Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN mác, ĂNG GHEN, lê NIN PHÁT TRIỂN lý LUẬN về THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội, ý NGHĨA đối với VIỆC lựa CHỌN CON ĐƯỜNG XHCN ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.54 KB, 18 trang )

1

MÁC, ĂNGGHEN VÀ LÊNIN PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH-Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY
LÝ LUẬN
VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chủ nghĩa xã hội khoa học với tính cách là một hệ thống lý luận khoa
học và cách mạng nhằm trang bị cho giai cấp vô sản những vũ khí tư tưởng để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người thốt khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa. Theo một lẽ tự
nhiên, quá trình phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là quá trình gắn
liền với sự vận động của những điều kiện lịch sử mới phản ánh tính quy luật
của sự vận động, phát triển trong dòng chảy lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tính quy luật khơng thể thiếu được những bộ óc thiên tài, phẩm chất trí tuệ
uyên bác cùng với trái tim vĩ đại ln đứng về phía người lao động đấu tranh
cho cơng lý tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Nếu Mác và Ăngghen là những
người sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội khoa học thì Lênin là một mẫu hình về sự
trung thành, đấu tranh, bảo vệ, phát triển lý luận Mác xít nói chung, chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng trong điều kiện lịch sử mới làm cho nó trở nên hồn
thiện hơn về tính cách mạng và khoa học của nó.
Trong dịng chảy lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thì sự phát triển lý
luận xã hội chủ nghĩa về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong
những vấn đề cơ bản của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Bởi lẽ chủ nghĩa
xã hội khoa học với tư cách là một chế độ xã hội khơng có sẵn trong lịch sử,
để có được chế độ ưu việt ấy giai cấp vơ sản phải trải qua q trình đấu tranh
lâu dài, bền bỉ, gian khổ, phức tạp và phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều “lần
thử” mới đi tới mục tiêu cuối cùng. Những tư tưởng lý luận về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là những “cẩm nang” cho các Đảng cộng sản công nhân
quốc tế vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của quốc




2

gia, dân tộc mình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi và
cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng trên tồn thế giới.
Hiện nay chủ nghĩa xã hội khơng cịn là một hệ thống, đặc biệt sau sự đổ
vỡ của Liên Xô và Đông Âu, các học giả tư sản phương tây cho rằng học
thuyết Mác – Lênin đã hết thời, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn chỉ là
“không tưởng” chứ không phải là khoa học và cách mạng. Nghiên cứu từ bài
học sự đổ vỡ ở Liên Xô và Đông Âu, bài học 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi
mới của Đảng ta, trước bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, vấn đề có tính
chất sống cịn đặt ra cho Đảng ta là phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm
rõ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội đặc biệt là con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đó là cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối đúng đắn phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại, nâng cao niềm tin của nhân dân vào mục
tiêu, con đường và chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhà nước và nhân dân
ta đang tiến hành.
I. Tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1. Những cống hiến của Mác và Ăngghen
Thời kỳ Mác, Ăngghen gắn với điều kiện lịch sử đó là chủ nghĩa tư bản
đang trên đà phát triển, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang hưng
thịnh, giai cấp tư sản vẫn thể hiện được vai trị của nó chưa bộc lộ đầy đủ bản
chất tàn bạo và phản động, giai cấp vô sản ngày một trưởng thành thông qua
các cuộc đấu tranh cách mạng ở châu Âu. Nghiên cứu sự vận động của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhất là quy luật quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất Mác, Ăngghen đã có những dự báo thiên tài về sự thay thế
của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ắt sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế tư bản

chủ nghĩa. Quá trình hoạt động thực tiễn, sáng tạo lý luận; Mác và Ăngghen
đã vận dụng triệt để quan điểm thực tiễn lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã
hội thơng qua đó xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế xã hội trong đó có


3

hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự ra đời học thuyết này là một
cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội, vì lần đầu tiên Mác đã đề
cập đến tư tưởng về hình thái kinh tế xã hội và các giai đoạn phát triển của nó.
Những tư tưởng đó được Mác đề cập chủ yếu trong tác phẩm “phê phán
cương lĩnh Gô Ta” (tháng 4/1975). Trong tác phảm ấy, Mác đã vạch rõ bản
chất cơ hội, phản động theo đuôi giai cấp tư sản của chủ nghĩa Lát-Xan, đồng
thời chính thơng qua phê phán Cương lĩnh Gơ Ta, Mác đã trình bày những
ngun lý, lý luận về hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, những đặc trưng
cơ bản của nó nhất là những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa cộng sản giai
đoạn thấp (hoặc giai đoạn đầu) là chủ nghĩa xã hội. Đó là “một xã hội cộng
sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội
về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của
xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra”1. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là làm
theo năng lực, hưởng theo lao động. Giai đoạn cao là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà đặc trưng cơ bản là làm
theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Thông qua phê phán “Cương lĩnh Gơ Ta”,
Mác đã phê phán tính chất phản động, thoả hiệp của chủ nghĩa Lát- Xan,
xuyên tạc tuyên ngôn, xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong tác phẩm này Mác đã chỉ ra rằng để tiến tới hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị. Và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền

chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”2
Về định nghĩa và tính tất yếu của thời kỳ quá độ, theo tư tưởng của Mác,
đó là thời kỳ “quá độ chính trị”, tức là để tiến lên một hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa thì giai cấp vơ sản phải lập ra chính đảng của mình và
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 33
C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 47


4

thiết lập chun chính vơ sản-một hình thức chính trị tất yếu phục vụ cho
cuộc đấu tranh giai cấp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xã hội của
thời kỳ quá độ là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản mà ra; là thời kỳ
cải biến cách mạng, do vậy về kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những
dấu vết của xã hội cũ. Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước
chun chính vơ sản. Mác đã phân tích sâu sắc đặc điểm thời kỳ quá độ, trú
trọng phân tích đặc điểm kinh tế, tập trung quan hệ sở hữu. Mác, Ăngghen
luôn nhấn mạnh là sau khi chế độ tư bản chủ nghĩa sụp đổ, nhưng chế độ tư
hữu vẫn còn tồn tại, cho nên việc cải tạo để đi đến xoá bỏ chế độ tư hữu là
một quá trình dần dần. Mác đã khẳng định “Giai đoạn đầu của xã hội cộng
sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau
những cơn đau đẻ dài. Chính quyền khơng bao giờ ở một mức cao hơn chế độ
kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế quyết định”1.
Về phương diện chính trị xã hội thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh quyết
liệt giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt tận gốc với
chủ nghĩa xã hội đã được hình thành nhưng vẫn cịn non yếu. Cho nên mục
đích của chủ nghĩa cộng sản về chính trị là xoá bỏ nhà nước, cơ sở để xoá bỏ

nhà nước là xoá bỏ chế độ tư hữu, song khơng phải một lúc mà là một q
trình. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là sau khi giành
chính quyền, giai cấp vơ sản phải dùng chế độ dân chủ làm phương tiện để thi
hành các biện pháp, trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu, cải tạo, thủ tiêu các
quan hệ bóc lột, thiết lập các quan hệ sản xuất mới công bằng. Và đó là một
q trình dần dần, khơng thể nóng vội. Mặt khác sau khi giành chính quyền
giai cấp vơ sản phải sử dụng quyền lực chính trị một cách triệt để vừa cưỡng
bức, tước đoạt bọn áp bức, bóc lột, nhưng vừa phải nêu gương giúp đỡ nhân
dân xây dựng xã hội mới “Khi chúng ta nắm được chính quyền, chúng ta sẽ
không nghĩ đến dùng bạo lực để tước đoạt tiểu nông, như chúng ta buộc phải
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 36
C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 736


5

tước đoạt của bọn địa chủ nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông, trước hết
phải hướng nền kinh doanh cá thể và sở hữu của họ vào con đường kinh
doanh hợp tác không phải bằng bạo lực mà là bằng những tấm gương và sự
giúp đỡ của xã hội.2 Điều đó nói lên rằng giai cấp vơ sản sử dụng quyền lực
chính trị để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thì phải mềm dẻo, linh
hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của thời kỳ cải biến cách mạng.
Cũng chính từ những đặc điểm của thời kỳ cải biến cách mạng Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng trong suốt thời kỳ quá độ các giai cấp vẫn cịn tịn tại,
địa vị, tính chất, vai trò của các giai cấp sẽ thay đổi trong quá trình chủ nghĩa
xã hội, vì thế đấu tranh giai cấp trong thời kỳ này sẽ vẫn diễn ra. Thực chất
đấu tranh giai cấp trong thời kỳ này là để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa

chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khi mà cơ cấu xã hội giai cấp vẫn còn
tồn tại đan xen, phức tạp. Những giai cấp, những bộ phận mà lợi ích cơ bản
của họ khác nhau, thậm trí đối lập nhau, do vậy cuộc đấu tranh giai cấp này
nó diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Mác và Ăngghen cũng đưa ra những hình thức đấu tranh giai cấp
với giai cấp tư sản và các tầng lớp tiểu tư sản khác. Đó là đấu tranh bằng tước
đoạt và bằng bạo lực để thủ tiêu chế độ tư bản và khơng thể tránh khỏi việc
xố bỏ giai cấp tư sản bằng phương pháp hồ bình là điều mong muốn của
giai cấp công nhân.
Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, một trong những cống hiến rất
lớn lao của Ăngghen đối với sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ đó là luận
điểm về con đường phát triển “rút ngắn” không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
các nước lạc hậu, chậm phát triển. Cống hiến lý luận của Ăngghen đối với sự
hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác là hết sức lớn lao. Lênin đã khẳng
định, “muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của Mác, tuyệt đối phải
đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất
của Mác là Phri-đrích Ăngghen” 1và hơn thế, chúng ta sẽ khơng thể nào hiểu
2
1

V. I. Lênin Tồn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ M, 1981, tr. 110


6

được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu khơng chú
ý đến tồn bộ tác phẩm của Ăngghen”1. Sau khi Mác qua đời, Ăngghen đã
đem hết nghị lực sục sơi, trí tuệ sáng suốt và trái tim nồng cháy của mình để
tiếp tục sự nghiệp cách mạng mà Ông và C. Mác đã theo đuổi suốt đời: phát
triển và hoàn thiện học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học; phát triển, điều

chỉnh, đề xuất đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh cách
mạng mới cho chính đảng của giai cấp cơng nhân. Những tác phẩm của
Ăngghen thể hiện trong hàng loạt bài viết, thư từ và được coi như là sự bổ
xung, cụ thể hoá những tư tưởng mà C. Mác đã đưa ra trong “Phê phán
Cương lĩnh Gô-ta”, cũng như những tư tưởng mà bản thân ông đã đưa ra
trong “Chống Đuy-rinh”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”.
Nói về thời kỳ quá độ, nhất là vấn đề xác định “những giai đoạn quá độ
lên xã hội cộng sản”, trong thư gửi Cơn-rat Smít (1863 – 1932) - nhà kinh tế
học, nhà triết học Đức, người mà khi đó tán thành học thuyết Mác, ngày
1/7/1891 Ăngghen khẳng định, chúng ta “cần phải suy nghĩ kỹ”, khơng được
nơn nóng, khơng được phép kết luận vội vàng, bởi đây là vấn đề khó nhất
trong tất cả những vấn đề còn tồn tại ở một thời kỳ mà “các điều kiện không
ngừng thay đổi”. Tuy luôn nhắc đi, nhắc lại rằng, nhiều việc diễn biến của
tình hình khơng cho phép đưa ra một chương trình hành động cụ thể cho mọi
trường hợp có thể xảy ra nhưng Ăngghen vẫn cố gắng vạch ra những nét cơ
bản nhất, những quy luật chung nhất về thời kỳ quá độ. Trong quan niệm của
ông, thời kỳ quá độ là thời kỳ ln “gắn với một số thiếu thốn nào đó” bởi
đây là “thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” và “về mọi
phương diện kinh tế đạo đức, tinh thần còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó
lọt lịng ra như Mác đã nói trong “phê phán cương lĩnh Gơ -ta”.
Khi phát triển quan niệm về thời kỳ quá độ, Ăngghen đã nói đến tính tất
yếu của phương thức q độ “rút ngắn” đối với đất nước đang ở giai đoạn
1


7

phát triển tiền tư bản chủ nghĩa hoặc chưa từng trải qua con đường phát triển
tư bản chủ nghĩa. Trong lời bạt viết cho tác phẩm “về vấn đề xã hội ở Nga”

Ăngghen khẳng định không chỉ với nước Nga mà còn với tất cả các nước
đang trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa đều “không những có thể
mà cịn chắc chắn rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên
xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và
những cuộc đấu tranh ở Tây Âu phải trải qua” 1. Khi nhận thấy trước một khả
năng có thể xảy ra trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước lạc hậu, chậm
phát triển, kẻ thù và những lực lượng chống đối giai cấp công nhân và chính
Đảng của nó có thể liên kết lại xung quanh khẩu hiệu “nền dân chủ thuần túy”
để chống phá công cuộc xây dựng xã hội mới.
Để khắc phục những nhận thức mơ hồ về CNXH và thời kỳ quá độ vẫn
cịn khá phổ biến trong phong trào cơng nhân quốc tế, Ăngghen đã nói rõ
quan niệm của Ơng về sự khác nhau căn bản giữa CNXH và CNTB. Ông viết
“cái gọi là “xã hội xã hội chủ nghĩa” theo ý kiến tơi, khơng phải là cái gì đó
nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác nó cần phải được
xem xét như một xã hội được thay đổi và cải tạo thường xuyên. Sự khác biệt
có tính chất quyết định của nó so với chế độ hiện nay dĩ nhiên là ở việc tổ
chức sản xuất trên cơ sở sở hữu chung trước hết của từng dân tộc đối với các
tư liệu sản xuất”2.
Những cống hiến mới của Ăngghen trong việc phát triển một cách sáng
tạo học thuyết về CNXH khoa học gắn liền với điều kiện lịch sử luôn biến
đổi. CNTB đang trong giai đoạn chuyển từ thời kỳ tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền nhà nước (chủ nghĩa đế quốc phong trào cộng sản cơng
nhân quốc tế đã có sự phát triển và có kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, tính
chất bóc lột phản động của CNTB đang dần bộc lộ. Mặt khác, sự phát triển
không đều của chủ nghĩa đế quốc, các nước lạc hậu chậm phát triển không thể
1

C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1977, tr. 632

2


C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, tr. 617 - 618


8

thực hiện một cách tuần tự theo sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Đây là
dự báo rất thiên tài về tương lai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, Mác và Ăngghen đưa ra những tư tưởng rất quan trọng về sự
phân kỳ hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những dự báo rất quan
trọng về nội dung, tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ và đặc biệt là luận
điểm về con đường phát triển “rút ngắn” ở các nước lạc hậu, chậm phát triển
là rất bổ ích và cần thiết cho sự phát triển lý luận thời kỳ quá độ sau này.
2. Lênin đấu tranh bảo vệ, phát triển lý luận thời kỳ quá độ trong
điều kiện lịch sử mới.
Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, Lênin đã bảo vệ phát triển chủ nghĩa
Mác một cách sáng tạo làm phong phú chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Người bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác cả ba bộ phận cấu thành
của nó là triết học, kinh tế chính trị và CNXH khoa học chống lại mọi trào lưu
cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác nhưng không rơi vào chủ nghĩa giáo điều, dập
khn máy móc. Trong đấu tranh bảo vệ phát triển lý luận CNXH khoa học
thì lý luận về thời kỳ quá độ là một trong những cống hiến rất đặc sắc của
Lênin.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin
đã đưa ra nhiều quan điểm mới. Trong giai đoạn này, CNTB đã trở thành một
hệ thống thế giới bao gồm cả các nước thuộc địa và phụ thuộc dưới ách thống
trị của chủ nghĩa tư bản. Lênin thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa cách
mạng vơ sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Điểm nổi bật của Lênin là nhận thức mới của Người về

CNXH và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tư bản kém phát triển. Lênin
cho rằng, Mác và Ăngghen mới chỉ nêu lên những nét đại thể về chủ nghĩa xã
hội trên cơ sở các nước tư bản công nghiệp phát triển lúc bấy giờ. Còn đối với
nước Nga, một nước tư bản kém phát triển, nền kinh tế tiểu nơng cịn phổ
biến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nên cần phải có một nhận thức mới về


9

chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước
Nga.
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của Mác và Ăngghen khi xác định vị trí của
thời kỳ q độ trong q trình hình thành hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa,
Lênin chỉ ra sự phân kỳ: thời kỳ thứ nhất là những cơn đau đẻ kéo dài; thời kỳ
thứ hai là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; thời kỳ thứ ba là giai
đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lênin chỉ rõ đặc điểm cụ thể của
từng thời kỳ, từng giai đoạn của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thấy hết tính chất phức tạp từng giai đoạn của nó. Lênin khẳng định: “trong
giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài. Pháp quyền khơng bao
giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do
chế độ kinh tế quyết định”1. Trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ
nghĩa, sau khi tình trạng phụ thuộc vào sự phân cơng lao động - một sự lệ
thuộc nơ dịch hóa con người mất đi, khi mà cùng với nó, sự đối lập giữa lao
động trí óc và lao động chân tay mất đi, khi mà lao động chỉ còn là phương
tiện sinh sống mà bản thân nó trở thành một nhu cầu bậc nhất của cuộc sống,
khi mà cùng với sự phát triển tồn diện của những cá nhân thì cả những lực
lượng sản xuất cũng phát triển và tất cả nguồn của cải xã hội tuân ra tràn đầy,
chỉ lúc ấy mới có thể hồn tồn khắc phục được hồn tồn cái giới hạn chật
hẹp cuả pháp quyền tư sản, và xã hội mới có thể viết trên lá cờ của mình:

“làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Việc đưa ra các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa là cơ sở để khẳng định tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này được hình thành gắn liền với tư
tưởng chun chính vơ sản, gắn liền với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lênin đã cụ thể hóa và phát triển làm phong phú hơn về thời kỳ quá độ. Trước
1
2

V. I. Lênin Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ M, 1976, tr. 223
V. I. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 362


10

hết về định nghĩa thời kỳ quá độ: “danh từ “q độ” có nghĩa là gì? vận
dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có nhiều thành
phần, nhiều bộ phận, nhiều mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã
hội không”2. Đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài, thời kỳ đó cịn đan xen giữa cái
cũ và cái mới của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, cái cũ chưa hẳn
mất đi, cái mới đang được hình thành và từng bước khẳng định. Dựa trên
phương pháp duy vật lịch sử, Lênin khẳng định tính tất yếu phải trải qua thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và Lênin là người đầu tiên
đưa ra khái niệm thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vị
trí của thời kỳ quá độ chỉ là tương đối chứ không phải tuyệt đối “ các tác
phẩm lý luận của ta đã nhấn mạnh một cách rõ ràng: tất yếu phải có một thời
kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít
phát triển thì thời kỳ đó càng dài) q độ thơng qua việc thực hiện kiểm kê,
kiểm sốt xã hội cộng sản chủ nghĩa song dù chỉ là một trong những bước
đầu tiên để tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”1. Lênin đã chỉ ra tính chất,

đặc điểm của thời kỳ quá độ, đây là những luận điểm rất quan trọng, nó phù
hợp với đặc điểm, điều kiện lịch sử lúc đó ở nước Nga, cũng như các nước lạc
hậu chậm phát triển khác trên thế giới. Lênin đã ví chủ nghĩa xã hội như một
ngọn núi cao, nơi chưa có dấu chân người, cho nên muốn leo lên được nó phải
trải qua nhiều bậc thang khó khăn, gian khổ, thậm trí phải thử nghiệm nhiều
lần thì mới có thể đi đến đích “cịn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn,
nhưng chúng ta sẵn sàng chịu đựng hàng nghìn khó khăn, thực hiện hàng
nghìn lần thử, và khi chúng ta đã thực hiện được một nghìn lần thử rồi, thì
chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử một nghìn lẻ một” 2. Để trải qua những nấc
thang của thời kỳ q độ đó, giai cấp vơ sản thơng qua chính Đảng của mình
2
1
2
2

V. I. Lênin Tồn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 197
V. I. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 505


11

không thể tránh khỏi những vấp váp, sai lầm, nếu khơng có sự linh hoạt, sáng
tạo, kịp thời đổi mới, cải cách thì thậm trí đổ vỡ. Vì thời kỳ đó khơng thể
khơng bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của hai kết cấu kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ giai đoạn ấy không thể nào
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang dãy chết
và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh. Hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa
tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã
phát sinh nhưng cịn non yếu. Đó là một thời kỳ mọi phương diện đều có sự

phát triển tính tự phát tiểu tư sản chứa đựng những mâu thuẫn khơng thể dung
hịa, giữa tính kỷ luật với tính vơ chính phủ. Lênin chỉ rõ: “Dưới chính quyền
Xơ Viết một mẩu nhỏ chủ nghĩa tư bản và một mẩu nhỏ chủ nghĩa xã hội tồn
tại cạnh nhau chủ nghĩa tư bản nhà nước đó cịn cao hơn những tàn dư của các
tâm trạng và các điều kiện sinh hoạt kinh tế và tập quán của những kẻ tiểu tư
hữu, những tàn dư đó cịn rất nhiều. Thực tiễn những năm đầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nga đã cho phép Lênin rút ra kết luận rằng, được quyết
định bởi quy luật nội tại của nó, tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội
nhưng “ không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa những
đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã
hội”2. Điều đó hồn tồn tuỳ thuộc vào chỗ quan hệ đại tư bản chiếm ưu thế hay
nền kinh tế nhỏ chiếm ưu thế trong nước. Xuất phát từ kết luận đó, Lênin đã nêu
lên quan điểm về hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp và
quá độ gián tiếp. Theo Lênin, chỉ những nước có chủ nghĩa tư bản phát triển cao,
giai cấp cơng nhân đã trưởng thành mọi mặt mới có đủ những tiền đề kinh tế, xã
2

Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ Mat xcơva, 1977, tập 30, tr 160


12

hội và chính trị cho sự chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Trái lại, những nước
lạc hậu chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường quá độ gián tiếp.
Đối với những nước thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường
quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Lênin đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết
phải qua nhiều bước trung gian quá độ mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. “Chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách

trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề”3. Đối với những nước kinh tế chậm
phát triển qua độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
theo Lênin, thì việc quá độ ở những nước này sẽ lâu dài và phức tạp hơn nhiều. Vì
vậy ở những nước này nếu không trải qua cả một loạt giai đoạn sơ bộ và tuần tự
thì khơng thể tiến lên chủ nghĩa xã hội được. Ở những nước này phải căn cứ vào
thực trạng của lực lượng sản xuất của mình mà lựa chọn những hình thức, bước đi
thích hợp. Lênin cũng căn dặn: “ Trong một nước tiểu nông trước hết các động
chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”4. Như vậy, ở những nước chậm phát triển, thời kỳ
quá độ sẽ lâu dài khó khăn, khơng thể nóng vội đốt cháy giai đoạn. Ở những nước
này trong thời kỳ quá độ có thể sử dụng hình thức tư bản nhà nước là hình thức
quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, cả C.Mác- Ph. Ăng ghen và Lênin đều khẳng định giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ
sang xã hội kia, và thời kỳ quá độ đó là thời kỳ còn đan xen giữa cái cũ và cái
3
4

Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ Mat xcơva, 1978, tập 43, tr 274
Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ Mat xcơva, 1977, tập 44, tr 189


13

mới, là thời kỳ còn diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp không kém phần gay go, phức
tạp...Các ông cũng đã khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; những điều kiện và những khả năng để
một nước có thể bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xã
hội cao hơn.

Những tư tưởng của các ơng tuy có sự khác nhau trong việc xác định vị trí
của thời kỳ quá độ, nhưng những tư tưởng của các ơng khơng hề có sự đối lập
nhau, đó là một chuỗi liên tục, kết thừa nhau. Hệ thống các quan điểm và các khái
niệm ngày càng được bổ sung phát triển cụ thể, sáng tỏ và sinh động đáp ứng kịp
thời với đòi hỏi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong các điều kiện lịch sử cụ thể.
Trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin và xuất phát từ bối cảnh mới của
quốc tế và trong nước; Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của cách mạng
Việt Nam đã kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa
Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
cách mạng không ngừng, và căn cứ vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt
Nam Hồ Chí Minh khẳng định: Con đường của cách mạng Việt nam là giải
phóng dân tộc hồn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có thể nói trong hệ
thống tư tưởng của Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là tư
tưởng cốt lõi. Người đã cho chúng ta biết tất cả mọi hoạt động lý luận và thực tiễn


14

của Người đều tập trung vào một đề tài, một mục tiêu: “ chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”5.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi đề cập đến thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh cũng khẳng định tính tất yếu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quan niệm của Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái
quá độ gián tiếp từ một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu, không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng của chủ

nghĩa Mác- Lênin về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa và vận dụng tư tưởng đó vào điều kiện cụ thể nước ta.
Người cũng khẳng định nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
đặc điểm lớn nhất đó là: quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, với một nước nông nghiệp lạc hậu và đầy dẫy những tàn tích của xã
hội cũ, nền kinh tế chậm phát triển lại phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo về
Tổ Quốc, cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của kẻ thù...Từ đặc điểm đó
Người khẳng định : thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải được tiến
hành tuần tự dần dần, không thể chủ quan nóng vội.
Về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh quan niệm nó diễn ra một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hố xã hội. Để thực hiện được nội dung đó trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo Người trước hết phải củng cố được mặt trận dân
5

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, t9, tr.419


15

tộc thống nhất, xây dụng được khối công nông vững chắc, phát triển lực lượng
sản xuất gắn với xây dựng được quan hệ sản xuất phù hợp, có một cơ cấu kinh tế
hợp lý, thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan tâm đúng
mức đến việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa vì theo Người muốn có
chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa và coi trọng nâng cao
dân trí đào tạo nhân tài.
Về con đường, biện pháp, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ. Người đã căn cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thông qua học
tập kinh nghiệm của các nước anh em, động thời xuất phát từ tình hình thực tế để
xác định, biện pháp bước đi cho phù hợp với từng giai đoạn. Trong các bước đi để

xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ q độ Hồ Chí Minh chú ý đến vai trị
của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa; Người coi đây là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong các biện pháp Người chú ý đến các
biện pháp như: kết hợp giữa cải tạo và xây dựng lấy xây dựng là chính, kết hợp
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo về tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
có biện pháp, có kế hoạch, có quyết tâm, phải huy động được mọi nguồn lực trong
nhân dân vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và phải đặt dưới sự lãnh đạo
của đảng cộng sản Việt Nam...
Với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh cùng
với Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi
trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, và tiếp sau đó là chiến thắng điện


16

biên phủ năm 1954, đưa Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam. Nhờ những thành tựu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Miền Bắc đã tạo ra những cơi sở, điều kiện quyết định để giải
phóng Miền Nam sau này.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngay khi giải phóng
Miền Nam năm 1975 Đảng ta chủ trương đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong các văn kiện của Đảng ta, Đảng ta đều khẳng định tính tất yếu quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta, và khẳng
định chúng ta hồn tồn có khả năng, điều kiện để q độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Phương thức để rút ngắn; Về kinh tế,
Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; về chính trị, Đảng ta khẳng định dứt khốt vai trị lãnh đạo của Đảng cộng

sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; về xã hội, mục đích và quyết tâm của
Đảng ta là xây dựng một xã hội khơng cịn áp bức bóc lột, bất cơng, mọi người
trong xã hội đều bình đẳng; về văn hoá, Đảng ta chủ trương xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X Đảng ta khẳng định “ Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện
đại hoá đất nước; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện


17

đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế”6
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi Đảng ta cần tập chung giải quyết một số
vấn đề chủ yếu: Giữ vững định hứơng xã hội chủ nghĩa; mở rộng nền dân chủ xã
hội chủ nghiã; phát huy, khơi dậy mọi nguồn lực vào xây dựng chủ nghĩa xã hội;
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chăm lo xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh chống tham ơ lãng phí và mở rộng quan hệ quốc tế để tận dụng
nguồn lực bên ngồi vào q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện cho
được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ, và những
điều kiện, khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kế thừa, phát triển sáng tạo
vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Tuy nhiên, cũng có một thời gian Đảng ta đã nhận
thức khơng đúng về q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nóng vội

muốn có ngay chủ nghĩa xã hội. Nhưng Đảng ta đã kịp thời khắc phục những
khuyết điểm sai lầm đó, nhận thức đúng hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, thực hiện đổi mới trên tất cả lĩnh vực. Những thành tựu 20 năm đổi mới vừa
qua đã chứng tỏ quan điểm, đường lối của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Một
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006,
tr.69
6


18

trong những bài học kinh nghiệm mà Đảng ta rút ra trong quá trình đổi mới là phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên đình chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.



×