Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học bước đầu tìm HIỂU về tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG hồ CHÍ MINH và ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN đối với CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.78 KB, 23 trang )

1

1

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ
MINH. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Mở đầu
Trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội lần thức VII của Đảng đã
khẳng định: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng
Việt Nam. Với sự khẳng định đó lần đầu tiên Đảng ta đã chính thức đặt tư
tưởng Hồ Chí Minh vào hệ tư tưởng của Đảng. Sự khẳng định đó cũng là một
bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta và đồng thời cũng là sự khẳng định vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn bảy thập kỷ qua ngày càng khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta;
trong đó, tư tưởng biện chứng của Người có vị trí đặc biệt quan trọng trong
quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
thực tiễn cách mạng Việt Nam, không những đem lại cho nhân dân ta niềm tin
vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà còn là cơ sở lý luận –
thực tiễn sinh động và sâu sắc cho Đảng ta hoạch định và tổ chức thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ở Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về triết học hay
tư tưởng biện chứng. Nhưng trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt và nhuần nhuyễn các quan điểm,
các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật mác xít, kết hợp với các
yếu tố biện chứng của triết học phương Đông từ đó tạo nên một hệ thống các
quan điểm biện chứng của riêng mình. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh bắt




2

2

nguồn từ tiền đề tư tưởng triết lý của dân tộc, từ triết lý phương Đông được
“thăng hoa” lên dưới ánh sáng của triết học Mác – Lênin, rất mác xít mà vẫn
mang được bản sắc riêng của Hồ Chí Minh.
Bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh đã có nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước nghiên cứu, nhiều công trình khoa học đã được công bố. Tuy vậy, so
với tầm vóc tư tưởng của Người thì những công trình đó mới chỉ là bước
đầu. Riêng về tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng biện chứng
Hồ Chí Minh còn rất ít người nghiên cứu. Đây là những hướng nghiên cứu
mới mẻ và rất lý thú nhưng cũng không hề đơn giản. Do điều kiện nghiên
cứu, khả năng và thời gian có hạn, trong phạm vi bài tiểu luận này, tác giả
cũng chỉ mới bước đầu tìm hiểu góp phần làm sáng tỏ một số nội dung cơ
bản trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh và sự vận dụng nội dung những
quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, cụ thể tiểu luận được
trình bày trên một số vấn đề cơ bản sau:
1. Một số đặc điểm cơ bản của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
3. Ý nghĩa phương pháp luận của tư tưởng biện chứng Hồ Chí
Minh với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
NỘI DUNG CỤ THỂ
Phần một
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
HỒ CHÍ MINH
Vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, trước khi đi vào nghiên
cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là, cần tiếp cận một số đặc điểm của tư

tưởng biện chứng Hồ Chí Minh. Theo đó, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
được khái quát trên một số đặc điểm sau:


3

3
Một là, Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh thuộc hệ thống tư tưởng duy

vật biện chứng, được xây dựng trên cơ sở hiện thực xã hội phương Đông đầy
mâu thuẫn và những biến cố phức tạp, mang tính đặc thù, không giống cấu
trúc hình thái kinh tế – xã hội “bài bản” kiểu phương Tây.
Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là
tư tưởng biện chứng duy vật đã đạt đến một trình độ mới trong cách xem xét
và giải quyết thực tiễn, là phép biện chứng mác xít lêninnít gần gũi những
truyền thống biện chứng phương Đông vốn giàu tính thực tiễn, phong phú
trong ứng xử, gắn bó với đời sống cảm quan hàng ngày của người lao động.
Hai là, Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là hạt nhân phương pháp
luận Hồ Chí Minh, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh nằm trong hệ thống
biện chứng duy vật ( cái chung) nhưng mang sắc thái Á Đông và luôn xuất
phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam ( cái riêng). Nó không xây dựng thành
hệ thống lý luận mà ẩn giấu trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của Người và
của cách mạng Việt Nam. Tuy là sản phẩm của thực tiễn cách mạng Việt
Nam nhưng đã được hướng dẫn bởi những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và những quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật và
biện chứng của dân tộc và các nước Á Đông.
Ba là, Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là sản phẩm của cách mạng Việt
Nam, được quy định bởi mọi mặt hoạt động của thực tiễn cách mạng – xã hội
Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam không chỉ là nguồn gốc, cơ sở tư

tưởng, là phương pháp luận Hồ Chí Minh mà còn là nơi sản sinh ra những biện
pháp, phương pháp cụ thể để thực hành quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh.
Nếu như phép biện chứng mác xít là sản phẩm của thời đại tư bản phát triển ở
Châu Âu gắn liền với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới, được
C.Mác, Ph. Ăngghen và sau đó là được Lênin bổ xung, phát triển, thì tư tưởng
biện chứng Hồ Chí Minh là sản phẩm của cách mạng Việt Nam trong quá trình


4

4

đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập
dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường XHCN bỏ qua chế độ TBCN.
Bốn là, Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng. Là
khoa học bởi lẽ toàn bộ quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh được xây dựng
trên nền tảng vững chắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, biện chứng cổ
truyền của dân tộc Việt Nam và các nước Á Đông, cùng với sự hiểu biết uyên
thâm nền văn hoá và khoa học phương Tây hiện đại. Là cách mạng bởi vì tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh được chuẩn bị bằng toàn bộ quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam trong và cả trước thế kỷ XX, được xây dựng
trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước chân chính, trên mục tiêu cao cả là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Bởi vậy, Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh không chỉ “hợp lý” mà còn
“hợp đạo lý”, là sự khắc phục quan điểm duy tâm, siêu hình vốn là “nếp nghĩ”
trong các tầng lớp trí thức trước cách mạng, là sự phủ định nhưng có kế thừa
những yếu tố tốt đẹp của tư tưởng biện chứng phương Tây duy lý, chặt chẽ
nhưng có phần cứng nhắc và tư tưởng biện chứng phương Đông uyển chuyển,
mềm dẻo nhưng lỏng lẻo… vào cùng một đối tượng đó là thực tiễn cách mạng
Việt Nam.

Năm là, Trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh hầu như không có các
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật trừu tượng, nhưng các yếu tố đó lại
được thể hiện rất rõ trong cách giải quyết công việc, phong cách làm việc,
trong sách lược, chiến lược của cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn cụ thể,
trong cách đối nhân xử thế, v.v…nghĩa là tư tưởng biệnc chứng Hồ Chí Minh
thâm nhập trong mọi mặt của hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, các khái
niệm, phạm trù biện chứng Hồ Chí Minh đã hoà quyện vào hoạt động của Hồ
Chí Minh và thực tiễn cách mạng nước nhà.


5

5

Phần hai
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
HỒ CHÍ MINH
2.1. Quan điểm thực tiễn trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
C. Mác là người đầu tiên đưa phạm trù “thực tiễn” vào nhận thức luận,
nhờ đó ông đã làm nên cuộc cách mạng thực sự trong tư duy cũng như trong
hoạt động. Tiếp đó Lênin đã phát triển quan điểm của Mác lên một bước
trong việc làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, về
vấn đề chân lý…trên cơ sở khoa học hiện đại. Còn đối với Hồ Chí Minh,
Người không có “phát minh” gì mới về phạm trù thực tiễn cũng như mối quan
hệ giữa lý luận và thực tiễn. Nhưng ngay từ khi còn trẻ Hồ Chí Minh đã bộc
lộ là một con người thực tiễn, con người hành động. Chính thực tiễn cách
mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đã đặt ra những nhu cầu bức thiết khiến cho
Hồ Chí Minh phải luôn trăn trở, suy tư, đi tìm câu trả lời; thực tiễn đó chính là
cơ sở trực tiếp thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Rõ ràng, từ thực tiễn yêu cầu cứu nước, cứu dân mà Hồ Chí Minh đã

đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa MácLênin không phải chỉ để giải quyết vấn đề nhận thức, thoả mãn nhu cầu hiểu
biết cá nhân, mà chính là để giải quyết vấn đề thực tiễn, để tìm con đường cứu
nước, cứu dân, giành độc lập tự do và thống nhất cho dân tộc mình. Do đó,
toàn bộ tư duy của Hồ Chí Minh đều hướng theo nhu cầu thực tiễn đó; vì thế,
Người đã sớm đi đến khẳng định có tính chân lý ngay sau khi tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [9, tr. 314]
Và thực tế đã chứng minh, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ
vang của mình, Hồ Chí Minh luôn lấy thực tiễn của đất nước, lấy những vấn đề


6

6

hiện thức của đời sống dân tộc và của thời đại làm định hướng cho tư duy và
hành động; lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ chủ yếu để
xem xét lý luận, định ra đường lối, lựa chọn con đường và bước đi phù hợp cho
cách mạng Việt Nam; như GS Song Thành đã nhận xét: nhờ đó “cách mạng
nước ta tránh được biểu hiện giáo điều, rập khuôn; đồng thời cũng tránh để
không rơi vào cơ hội, xét lại”. Vì vậy có thể nói, quan điểm thực tiễn được xác
định là quan điểm khởi đầu và cũng là quan điểm cơ bản nhất, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và trước tác của Hồ Chí Minh.
Cũng chính vì thế, có người đã thật đúng khi nhận xét rằng: Hồ Chí Minh là nhà
triết học thực tiễn tiêu biểu, chủ nghĩa duy vật Hồ Chí Minh là chủ nghĩa duy vật
thực tiễn, chủ nghĩa duy vật hành động; biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng
thực hành.
Ở Hồ Chí Minh, Người thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực
hành”…cùng với khái niệm “thực tiễn”. Khái niệm thực tiễn hay thực tế tuy
có nội dung khác nhau, vì thực tế rộng hơn thực tiễn, nhưng trong một số

trường hợp Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn, bởi vì
khái niệm thực tế nhân dân ta đã quen dùng. Ví như, Người nói: Lý luận phải
liên hệ với thực tế, nhưng có lúc Người cũng nói: thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,…
Bằng việc làm cụ thể và những lời giáo huấn, Hồ Chí Minh luôn đề cao
vai trò của thực tiễn, cho dù nhiều lúc nêu cao vai trò của lý luận nhưng bao
giờ Người cũng nhấn mạnh: lý luận phải gắn với thực tiễn, phục vụ cho thực
tiễn. Với Hồ Chí Minh, thực tiễn không chỉ được coi là những công việc cụ
thể, thực tế, hiện thực của cách mạng, mà còn được hiểu như là “thực hành”,
là kinh nghiệm được rút ra từ trong công việc. Người cho rằng, kinh nghiệm
rút ra trong công tác cách mạng, trong hoạt động thực tiễn là rất quý báu;
nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, không phải hễ là kinh nghiệm thì đem áp
dụng, mà phải biết khéo léo lợi dụng kinh nghiệm. Người đã lấy ví dụ: không


7

7

nên thấy người ta đấu tranh giai cấp mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu
tranh, mà không xét đến hoàn cảnh nước mình. Những kinh nghiệm gần gũi
quần chúng của người cán bộ cách mạng là rất đúng và cần học theo, ta phải
kiên quyết thực hành kinh nghiệm đó… Khi đã có kinh nghiệm thì không
dừng lại ở kinh nghiệm mà phải nâng lên thành lý luận. Nhưng lý luận không
phải là lý luận suông mà phải đem áp dụng vào thực tế, đem lý luận ra mà
thực hành. Đồng thời, trong khi thực hành phải rút ra kinh nghiệm, tổng kết
kinh nghiệm để thực hành tốt hơn, và cũng để xây dựng lý luận qua kinh
nghiệm đó.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
– thực tiễn – kinh nghiệm, và đây chính là một sáng tạo của Người về nhận

thức luận mác xít.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù thực tiễn có vai trò to lớn nhưng
không bao giờ và khi nào Người tuyệt đối hoá thực tiễn; ngược lại, Người
luôn đặt thực tiễn trong mối quan hệ biện chứng với lý luận. Bởi theo Hồ Chí
Minh “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc
đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại
đem nó chứng minh với thực tế…”[6, tr. 233]. Điều đó có nghĩa là, lý luận
luôn xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với thực tiễn; thực tiễn và lý luận luôn
thống nhất biện chứng với nhau. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông”[6, tr. 235]. Đây cũng chính là cơ sở để bác bỏ
những quan điểm xuyên tạc của các học giả phương tây khi cho rằng: Hồ Chí
Minh chẳng qua chỉ là nhà thực tiễn cứng nhắc, khô khan; không quan tâm
đến vấn đề lý luận, không phải nhà lý luận.
Mặt khác, khi xác định vai trò quan trọng của thực tiễn đối với lý luận và
nhận thức của con người, Hồ Chí Minh đồng thời chỉ ra rằng, thực tiễn không


8

8

đứng im một chỗ mà luôn luôn vận động; sự vận động của thực tiễn quyết
định sự vận động của lý luận và nhận thức của con người.
2.2. Quan điểm toàn diện trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng có kết cấu nhiều yếu tố liên hệ
chặt chẽ với nhau chứ không phải có kết cấu giản đơn. Để nhận thức đúng sự
vật đòi hỏi phải “để mắt” đến tất cả các mối liên hệ đó. Lênin đã từng lưu ý
chúng ta: Muốn thực sự hiểu biết được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Vì vậy,

theo Lênin “toàn diện” là một nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng, của logíc biện chứng. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và tiếp tục phát triển quan điểm này,
xuất phát từ thực tiễn mà nâng lên thành quan điểm phương pháp luận toàn
diện, thể hiện nội dung rất phong phú trong một hệ thống hoàn chỉnh và được
kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc trọng điểm, thiết thực. Đây là nguyên tắc cơ
bản phản ánh phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh trong xem xét, đánh
giá, giải quyết công việc. Thông qua hoạt động thực tiễn của Người, nguyên
tắc này đã được thể hiện ở mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Là nhà chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn
xem xét, đánh giá xã hội trên cơ sở phân tích toàn diện các lĩnh vực cả chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; cả quá khứ, hiện tại và tương lai; cả truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế… Trong xem xét, đánh giá con người, Hồ Chí
Minh không chỉ luôn chú ý đến các yếu tố cơ bản như: khả năng nhận thức và
trình độ ý thức; tư tưởng và tình cảm; đức và tài; lời nói và hành động, mặt
mạnh và mặt yếu…, mà còn xem xét toàn diện các mối quan hệ cá nhân, tập
thể và cộng đồng. Người thường nhắc nhở cán bộ rằng, trong công tác phải có
cái nhìn toàn cục, tránh thiên lệch, chủ quan, phiến diện, cục bộ… Khi đánh
giá sức mạnh trong so sánh lực lượng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tất cả các
yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp như: chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự…
cả sức mạnh vật chất và tinh thần; cả sức mạnh truyền thống và hiện tại; cả


9

9

sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; cả thế và lực; cả thiên thời, địa lợi và
nhân hoà…, đồng thời Người còn chú trọng đến sự chuyển hoá của nó trong
quá trình thực hiện vận động đấu tranh. Đặc biệt Người đã đánh giá đúng vai
trò, vị trí của từng yếu tố và sự tác động biện chứng của các yếu tố đó trong
một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cả thế giới, cả xã hội loài người là
một hệ thống, trong đó các quốc gia, các tầng lớp xã hội, các bộ phận khác
nhau của xã hội…đều liên quan với nhau. Do vậy, Hồ Chí Minh luôn xem
Việt Nam là một bộ phận của thế giới, của Châu Á và cách mạng Việt Nam
luôn là một bộ phận của cách mạng thế giới. Khi lựa chọn con đường cách
mạng vô sản, Người đã xem Việt Nam là một thành viên trong đại gia đình
quốc tế vô sản. Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn thấy rất rõ mối liên hệ chặt chẽ
giữa những người lao động Việt Nam và những người lao động Pháp, giữa
nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp trong khi thực dân Pháp thi hành các
chính sách thực dân ở nước ta. Đó chính là cách nhìn xa, trông rộng, không
định kiến, không hẹp hòi. Và chính từ cách nhìn bao quát đó mà Hồ Chí Minh
luôn luôn có quan điểm toàn diện khi đánh giá kẻ thù, khi nhìn nhận các lực
lượng của cách mạng, cũng như khi nhìn nhận các vấn đề xã hội, khi giải
quyết công việc của cả nước… Ví như, trên nền tảng của quan điểm toàn
diện, khi xem xét các lực lượng của cách mạng nước nhà, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: mọi người Việt Nam đều là “con lạc cháu hồng”. Ai cũng chịu cái khổ, cái
nhục của hoạ mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người, không
phụ thuộc vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế hay năng lực cá nhân
“Việc cứu nước là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác
một phần trách nhiệm”[6, tr. 198]. Cũng với quan điểm và tinh thần đó, trong
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Người đã kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có


10

10

súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,

thuổng, gậy gộc”[5, tr. 480]. Chính từ cái nhìn toàn diện như vậy đã làm cho
Hồ Chí Minh khai thác được mọi sức mạnh, mọi tiềm năng của khối cộng
đồng dân tộc, quy tụ non sông về một mối. Với quan điểm toàn diện ấy, Hồ
Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự
lực cánh sinh và đã thu được những thắng lợi rực rỡ.
Mặc dù luôn nắm vững tính toàn diện, hệ thống, song Hồ Chí Minh lại
rất chú trọng đến tính cụ thể, thiết thực, trọng điểm. Làm việc gì Người cũng
nhấn mạnh là phải cụ thể, có trọng điểm, thiết thực, nói được, làm được và dế
đến được với mọi người. Điều đó có nghĩa là, toàn diện ở Hồ Chí Minh không
đồng nghĩa với lan tràn, dàn đều, ôm đồm, tham lam…
Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu trong xem xét, giải quyết
công việc phải nắm vững phương châm toàn diện, hệ thống; không chỉ phải
biết nhìn xa, trông rộng, mà còn phải luôn chú ý xem xét các yếu tố có tính
trọng điểm, cụ thể, thiết thực. Kế hoạch đề ra một thì biện pháp tổ chức thực
hiện phải mười, chiến lược thì phải vươn ra xa nhưng sách lược phải rất cụ
thể và chu đáo. Người căn dặn: “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ. Kiên quyết
không ngừng thế tấn công”[4, tr. 287]. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng luôn phê
phán cách xem xét, đánh giá, giải quyết công việc một cách phiến diện, chung
chung, thiếu cụ thể, không thiết thực. Sinh thời, Người thường đi kiểm tra và
nhận thấy Nghị quyết lãnh đạo của nhiều địa phương giống như Nghị quyết
của Trung ương, không sát thực với yêu cầu thực tiễn của địa phương mình.
Từ đó, Người yêu cầu Nghị quyết của các địa phương cần phải tập trung giải
quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra trong hiện tại. Một sự thật sinh động
chứng minh cho vấn đề này là: vào những ngày đầu của chính quyền cách
mạng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, trước tình thế cách mạng
“ngàn cân treo sợi tóc” nhưng trong buổi họp đầu tiên của chính phủ, Hồ Chí
Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cụ thể, thiết thực. Về sau, sáu nhiệm vụ đó được


11


11

khái quát thành ba nhiệm vụ lớn: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm”, đã được mọi người, mọi cấp quán triệt và thực hiện thắng lợi.
Tóm lại, toàn diện - quan điểm có tính phương pháp luận của Hồ Chí
Minh về vấn đề này đã trở thành phương pháp, phong cách của Người trong
xem xét, giải quyết mọi công việc; được thể hiện rất rõ, rất riêng, rất toàn
diện, không thiên về cái nào – phương pháp đó vừa bao quát toàn cục lại vừa
nắm cái chính yếu, nắm bắt cái cơ bản để đi từ bộ phận đến cái toàn thể, từ
điểm đến diện làm cho việc giải quyết vấn đề vừa triệt để vừa được tiến hành
từng bước thật vững chắc.

2.3. Quan điểm lịch sử – cụ thể trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
Để nắm bắt chính xác bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng không chỉ cần có quan điểm toàn diện, hệ thống và trọng điểm mà
không thể thiếu cách nhìn khách quan, lịch sử – cụ thể. Ở Hồ Chí Minh, cùng
với các quan điểm khác thì quan điểm lịch sử – cụ thể luôn được quán triệt và
thể hiện sâu sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động.
Như đã phân tích và khẳng định ở trên, Hồ Chí Minh là người Việt Nam
đầu tiên nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin (và cũng là người đầu tiên truyền bá
nó vào Việt Nam), nhưng Hồ Chí Minh không giáo điều mà nghiên cứu chủ
nghĩa Mác – Lênin trên tinh thần khoa học, bằng quan điểm lịch sử – cụ thể. Hồ
Chí Minh nhận thấy rằng sự phát triển lịch sử - kinh tế – xã hội Việt Nam không
giống ở phương Tây. Người nói: “Mác cho ta biết rằng sự tiến triển của các xã
hội trải qua ba giai đoạn: Chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản và trong
mỗi giai đoạn ấy đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng. Các
dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không? Hoặc: cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”[3, tr. 465]
Lý do của sự khác nhau đó – cả về chế độ xã hội, cả về đấu tranh giai cấp –

là do “lịch sử Châu Âu” khác “lịch sử Châu Á”, lịch sử phương Tây khác lịch sử


12

12

phương Đông. Chính Mác cũng đã thừa nhận có một “phương thức sản xuất
Châu Á” nhưng ông chưa có thời gian nghiên cứu phương thức đó. Và Hồ Chí
Minh đã củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, tức là Người đã xem xét
chủ nghĩa Mác trên nguyên tắc lịch sử – cụ thể. Tiếp tục cái nhìn “lịch sử – cụ
thể” đó, Hồ Chí Minh dự báo: “Mai đây khi chủ nghĩa tư bản phương Tây làm
đổi thay phương Đông thì đấu tranh giai cấp có trở nên quyết liệt không? Đại thể
là có, nếu xét gương của Nhật Bản”[3, tr. 465].
Về giai cấp, theo Hồ Chí Minh cấu trúc giai cấp ở phương Đông cũng
khác phương Tây; do khác nhau về cấu trúc kinh tế nên cũng khác nhau về đấu
tranh giai cấp. Đề cập vấn đề này, Hồ Chí Minh viết: Ấn Độ hay Trung Quốc về
mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như
thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”. Còn đối với
người An Nam, tình hình cũng tương tự. Người lao động khi đó chưa giác ngộ
giai cấp, “nhẫn nhục và vô tổ chức”, địa chủ thì nhỏ bé, tư sản thì bị chèn ép,
công nhân không có công đoàn…Cuộc đấu tranh giai cấp cụ thể ở Việt Nam là
“giảm thiểu” và không giống ở phương Tây.
Tầm nhìn “lịch sử – cụ thể” đó chính là khởi nguyên của những tư
tưởng đúng đắn để xây dựng con đường cho cách mạng Việt Nam, trong xác
định đường lối kháng chiến kiến quốc; xây dựng mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, giữa cách mạng dân tộc và cách mạng XHCN. Ví như, khi miền Bắc
từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào thời kỳ quá độ
lên CNXH, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Chúng ta phải dùng những phương
pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên CNXH….Tuy chúng ta đã

có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng
không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta
có những đặc điểm riêng của ta.
Không có chân lý trừu tượng, chung chung, mọi chân lý đều cụ thể. Hồ
Chí Minh là người nắm vững nguyên lý ấy và đã vận dụng vào mọi lĩnh vực của


13

13

cách mạng Việt Nam, cả trong kháng chiến chống ngoại xâm, cả trong kiến quốc
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Sức mạnh của biện chứng
Hồ Chí Minh chính là áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và các hệ thống tư tưởng
tiến bộ của thế giới vào Việt Nam mà vẫn thấy là của Việt Nam, là của Hồ Chí
Minh; bởi lẽ, Hồ Chí Minh đã vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận: Lịch
sử – cụ thể, lịch sử – lôgíc, hệ thống – cấu trúc trong mọi công việc của cách
mạng cũng như của đời sống xã hội một cách nhuần nhuyễn. Đi theo chủ nghĩa
Mác – Lênin, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã biết rút ra từ học thuyết cách mạng và
khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết, phù hợp cho từng giai đoạn trước
mắt cảu cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng nước
nhà, đó là: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con
người; hay nói cách khác, từ độc lập dân tộc tiến lên CNXH.
2. 4. Quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái mới.
Quan điểm phát triển là nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, đó
cũng là quan điểm cơ bản của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí
Minh, quan điểm này được vận dụng, phát triển phong phú, gắn với sự đổi mới,
sự vận động và phát triển không ngừng của cách mạng. Người luôn tỏ rõ sự sâu
sắc và tinh tế của một con người có tư tưởng đổi mới, có đầu óc cách tân, có

năng lực và bản lĩnh sáng tạo lớn trong tư duy và hành động. Đổi mới và sáng
tạo để thực hiện mục tiêu phát triển là quan điểm có tính phương pháp luận đặc
sắc của Hồ Chí Minh. Quan điểm này thể hiện rõ nét trên những vấn đề sau đây:
Một là, Quan điểm phát triển ở Hồ Chí Minh luôn được gắn chặt với tư
tưởng giải phóng, bởi vì, một khi được giải phóng mới có điều kiện để phát
triển. Theo Hồ Chí Minh, trước hết là giải phóng dân tộc mình ra khỏi tình
cảnh nô lệ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến; rộng hơn là giải
phóng tất cả các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên thế giới. Nhờ biết vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời biết xuất phát từ lịch sử,


14

14

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ đặc điểm của thời đại mà Hồ Chí Minh đã
vạch ra được đường lối cứu nước đúng đắn, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân ta đi đến thành công.
Hai là, có thể thấy một trong những quan niệm tiêu biểu của Hồ Chí
Minh về xã hội tương lai dưới ánh sáng của tiến bộ và phát triển, đó là chế độ
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính Người đã phác thảo ra những nét
lớn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo cách diễn giải mộc mạc nhưng sâu
sắc: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”[8, tr. 226]. “Chủ
nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc”[9, tr. 17]. Tóm lại, chủ nghĩa xã hội là: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” [10, tr. 591]. Những quan niệm nêu
trên của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã góp phần to lớn đưa dân tộc ta
vượt qua được những khó khăn ban đầu với những sai lầm ít cực đoan nhất,
đã tránh được cho dân tộc những thử thách khốc liệt không đáng có, những đổ

vỡ mất mát không cần thiết, nhờ đó chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã vượt qua
được cơn bão táp của thế kỷ, đứng vững và tiếp tục phát triển như ngày nay.
Ba là, Hồ Chí Minh luôn nắm chắc quy luật vận động và xu hướng phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhạy cảm với cái mới, tin tưởng ở cái mới,
bồi dưỡng và phát huy cái mới.
Nhờ nắm vững quy luật và xu hướng phát triển của cách mạng, của xã
hội và của con người, nên Hồ Chí Minh luôn tin tưởng, lạc quan vào tương lai
tươi sáng của cách mạng, vào sự phát triển của xã hội và của mỗi cá nhân.
Đây là cơ sở để Người có được những dự đoán chính xác nhiều sự kiện trọng
đại của đất nước sẽ diễn ra trong tương lai. Điều siêu phàm này đã khiến cho
nhân dân ta và cả nhân dân thế giới vô cùng khâm phục.


15

15
Thật vậy, trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ những năm đầu, Hồ

Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nay tuy châu chấu đá voi, nhưng mai voi
sẽ bị lòi ruột ra”. Trong những ngày vô cùng ác liệt của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Người dạy: “Còn non, còn nước, còn người. Thắng giặc Mỹ ta
sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” và: “Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơm to đẹp hơn”[11, tr. 108]. Những điều nêu trên, cùng với lịch trình
“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, v.v.. là những dự đoán thiên tài
của Hồ Chí Minh, đã diễn ra trên thực tế đúng như vậy.
Bốn là, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến cách tân. Người định nghĩa: “cách
mạng là đổi mới” và nhấn mạnh: “Vì thế, xã hội và con người cũng phải luôn
đổi mới, không đổi mới là lạc hậu”. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
xây dựng và bồi dưỡng nhân tố mới, phát hiện trước những phong trào hiện

thực và ủng hộ, tạo điều kiện để nó liên tục phát triển. Người đã trực tiếp phát
động các phong trào: “Đời sống mới”, “Người tốt, việc tốt”, xây “Làng kiểu
mới”, “Xã kiểu mới”…, đồng thời tổ chức giương cao những ngọn cờ: “Hai
tốt” trong giáo dục, “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ
nữ… lấy thi đua làm động lực giải quyết mâu thuẩn để phát triển: “Người
người thi đua, ngành ngành thi đua. Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.
Năm là, Hồ Chí Minh quan niệm, phát triển phải dựa trên cơ sở biết kế
thừa và biết xử lý mối quan hệ cũ- mới trong đổi mới, cần kiên quyết phê
phán mọi biểu hiện lạc hậu, bảo thủ. Người vạch rõ: “Không phải cái gì cũ
cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ. Cái gì
cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ
mà tốt thì phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”[6, tr. 94].
Cũng theo Hồ Chí Minh, logic phát triển không chỉ được thể hiện ở sự trung
thành và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, mà còn phải nâng lên tầm cao mới
để luôn thích ứng với điều kiện hoàn cảnh. Người từng nói: “Tình hình mới


16

16

đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm mới, sách lược mới… Trước
tình hình mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ”[7, tr. 315].
Sáu là, Độc lập, tự chủ, sáng tạo cũng là quan điểm phát triển có tính
chất phương pháp luận của Hồ Chí Minh được thể hiện xuyên suốt ở Người từ
lúc chọn hướng đi tìm đường cứu nước, đến việc xác định lực lượng, động lực
chủ yếu của cách mạng là: “Lấy sức ta mà giải phóng cho ta”, “Các dân tộc bị
áp bức có thể đứng lên làm cách mạng giải phóng cho mình và qua đó tác
động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc”… Tuy nhấn mạnh độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường nhưng ở Hồ Chí Minh không hề có biểu hiện của quan

điểm dân tộc hẹp hòi, bài ngoại, mà trái lại, Người biết tranh thủ tối đa sự
viện trợ quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế. Ngay từ những năm đầu thành lập
Nước, người đã nói: “Việt Nam là bạn của tất cả các nước dân chủ”.
Có thể khẳng định, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên thực sự
“mở rộng tầm nhìn” đi năm châu bốn biển, biết nhiều thứ tiếng, tiếp thu được
nhiều tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm làm giàu cho trí tuệ của mình để hoàn
thành sự nghiệp cứu dân, cứu nước, mà vẫn giữ được truyền thống, cốt cách,
bản sắc của con người Việt Nam. Đây cũng là biểu hiện cụ thể, sinh động, là
kết quả tất yếu của quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái mới có tính
phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Tóm lại, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là sự phản ánh một cách tài
tình và sâu sắc biện chứng khách quan vốn có của cách mạng Việt Nam kể từ
thế kỷ XX. Đó không chỉ là sự phản ánh mà còn là sự “rút ra”, sự vận dụng
những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy
vật vào hiện thực cụ thể, biến đổi và chuyển hoá không ngừng của thực tiễn
cách mạng Việt Nam, xã hội Việt Nam. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
xem xét một cách tổng quát cách mạng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
thế giới; xem xét sự việc, sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, lịch sử – cụ
thể và vận động, phát triển.


17

17

Phần ba
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
HỒ CHÍ MINH VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, và nhân dân ta
đang tiến hành thực chất là một cuộc cải biến cách mạng về mọi mặt của đời

sống xã hội. Đổi mới là quá trình vận động của tư duy và của hoạt động thực
tiễn mang ý nghĩa cách mạng sâu sắc. Những thành tựu của công cuộc đổi
mới hơn 15 năm qua đã chứng tỏ rằng, chủ trương, đường lối, chính sách, nội
dung và phương pháp đổi mới của Đảng là đúng đắn. Cơ sở của đường lối đổi
mới đó chính là thực tiễn cách mạng Việt Nam, là tinh thần cách mạng, sáng
tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy đã đi xa trước ngày đất nước thống nhất,
trước khi Đảng ta khởi sự công cuộc đổi mới, nhưng những tinh hoa của tư
tưởng Hồ Chí Minh mà cốt lõi là những tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh thì
vẫn đang soi đường, chỉ dẫn cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện
nay.
Để đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhằm nhanh chóng đưa đất nước ta tiến
những bước vững chắc lên CNXH, vấn đề có tính nguyên tắc và ý nghĩa
phương pháp luận sâu sắc là phải nắm vững quan điểm thực tiễn, quan điểm
toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể và quan điểm phát triển trong tư tưởng
biện chứng Hồ Chí Minh. Cụ thể là:
Thứ nhất, Vận dụng sáng tạo quan điểm thực tiễn trong tư tưởng biện
chứng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới.
Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chí Minh về quan điểm thực tiễn: “Làm
cách mạng là phải tuỳ thời, tuỳ thế, biết vận dụng thời và thế, biết sáng tạo
thời và thế”[2, tr. 23]. Đại hội VI đã đề ra phương châm: “Nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” và bắt tay ngay vào những công


18

18

việc cụ thể, mà trước hết là nghiêm túc kiểm điểm để tìm ra sai lầm, khuyết
điểm trong chủ trương, đường lối và cả trong phương pháp thực hành. Để

khắc phục những khuyết điểm đó, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước trên nguyên tắc:
Phải dựa trên cơ sở thực trạng đất nước và tình hình thế giới. Bởi lẽ,
đường lối đổi mới của Đảng ta không có tiền lệ trong lịch sử, do vậy con đường
đó chỉ có thể được hoạch định trên cơ sở bám sát hiện thực đất nước, thực trạng
kinh tế - xã hội Việt Nam, và những biến động hiện thực của tình hình thế giới.
Trên những nền tảng hiện thực đó, chúng ta vừa làm vừa phát hiện cái sai để
kịp thời sửa chữa, nhận chân được cái đúng để phát huy và vững bước đi lên.
Như vậy, con đường cách mạng Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới, “vừa đứng
trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng vừa phải đối mặt với những nguy cơ,
thách thức không thể xem thường”. Do đó, chúng ta phải vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, bám sát vào thực tiễn, dám nghĩ dám làm trên tinh thần “cách mạng
tiễn công, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên mạnh mẽ”.
Có đường lối đúng, chính sách phù hợp nhưng biện pháp thực hiện phải
sát thực, trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn. Nếu như
từ hiện thực đất nước mà đề ra được đường lối, chính sách đúng thì cũng trong
hiện thực sẽ cung cấp cho chúng ta biện pháp, cách thức, phương tiện thực hiện
đường lối, chính sách đó. Vì vậy, Đảng ta hết sức coi trọng sáng kiến của các
địa phương, của cơ sở, của nhân dân (trong đó bài học khoá 10, khoán 100 là
những ví dụ điển hình). Luôn có những hội nghị tổng kết kinh nghiệm, đề xuất
biện pháp, sửa chữa cái sai, nhân rộng cái đúng; nhưng cơ bản và quyết định
vẫn phải nhận thức đúng thực trạng đất nước và tình hình thế giới.
Thứ hai, Đổi mới toàn diện nhưng tuỳ từng thời kỳ mà xác định đúng
trọng tâm, trọng điểm
Đổi mới toàn diện là đổi mới từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực
tiễn. Là đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; đổi


19


19

mới lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng,
v.v… trong đó, đổi mới tư duy phải đi trước một bước, đổi mới kinh tế phải là
nhiệm vụ trọng tâm. Đổi mới toàn diện cũng có nghĩa là đổi mới mọi mặt hoạt
động của Đảng, Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm đó là quan
điểm nhất quán được nêu ra ngay từ Đại hội VI và được quán triệt xuyên suốt
trong các lần đại hội sau, nhưng mức độ cấp thiết có những nét đậm nhạt khác
nhau, và có những điều chỉnh cho phù hợp. Tuỳ từng giai đoạn khác nhau của
sự phát triển đất nước mà xác định đâu là trọng tâm, trọng điểm. Chẳng hạn,
Đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới toàn diện nhưng đã nhấn mạnh:
“Để làm chuyển biến tình hình, Đại hội lần thứ VI này phải đánh dấu sự đổi
mới của Đảng ta về tư duy, phong cách tổ chức cán bộ. Đó là đòi hỏi bức thiết
nhất của đất nước”, hoặc “đổi mới trước hết là đổi mới tư duy”, mà đổi mới tư
duy thì “trước hết là tư duy kinh tế”. Phải nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Bước vào Đại hội VII, khi đất nước đang từng bước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế – xã hội, nhưng trước sự biến động phức tạp ở Liên xô và Đông
Âu thì Đảng ta đã bước đầu phác hoạ ra mô hình XHCN với các đặc trưng bao
quát cả sáu lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, con người, dân tộc, quốc tế.
Đây là kết quả bước đầu đổi mới tư duy về XHCN, trong đó xác định đổi mới
tư duy kinh tế là chủ yếu với tư tưởng chủ đạo là lấy CNH, HĐH làm nhiệm vụ
trung tâm, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Đại hội VIII của Đảng còn nhấn mạnh vai trò quan trọng của đổi mới
kinh tế và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, theo đó Đảng
ta xác định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.
Như vậy, trọng tâm của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là đổi mới
kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH. Đổi mới chỉ đạt được thắng lợi khi đường lối



20

20

đổi mới thể hiện được tính toàn diện, tính đồng bộ nhưng không dàn đều mà
phải có trọng tâm, trọng điểm; phải biết gắn kết các lĩnh vực đổi mới để hỗ trợ
cho nhau, bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Thứ ba, Quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể vào đổi mới nhằm đáp
ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Tuy đất nước ta đã vượt qua được khủng hoảng kinh tế – xã hội và đã bắt
đầu phát triển, chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhưng cho dù phải
thích nghi với hoàn cảnh mới thì công cuộc đổi mới của chúng ta vẫn phải
đảm bảo nguyên tắc hàng đầu là “giữ vững mục tiêu định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Song, mục tiêu này cần phải được cụ thể hoá trong điều kiện và hoàn
cảnh hiện nay của đất nước, được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực của công
cuộc đổi mới, điển hình nhất là trong lĩnh vực CNH, HĐH. Hồ Chí Minh đã
dạy “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, rằng mục tiêu thì không thay đổi nhưng sách
lược thì phải linh hoạt, biện pháp thì tuỳ từng giai đoạn lịch sử mà thay đổi
cho phù hợp. Vì vậy, ngày nay khi cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật trên
thế giới diễn ra như vũ bão, cuộc cách mạng thông tin, sinh học, công nghệ…
đã thúc đẩy các nước công nghiệp phát triển hiện đại hoá nền sản xuất, làm
cho năng suất lao động tăng trưởng không ngừng. Đó chính là điều kiện lịch
sử – cụ thể và khách quan để nước ta kết hợp CNH với HĐH.
Hội nghị Trung ương 7 khoá VII (1994) đã đề ra đường lối CNH, HĐH là:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội, là quá trình chuyển đổi từ lao
động thủ công sang sử dụng máy móc và công nghệ tiên tiến, nhằm tạo ra năng
suất lao động cao. Đến Đại hội VIII, Đảng ta xác định: đưa CNH, HĐH thành

nhiệm vụ trung tâm của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, của công cuộc
đổi mới đất nước, cụ thể là đưa công cuộc đổi mới đất nước lên tầm cao mới, đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn


21

21

minh, vững bước đi lên CNXH. Tại Đại hội IX và X của Đảng, trên cơ sở những
thắng lợi vượt bậc của cách mạng nước nhà, Đảng ta quyết định: Tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân, bằng nội lực của cả dân
tộc, kết hợp với ngoại lực mà thời đại khoa học – công nghệ phát triển đem lại.
Như vậy, do tính lịch sử – cụ thể của đất nước và của thời đại mà Đảng
ta luôn xem đẩy mạnh CNH, HĐH như là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam.
Bốn là, Đổi mới – phát triển trên tinh thần phủ định – kế thừa những
thành tựu và kinh nghiệm của cách mạng trong những năm qua
Có thể nói, đường lối và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội được đề ra
trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã luôn quán triệt
quan điểm phát triển của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh. Đó là sự kế thừa –
phát triển toàn bộ tư tưởng và thành quả của cách mạng Việt Nam đã đạt được
hơn nửa thế kỷ qua, nhất là thành quả của hơn 15 năm đổi mới; cụ thể là:
Đổi mới, bản thân nó đã là một quá trình phát triển biện chứng. Vào
những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã
hội, trên thế giới có nhiều thay đổi bất lợi cho phong trào cách mạng, nên
Đảng ta đề ra đường lối đổi mới với nhiều chính sách mới phủ định biện
chứng những chính sách trong thời kỳ chiến tranh, thời kỳ bao cấp; đồng thời
kế thừa những thành tựu mà thời kỳ đó đã đạt được. Tuy nhiên, do không năm

được tư tưởng biện chứng trong sự phát triển nên có người cho rằng, đổi mới
là từ bỏ mục tiêu XHCN, là theo con đường TBCN. Nhưng trên thực tế không
phải như vậy; đổi mới của ta về bản chất là phát triển, đổi mới nhưng vẫn giữ
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, phát triển trước hết là quá trình phủ định biện chứng trong tư
duy, xây dựng tư duy mới phù hợp với điều kiện mới. Khi đề ra đường lối đổi
mới, Đảng ta nhận thức rằng, đổi mới tư duy phải đi trước một bước, mà đổi
mới tư duy thì phải dựa chắc trên phương pháp tư duy biện chứng duy vật để


22

22

xem xét lại toàn bộ cách thức, nội dung của tư duy cũ. Nắm vững quan điểm
phát triển trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Đảng ta chỉ rõ đổi mới –
phát triển thì trước hết là phát triển sản xuất vật chất, phát triển lực lượng sản
xuất, mà trong đó động lực của sự phát triển là phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực. Do đó, phải đầu tư thích đáng cho giáo dục - đào tạo, khoa học
– công nghệ và các chính sách xã hội khác,…quan đó nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, đào tạo ra những con người có đủ
năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới.
Kết luận
Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh. Về bản chất đó là tư tưởng biện chứng duy vật
mác xít được vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, đồng thời nó có sự kết hợp tinh tế với tư tưởng biện chứng phương
Đông; trong đó nổi bật lên là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính cương nghị
về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược…Tư tưởng Hồ Chí
Minh do đó mà có vai trò hết sức quan trọng và thiết thực đối với cách mạng

Việt Nam nói chung và với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, VII, VIII, IX, X, Nxb Sự thật, H. 1977; Nxb CTQG, H. 1986
– 2006.
2. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh – Một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, tr. 23.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 1995.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 1995.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 1995.


23

23
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. 1995.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 1996.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H. 1996.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H. 1996.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 1996.
12. Lê Hữu Nghĩa, Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, H.
2000.



×