thực hiện tăng lên lại
10% là 11 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2011: đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là 12,697 tỷ
USD, bằng 84% so với cùng kỳ 2010 với mức vốn thực hiện vào khoảng 10,05 tỷ
USD. Cả nước có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài cấp phép mới trong 11 tháng của 2011, trong đó Hải Dương có số
vốn đăng ký lớn nhất với 2,498 tỷ USD, chiếm 25,2% tổng vốn đăng ký cấp mới;
tiếp đến Tp.HCM với 1,919 tỷ USD, chiếm 19,35%.
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
1.2.Cơ cấu FDI trong nền kinh tế theo khu vực kinh tế
Cơ cấu FDI theo khu vực kinh tế diễn biến phức tạp qua các năm nhưng nhìn
chung, từ năm 2007 đến nay, tỷ trọng khu vực nông – lâm – ngư nghiệp tăng từ
0,28% lên 0,77%, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng cũng tăng từ 56,9%
lên 78,7% trong khi tỷ trọng khu vực dịch vụ giảm từ 42,82% xuống còn 20,53%.
Ngoài ra, dựa vào số liệu trên, ta nhận thấy có sự phân hóa nguồn vốn FDI ở
các khu vực kinh tế. Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng, dịch vụ; trong khi ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ lệ vốn đầu tư
FDI rất thấp.
Bảng 1: Cơ cấu FDI theo khu vực kinh tế từ năm 2007 đến nay
5
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
Năm Nông – Lâm – Nghiệp (%) Công nghiệp – Xây dựng (%) Dịch vụ (%)
2007 0,28 56,9 42,82
2008 0,35 56,61 43,04
2009 0,58 22,4 77,02
2010 0,18 54,08 45,74
2011 0,77 78,7 20,53
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
2. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI trong ngành công nghiêp – xây
dựng
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Từ khi gia nhập WTO đến nay, lượng FDI đầu tư vào nhóm ngành công
nghiệp – xây dựng luôn chiếm tỷ trong lớn trong cơ cấu kinh tế (thường trên 50%,
chỉ trừ năm 2009 FDI đầu tư vào ngành này chỉ chiếm 22,4%). Công nghiệp chế
biến, chế tạo chiếm tỷ trọng vốn FDI lớn nhất trong các ngành công nghiệp nhưng
đã giảm dần qua các năm trong khi ngành tỷ trọng vốn đầu tư ngành công nghiệp
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí
tăng nhanh qua các năm từ 0,07% vào năm 2007 lên 25,29% vào năm 2011 (tính
đến tháng 11)
Bảng 3: Thay đổi trong cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng về tỷ trọng
vốn FDI qua các năm
Năm
Công nghiệp
chế biến, chế
tạo (%)
Sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hoà không khí (%)
Xây
dựng
(%)
Khai
khoáng
(%)
2007 89.58 0.08 8.18 2.16
2008 79.75 0.01 1.36 18.88
2009 76.18 3.55 12.6 7.67
2010 55.6 27.46 16.89 0.05
2011 62.45 25.29 11.95 0.31
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
3. Tác động của vốn FDI đến ngành công nghiệp
6
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
3.1. Tích cực
Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp,
góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Khu vực này trong
công nghiệp đã và đang phát triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng
nhanh hơn các khu vực khác. Điều này được thể hiện thông qua tỷ trọng của đầu tư
nước ngoài trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần từ 16,9% (1991) lên
23,65% (1995), lên tới 41,3% năm 2000 và 43,8% năm 2007, duy trì ở mức 42%
vào năm 2010 và đạt tỷ trọng lớn nhất trên 46% vào tháng 4 năm nay. Chất lượng
của các dự án FDI vào lĩnh vực công nghiệp đang có sự cải thiện rõ rệt. Có thêm
nhiều dự án quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại…
Việc đầu tư nước ngoài trong công nghiệp phát triển nhanh cũng đã tạo ra
một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi
mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Khả năng cạnh tranh của các ngành
công nghiệp cũng được nâng cao thông qua việc áp dụng các công nghệ, máy móc
và thiết bị sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến từ các dự án FDI, tạo
điều kiện ra đời và thay đổi diện mạo của nhiều ngành công nghiệp như khai thác
dầu khí, sản xuất, lắp ráp ôtô, điện tử và công nghệ thông tin, thiết bị kỹ thuật điện
và điện gia dụng, chế biến thực phẩm và đồ uống, các ngành công nghiệp xuất khẩu
chủ lực như dệt may, giày dép thu hút hàng hàng trăm ngàn lao động
Ngoài ra, đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp đã gián tiếp đào tạo
cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công
nghệ mới, cũng như các kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ.
Đặc biệt FDI đã tạo nên ngành nghề, sản phẩm mới: khai thác dầu khí, sản
xuất xe máy, điện tử - viễn thông… góp phần thỏa mãn nhu cầu trong nước cũng
như làm tăng năng lực ngành công nghiệp Việt Nam.
Một số dự án có quy mô, nguồn vốn lớn trong ngành công nghiệp và xây
dựng đăng ký trong năm 2010 là: Cty TNHH điện lực AES - TKV Mông Dương
(BQT nhiệt điện Mông Dương 2), với vốn đầu tư đăng ký trên 2 tỉ USD; Formosa
Plastics Group, một trong những tập đoàn công nghiệp lớn nhất Đài Loan dành 8 tỷ
USD xây dựng một nhà máy thép cácbon tại VN…; trong năm 2011 là: Dự án Nhiệt
điện BOT Hải Dương, với quy mô vốn 2,258 tỷ USD, diện tích đất sử dụng 400 ha
với công suất dự tính lên đến 1200 MW; Dự án sản xuất động cơ cho thiết bị vận
chuyển vật liệu, trục xe cho xe có động cơ, máy nâng có động cơ, máy nâng xếp, xe
kéo loại nhỏ của Công ty TNHH thiết bị công nghiệp TOYOTA Việt Nam, với tổng
vốn đầu tư đăng ký 25 triệu USD…
3.2. Tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn còn tồn tại những tiêu cực trong hoạt
động của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong ngành công nghiệp.
Đầu tư FDI vốn là nhằm chuyển giao công nghệ tiên tiến cho các nước phát
triển sau nhằm tạo điều kiện cho các nước này nhanh chóng thu hẹp chênh lệch với
các nước đi trước. Tuy nhiên, nếu việc chuyển giao công nghệ không được thực
hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu, khiến những lợi thế
tương đối của nước bắt đầu muộn sẽ bị tước bỏ trong khi nước tiếp nhận còn phải
7
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ lạc hậu này. Giai đoạn
2004-2009, hệ số TFP (hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp) của các khu vực kinh
tế nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp có FDI lần lượt là: 8,6; 3,1 và -17,6. “Như thế
nghĩa là ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, sự tăng trưởng chủ yếu nhờ các yếu tố
khác, ví dụ lao động rẻ mạt, chứ không phải do công nghệ. Trên thực tế, khảo sát ở
nhiều doanh nghiệp FDI cho thấy máy móc, công nghệ được đối tác nhập vào Việt
Nam đều cũ kỹ hoặc đã khấu hao hết” (Bùi Trinh, Cảnh cáo hiệu quả cảu FDI, Báo
điện tử Pháp luật Tp HCM, 04/3/2010
1
). Ngoài ra, tình trạng phụ thuộc một chiều
vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư cũng
làm hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không tương xứng với chi phí của nước chủ
nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường.
Cơ cấu vốn FDI vào ngành công nghiệp cũng có một số bất hợp lý, dẫn đến
hiệu quả kinh tế của khu vực đầu tư nước ngoài chưa cao: FDI tập trung chủ yếu
vào các khu công nghiệpở những địa phương có điều kiện thuận lợi (TP.Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Hà Nội, Bà rịa-vũng tàu…).
Ngoài ra, doanh nghiệpcó vốn FDI có thể kìm hãm các doanh nghiệp trong
nước bởi vì các doanh nghiệp này thường có công nghệ khoa học tiên tiến hơn, tính
hiệu quả cao hơn, dẫn đến giá thành có thể rẻ hơn và chất lượng lại được nâng cao.
Nếu các doanh nghiệp Nhà nước không có sự điểu chỉnh đúng đắn và hợp lý thì sẽ
bị “biến mất” trên thị trường.
Theo một báo cáo năm 2010 của Công ty Chứng khoán Artex, trong giai
đoạn 10 năm từ 1999 đến 2009, đặc biệt trong ba năm từ 2007 - 2009, đã đánh giá:
“Khu vực FDI kém hiệu quả nhất, hầu như các doanh nghiệp FDI đều lỗ”. Trong 10
năm, hệ số ICOR (đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để
đạt mức gia tăng một đơn vị sản lượng) của khu vực nhà nước, tư nhân và FDI lần
lượt là: 7,76; 3,54; và 7,91. Vậy Khối FDI có chỉ số ICOR cao nhất và điều đó
chứng tỏ hiệu quả là thấp nhất trong khi khối doanh nghiệp này vốn được kỳ vọng
sẽ thu hút lao động và chuyển giao công nghệ mới cho nền kinh tế.
Gần đây, còn có một bộ phận những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
sử dụng những hình thức rất tinh vi được gọi là “chuyển giá ” để trốn thuế. Chuyện
này thường xảy ra trong các công ty con đặt tại Việt Nam và công ty mẹ đặt tại
nước ngoài. Các cuộc điều tra cũng đã cho thấy, khi nhập hàng vào gia công, các
công ty con thường khai khống giá thành nguyên liệu nhập của công ty mẹ lên rất
cao và khai thấp đi giá bán hàng khi xuất; kê khai giá nhập thiết bị cao chót vót để
rồi hạch toán khấu hao lớn, làm tăng chi phí giá thành sản phẩm, dẫn đến việc trong
sổ sách chứng từ kế toán họ triền miên khai thua lỗ. Tổng cục Thuế vừa hoàn tất
báo cáo thanh tra doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có dấu
hiệu chuyển giá trong 9 tháng đầu năm 2011. Theo báo cáo, thanh tra 600 doanh
nghiệp thì 494 doanh nghiệp lỗ và có dấu hiệu chuyển giá, chiếm 90%.
1 />8
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
PHẦN 3: ĐIỂM QUA MỘT VÀI NGUYÊN NHÂN CHÍNH
Tình trạng thu hút vốn FDI suy giảm cũng như việc sử dụng không hiệu quả
nguồn vốn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan
1. Chi phí nguyên nhiên liệu tăng
Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng ,nhất là giá nguyên nhiên
liệu (giá điện,than,dầu khí tăng đáng kể sẽ ảnh hưởng đến giá thành và tính cạnh
tranh trong một số sản phẩm).
Thời gian gần đây, giá điện và xăng tăng liên tục. Giá điện năm 2011 tăng từ
1.058 đồng mỗi kWh lên 1.220 đồng mỗi kWh bắt đầu từ 1/3/2011 và mới đây nhất
, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lại thông báo điều chỉnh giá điện bình quân
tăng 5% so với giá bán hiện hành.Theo đó, giá bán điện bình quân sẽ tăng 62 đồng/
từ 1.242 đồng/kWh lên 1.304 đ/kWh bắt đầu từ 20/12/2011. Bên cạnh đó, giá xăng
cũng tăng nhanh không kém với mức tăng 2.900 đồng/lít, lên 19.300 đồng/lít vào
ngày 24/2/2011 và ngay sau đó vào ngày 29/3/2011 lại tiếp tục tăng 2.000 đồng một
lít, loại A92 từ 19.300 lên 21.300 đồng/lít. Mặc dù có giảm nhẹ vào cuối tháng 8
nhưng nhìn chung giá xăng vẫn khá cao. Sự tăng giá nguyên nhiên liệu đầu vào ảnh
hưởng hưởng lớn đến sức cạnh tranh của sản phẩm nhất là trên thị trường thế giới.
2. Thủ tục phức tạp, hoạt động quản lý chưa hiệu quả
Việt Nam chưa khắc phục được những hạn chế cố hữu về thể chế, luật lệ,
tính dự báo của luật lệ. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa
đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán dẫn tới lúng túng trong việc
triển khai thực hiện. Nhiều thủ tục hành chính kéo dài ảnh hưởng kết quả sản xuất
kinh doanh.
Bà Lê Thị Bé Tuyết, Trưởng phòng xuất nhập khẩu của Công ty Yazaki EDS
Việt Nam (Nhật Bản), than rằng công ty bà đang gặp nhiều khó khăn trong việc
phải khai báo chi tiết khi nhập khẩu máy móc thiết bị cho việc sản xuất các linh
kiện ô tô. Trong khi ông Jung Eui Kwan, giám đốc kế hoạch của công ty TNHH
Shingsung Việt Nam góp ý "Cơ quan quản lý thay đổi chính sách thì nên theo
hướng tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp chứ không nên tạo thêm gánh
nặng cho doanh nghiệp” (Doanh nghiệp FDI tiếp tục than về thủ tục, Thời báo kinh
tế Sài Gòn, 8/4/2009
2
)
Sự phối hợp trong quản lí hoạt động FDI giữa các bộ ngành địa phương chưa
chặt chẽ, nặng về số lượng, chưa coi trọng chất lượng, còn tồn tại bệnh thành tích
trong cơ quan quản lí các cấp. Công tác quản lý, thanh tra, giám sát trong đầu tư và
xây dựng ở các ngành, các cấp rất yếu kém.
Bên cạnh đó, việc thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài ở các địa phương
nhiều khi thậm chí không cân nhắc thật cẩn trọng ba yếu tố mấu chốt: quỹ đất; vấn
đề đào tạo và sử dụng lao động tại chỗ; chất lượng sản phẩm đầu ra. Hai yếu tố sau
có liên quan trực tiếp tới công nghệ. Từ đó gây ra hệ quả là các công ty ở Việt Nam
2 />9
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
giống như các “phân xưởng” của công ty mẹ ở nước ngoài: lương lao động rất rẻ,
bệnh nghề nghiệp nhiều, các máy móc, trang thiết bị thì cũ kỹ, lạc hậu. Do vậy cũng
dễ hiểu tại sao hiệu quả của nhiều dự án đầu tư rất thấp.
Ngoài ra, công tác thông tin, tổng hợp còn những bất cập khiến cho thông tin
thiếu thông suốt, không đầy đủ và chưa kịp thời, gây khó khăn cho công tác quản
lý, điều hành.
3. Khả năng hấp thụ vốn kém
Thứ nhất, công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn
yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu
tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Qui hoạch ngành còn
nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp
với các cam kết quốc tế. Thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn FDI nhưng khi điều
kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích FDI mà để trong nước tự làm,
làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp, qui mô nhỏ bé, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, trình độ công nghệ và năng xuất lao động thấp, chi
phí sản xuất cao. sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào (hệ thống
cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập
khẩu hàng hóa) là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư.
Hệ thống cấp điện nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội,
giao thông đô thị ách tắc thường xuyên cũng như cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém
gây trở ngại cho đầu tư FDI vào nước ta. Theo Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại
VN Jeff thì "VN đã thành công trong việc phát triển năng lực sản xuất. Nhưng nếu
không chú ý đến vấn đề giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác sẽ không thể
giải quyết được sự tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai" (Cơ sở hạ tầng yếu kém
cản bước nhà đầu tư, Tin nhanh Việt Nam, 5/12/2005
3
)
Ngoài ra, tình trạng thiếu vốn, nhà xưởng, thiết bị công nghệ cao, trong khi
số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế khiến các doanh nghiệp vẫn lắp ráp bằng linh kiện
nước ngoài
Thứ ba, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công
nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới
hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội… mà còn ở cả những trung tâm
công nghiệp như Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương
Tại Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao –Nhu cầu cấp bách”
diễn ra vào ngày 22/9/2011, ông Nguyễn Văn Xê, Phó Giám đốc Sở Lao động-
TBXH thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, hiện vẫn còn thiếu hụt nguồn nhân lực có
trình độ chất lượng cao. Mặc dù tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và đang làm việc trên
địa bàn thành phố là 58% lao động, cao hơn so với cả nước nhưng lại rất thấp so với
3 />10
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
yêu cầu chung của sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa của thành phố trong
giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn tiếp theo đến năm 2020. (Vẫn còn thiếu hụt
nguồn nhân lực có trình độ chất lượng cao,Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
23/09/2011
4
)
4. Quy mô thị trường nhỏ
Quy mô thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua thấp, nhất là các vùng
nông thôn; mặt khác, nước ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng về xuất
khẩu, nhiều doanh nghiệp bị ràng buộc bởi điều kiện xuất khẩu trên 80% và phải tự
cân đối ngoại tệ
5. Các điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập
Thị trường vốn phát triển chậm nên hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay
của các thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Còn tồn tại việc áp dụng chi phí hai giá phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước
và doanh nghiệp có vốn FDI.
Việc cung cấp nguyên liệu phụ tùng tại chỗ cho các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài gặp khó khăn và không ổn định, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh
và làm tăng giá thành sản phẩm.
6. Chưa chủ động tìm kiếm quảng bá để thu hút đầu tư
Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính
chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả. Chúng ta hầu như chỉ đợi nhà đầu tư đến chứ
chưa chủ động tìm kiếm, tiếp xúc, quảng cáo… nhằm thu hút vốn đầu tư.
4 />11
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
PHẦN 4: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Sau đây là tổng hợp các giải pháp của các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp,
các chuyên viên phân tích nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trên cơ
sở những phân tích tổng quan, tình hình, thực trạng sử dụng … ở Việt Nam.
1. Về mặt chính sách
Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: Trong khi vẫn coi trọng các thị trường
và đối tác hiện nay, mà chủ yếu là châu Á và các doanh nghiệp vừa, cần mở
rộng việc thu hút FDI từ thị trường mới, nhất là Mỹ - một nước có tiềm năng
lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong 3 năm vừa
qua. Coi trọng việc đề ra các giải pháp để ngày càng có nhiều công ty đa
quốc gia đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao.
Cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn từ đó tạo lập được môi
trường đầu tư tốt nhất: theo dõi xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức quốc tế
về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của các quốc gia và đánh giá các nhà đầu
tư về thị trường trong nước để có những thay đổi phù hợp.Để giúp thực hiện
tốt giải pháp này cần phải:
Một là, ổn định kinh tế vĩ mô: , tiếp đó phải công bố các định hướng chính
sách của chính phủ ngay từ đầu năm để cho người dân và doanh nghiệp được biết.
Đồng thời công khai, minh bạch thông tin về quyết định chính sách, các thông tin
kinh tế vĩ mô (như nhập siêu, bội chi ngân sách, dự trữ ngoại hối, cán cân thanh
toán, nợ quốc gia…) để người dân và doanh nghiệp tránh bị động trong sản xuất
kinh doanh. Chính phủ cũng cần nâng cao năng lực dự báo và tăng cường phối hợp
trao đổi thông tin với các cơ quan khác để đảm bảo thống nhất khi công bố.
Hai là, đẩy mạnh cải cách cơ bản thủ tục hành chính theo hướng giảm bớt
những thủ tục rườm rà không cần thiết; nhưng đồng thời vẫn giám sát kiểm tra đúng
mức.
Ba là, các dự án FDI được lựa chọn cấp phép phải phù hợp với cơ cấu kinh
tế của cả nước; phù hợp với quy hoạch phát triển vùng và gắn với liên kết vùng; xử
lý hài hòa mối quan hệ giữa thị trường trong nước và xuất khẩu; gắn với việc
chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động.
Đồng thời, các dự án sẽ được xem xét một cách cẩn trọng, thậm chí không
cấp phép các dự án tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; những dự án có quy
mô vốn thấp sử dụng diện tích đất lớn; những dự án khai thác, sử dụng nhiều tài
nguyên và công nghệ lạc hậu; những dự án tiêu tốn nhiều năng lượng
2. Đối với ngành công nghiệp
12
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
Bất kì một nền công nghiệp nào cũng cần có các ngành công nghiệp phụ trợ
để hỗ trợ phát triển.Tuy nhiên ở nước ta, ngành Công nghiệp phụ trợ vẫn còn rất
nhiều hạn chế. Do vậy yêu cầu đầu tiên và bức thiết đối với nước ta là phải ưu tiên
phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ. Để giải quyết vấn đề này:
Chính phủ cùng các ngành liên quan cần có chiến lược đầu tư vào khoa học
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp phụ trợ. Từng
bước đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo. Phải xác định cho đúng những
đối tượng cần được đào tạo và đào tạo lại, tránh tình trạng đào tạo tràn lan
mà không biết sử dụng vào việc gì. Đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ lao
động đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có chất lượng và tay nghề
cao. Đồng thời xây dựng cơ chế hợp tác đào tạo giữa trường đại học và
doanh nghiệp, tiếp nhận sinh viên từ các trường đại học công nghiệp để đào
tạo thực hành tại doanh nghiệp sản xuất.
Tiếp thu chuyển giao công nghệ từ các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư
xây dựng khu công nghệ cao, công nghệ ứng dụng để đáp ứng nhu cầu của
nhà đầu tư nước ngoài trên lĩnh vực điện tử, tin học, lắp ráp ; liên kết với
các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp linh kiện, sản phẩm phụ
trợ.
Cần có sự hỗ trợ mạnh, hiệu quả của Nhà nước với sự phát triển của ngành
công nghiệp phụ trợ qua việc xây dựng quy hoạch, cơ sở hạ tầng và các
chính sách khác đối với doanh nghiệp đầu tư công nghiệp phụ trợ; đầu tư vốn
phát triển công nghiệp phụ trợ Cơ sở hạ tầng cần được nâng cấp nhanh
chóng, đặc biệt là các cảng biển và nhà máy. Đồng thời cũng cần quy hoạch
lại giao thông đô thị thông thoáng hơn và nâng cấp hệ thống giao thông đã
xuống cấp ở nhiều nơi. Việc phát triển hệ thống nhà xưởng, đặc biệt ở các
khu công nghiệp làm việc đầu tư trở nên thuận lời hơn cũng là yếu tô thu hút
vốn FDI. Mạnh dạn hơn nữa trong việc cho phép và khuyến khích doanh
nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, nhất là những công trình hạ tầng
đang xây dựng dở dang và đã kéo dài nên được hoàn thành, đồng thời kiên
quyết xử lý những dự án "treo" mà chủ đầu tư không có khả năng thu xếp
vốn, dự án chuyển đổi mục đích tạo cơ hội cho các đối tác khác vào đầu tư,
tránh lãng phí về cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
13
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
KẾT LUẬN
Hiện nay, vốn FDI vào nước ta đang có xu hướng giảm dần, đồng thời việc
sử dụng vốn cũng không đạt hiệu quả cao. Vì vậy, việc thực hiện những biện pháp
khắc phục tình trạng trên càng trở nên cấp thiết.
Với những biện pháp đã nêu, tôi cho rằng điều quan trọng nhất cần thực hiện
là Nhà nước phải ban hành những chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư
thông thoáng hơn. Bên cạnh đó chúng ta cũng phải nâng cấp cơ sở hạ tầng. Hai
nhiệm vụ này nên thực hiện cùng nhau để tạo đông lực mới thu hút vốn đầu tư.
Cuối cùng ta cần đổi mới hệ thống giáo dục để đào tạo ra nguồn nhân lực trình độ
cao không chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp FDI mà còn phục vụ cho sự
phát triển của đất nước.
Trên đây là vài ý kiến của tôi với mục tiêu tăng thu hút và sử dụng vốn đầu
tư nước ngoài hiệu quả hơn. Hy vọng việc áp dụng những biện pháp này có thể tạo
ra những thay đổi tích cực trong tương lai.
14
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hằng năm của
Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
/>2. Báo cáo Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép hằng năm của
Tổng cục thống kê
/>3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
/>4. Tin nhanh Việt Nam
/>5. Thời báo kinh tế Sài Gòn
/>6. Báo điện tử Pháp luật Tp HCM
/>7. Thời báo kinh tế Việt Nam
/>8. Bách khoa toàn thư mở
/>9. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, được lấy về từ:
/>10. Tổng quan về FDI, được lấy về từ:
/>15
Nguyễn Mai Gia Phương, lớp
111_T11
MỤC LỤC
16