Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN điểm DUY vật về LỊCH sử TRONG tác PHẨM hệ tư TƯỞNG đức, ý NGHĨA đối với CUỘC đấu TRANH tư TƯỞNG lý LUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.56 KB, 15 trang )

QUAN ĐIỂM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ TRONG TÁC PHẨM
“HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH
TƯ TƯỞNG - LÝ LUẬN HIỆN NAY
Một trong những phát kiến được xem là thành tựu vĩ đại nhất của triết học nhân loại
là Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cống hiến này của các công
lần đầu tiên được trình bày trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”. Ở trong tác phẩm này tuy
chưa phải là sự khái quát một cách đầy đủ và có hệ thống về chủ nghĩa duy vật lịch sử,
nhưng những nội dung cơ bản của nó như: vấn đề con người, mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, v.v…đã được Mác và Ăngghen trình bày khá toàn
diện và hoàn chỉnh.
1. Vài nét sơ lược về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
C.Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm này (nhưng Mác viết là chủ yếu) trong
giai đoạn đang chuyển lập trường từ thế giới quan duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang thế giới quan duy vật và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Viết tác phẩm này cũng
chính là một bước chuẩn bị cho tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển rất mạnh mẽ, và đã bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt và quyết liệt. Mặt khác phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân phát triển mạnh mẽ nổi bật là: Cách mạng tư sản ở các nước Châu Âu đã nổ
ra ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII (cách mạng tư sản Anh; cách mạng tư sản
Pháp 1789…). Trong quá trình vận động của mình, cách mạng tư sản đã bộc lộ rất nhiều
điểm yếu. Trong khi đó, nước Đức những năm 40 của thế kỷ XIX, mới đang ở đêm trước
của cách mạng tư sản. Trung tâm của cách mạng chuyển về Đức. Song trong nội bộ nước
Đức, giai cấp tư sản lại yếu hèn cả về kinh tế lẫn chính trị. Thực tế đó đặt ra câu hỏi giai
cấp nào sẽ lãnh đạo cách mạng Đức? Mặt khác, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử
của mình và trong tất cả các giai cấp hiện tại đang đối mặt với giai cấp địa chủ phong kiến
chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất. Đương nhiên để hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình, giai cấp vô sản không những cần phải phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng, mà còn phải có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học.



2

2

Sống trong hoàn cảnh lịch sử đó, C.Mác và Ph. Ăngghen nhận thấy hệ tư tưởng cũ
không còn đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, nó đã trở nên lỗi thời; phong trào cách
mạng lúc này đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng mới trang bị cho giai cấp công nhân để nó
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Tình hình phát triển lý luận ở nước Đức lúc này, phong trào công nhân đang chịu ảnh
hưởng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanhximông, Phuriê và Ôoen; triết
học của Hêgen, Phoiơbắc. Nhu cầu của phong trào cách mạng lúc này là: đấu tranh nhằm
gạt bỏ ảnh hưởng của các loại tư tưởng phản động, đồng thời phải xây dựng một lý luận
khoa học về xã hội. Muốn thực hiện điều đó, phải phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng,
phải tiến hành lược bỏ những tư tưởng sai lầm của các nhà triết học cũ, phải có một thế
giới quan duy vật biện chứng... Điều đó, đã thôi thúc C.Mác và Ph.Ăngghen tiến hành một
cuộc cách mạng về thế giới quan, giải phóng cho nhân dân thoát khỏi ách nô lệ của tinh
thần. Mặt khác, năm 1844 Phoiơbắc tự tuyên bố là nhà cộng sản, vì thế các thế lực thù địch
dấy lên phong trào chống chủ nghĩa cộng sản, từ đó hai ông đã quyết định cùng nhau viết
chung tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”- đây là tác phẩm bút chiến, nhằm đấu tranh, bảo vệ và
phát triển lý luận, tư tưởng chủ nghĩa cộng sản. Thông qua việc, các ông phê phán những
học thuyết triết học ở Đức đương thời và các trào lưu tư tưởng “chủ nghĩa xã hội chân
chính”, đồng thời kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại, để trình bày thế giới quan
mới của mình.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, được các ông viết từ tháng 11/1845 đến tháng 4/1846
là cơ bản hoàn thành. Tác phẩm sau này bị những người xã hội dân chủ Đức tìm cách dấu
đi. Mãi đến năm 1932 tác phẩm mới được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức; năm 1937
được xuất bản bằng tiếng Nga.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” được in trong bộ C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập,
tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. tr. 15-793.

2. Cấu trúc và nội dung cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng còn có phụ đề là “Phê phán triết học Đức hiện
đại qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc, B.Bauơ, Stiếcnơ và phê phán chủ nghĩa xã hội
Đức thông qua các nhà tiên tri khác nhau của nó”. Đây là một tác phẩm lớn gồm hai tập:
Tập I: “Phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc,
B.Bauơ, Stiếcnơ” gồm 3 chương:


3

3

Chương I: Về Phoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy
tâm.
Chương II: Thánh Brunô (biệt danh của Bauơ)
Chương III: Thánh Maxơ (biệt danh của Stuyếcnơ).
Tập II: “Phê phán chủ nghĩa xã hội Đức thông qua các nhà tiên tri khác nhau của
nó” gồm 5 chương:
Chương I: Phê phán những cơ sở triết học của “chủ nghĩa xã hội chân chính”.
Chương II và Chương III đến nay không còn.
Chương IV: Trào lưu chủ nghĩa xã hội ảnh hưởng ở Pháp, Bỉ.
Chương V: Phê phán các quan điểm chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản của Cunman.
Trong 2 tập này, phần phê phán Phoiơbắc: các quan điểm triết học của C.Mác và
Ph.Ăngghen được thể hiện một cách tập trung nhất, vì: Trong các tác phẩm trước đây như
“gia đình thần thánh”; “vấn đề do thái”…các ông đã phê phán Bauơ, Stuyếcnơ, còn đối với
Phoiơbắc thì vẫn được ca ngợi. Đến nay, bằng phê phán Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen
làm rõ được quan điểm của mình khác với quan điểm của Phoiơbắc ra sao và các ông đã
xây dựng quan điểm mới đó như thế nào.
Như vậy, qua kết cấu và nội dung của tác phẩm, Mác và Ăngghen muốn chỉ ra rằng,
triết học Mác cũng có tiền đề lý luận là triết học của Hêghen và triết học của Phoiơbắc,

trong đó chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là khâu trung gian giữa triết học của Hêghen và
triết học Mác. Do kế thừa những giá trị triết học trước đó và do khái quát thực tiễn xã hội
cùng với nhận thức khoa học, triết học Mác là hình thức phát triển cao của lịch sử triết học.
3. Quan điểm duy vật về lịch sử của Mác và Ăngghen được trình bày trong tác
phẩm
Trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen đã vạch rõ nội dung của quan niệm duy vật về
lịch sử của mình, phân biệt thế giới quan mới của mình với các quan điểm có trước và
đương thời với các ông. Đây là những quan điểm duy vật mà nhờ đó, lần đầu tiên trong
lịch sử triết học, chủ nghĩa duy tâm đã bị “tống ra khỏi” lĩnh vực xã hội. Trong số các quan
điểm duy vật đó, tiêu biểu phải kể đến các quan điểm cơ bản sau đây:
Một là, Điểm xuất phát của quan điểm duy vật lịch sử là con người hiện thực.


4

4

Những người phê phán triết học Mác thường xuyên tạc rằng khi đi tới quan niệm duy
vật lịch sử, triết học Mác đã xa rời vấn đề con người, “bỏ rơi” con người. Tuy nhiên, sự ra
đời của “Hệ tư tưởng Đức” – tác phẩm đầu tiên trình bày các quan điểm duy vật về lịch sử
đã hoàn thành của Mác và Ăngghen, đã bác bỏ sự phê phán xuyên tạc đó. Các ông chỉ rõ:
con người là tiền đề của lịch sử; do vậy, quan điểm duy vật về lịch sử lấy con người làm
tiền đề xuất phát của mình: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những
tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có
thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những “cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ
và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ…” 1. “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử
nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”2
Rõ ràng, Mác và Ăngghen đã nghiên cứu vấn đề lịch sử xã hội bắt đầu từ việc xác
định các hành vi lịch sử đầu tiên của con người, những hành vi quyết định sự tồn tại và
phát triển của con người, của xã hội loài người, những hành vi không phụ thuộc vào ý

muốn tuỳ tiện của bất kỳ ai.
Vấn đề là ở chỗ, con người với tính cách là tiền đề của lịch sử là con người hiện thực
chứ không phải con người theo quan niệm duy tâm hay trừu tượng siêu hình. Tính hiện
thực của nó được quy định trước hết bởi hoạt động sản xuất vật chất và đó cũng chính là
tiêu chuẩn phân biệt con người với súc vật. Mác và Ăngghen viết: “ Có thể phân biệt con
người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản
thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình” và “như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra đời
sống vật chất của mình”3.
Tuy nhiên, ý nghĩa của hoạt động sản xuất đó không chỉ cần thiết cho sự tồn tại thể
xác của các cá nhân mà còn tạo ra các quan hệ xã hội và phương thức sinh hoạt của họ.
Như các ông chỉ rõ, phương thức con người sản xuất “nó là một phương thức hoạt động
nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự hoạt động của họ, một
phương thức sinh sống nhất định của họ” 4. Cuối cùng, Mác và Ăngghen đã đi đến khẳng
định: “ Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn
1
2
3
4

C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.28.
Sdd, tr. 29.
Sdd, tr. 29.
Sdd, tr. 30.


5

5


những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi
lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng nghìn năm về
trước người ta phải thực hiện…”5
Như vậy, việc nghiên cứu lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người hiện thực, nhưng
điều cơ bản là phải tìm hiểu hoạt động sản xuất vật chất của con người. Quan điểm xem
sản xuất vật chất là cơ sở của toàn bộ đời sống xã hội thành quan điểm lý luận xuất phát
của quan điểm duy vật về lịch sử của Mác và Ăngghen.
Hai là, Về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản và quan hệ sản xuất.
Trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen không những phát tiển toàn diện luận điểm về
vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội, mà lần đầu tiên, hai ông đã
nêu lên tính biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (lúc đó các ông gọi là
hình thức giao tiếp). Đây là một phát hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó soi sáng toàn
bộ hệ thống các phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử đang hình thành.
Trong nội dung này, lần đầu tiên các ông cho rằng phương thức sản xuất phụ thuộc
vào tính chất của tư liệu sinh hoạt, quá trình nghiên cứu phương thức sản xuất ấy không
nên nghiên cứu nó ở mặt tái sản xuất ra con người, mà phải nghiên cứu nó với tư cách là
phương thức (cách thức) hoạt động nhất định của con người, một hình thức hoạt động
không thể thiếu trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Các ông đã viết:
“Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ
thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn
và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo
khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một
phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt
động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ”.6
Trong mỗi thời đại lịch sử có những phương thức sản xuất khác nhau, những phương
thức sản xuất này rất phù hợp với điều kiện cụ thể từng thời kỳ lịch sử, với bản thân con
người trong từng giai đoạn lịch sử ấy, nên nó vừa phản ánh bản chất và trình độ phát triển
của chế độ xã hội-giai đoạn lịch sử đó, vừa nói lên sự ảnh hưởng có tính chất quyết định
đến quá trình phát triển của bản thân mỗi con người; chính vì lẽ đó mà C.Mác đã cho rằng,
5

6

Sdd, tr. 40.
. C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.30.


6

6

khi xem xét, đánh giá thời đại này hơn thời đại khác không phải ở việc họ làm ra cái gì, mà
là xem họ đã làm ra cái đó bằng cách nào và với những tư liệu lao động nào. Trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” hai ông đã viết: “Hoạt động sống của họ là như thế nào thì họ là
như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ
sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào điều đó
phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”.7
Trong phương thức sản xuất, hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn có
mối quan hệ biện chứng với nhau, mối quan hệ đó được các ông gọi là mối quan hệ “song
trùng”. Nghĩa là, trong quá trình sản xuất con người phải luôn đồng thời giải quyết cả hai
mối quan hệ, đó là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa con
người với con người. Các ông viết: “Như vậy là sự sản xuất ra đời sống – ra đời sống của
bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ
cái – biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là
quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là
trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì”8.
Thực chất mối quan hệ giữa con người với tự nhiên chính là biểu hiện của lực lượng
sản xuất trong một phương thức sản xuất nhất định, và mỗi lực lượng sản xuất bao giờ
cũng có hai yếu tố cơ bản thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, không tách rời nhau đó
là tư liệu sản xuất và người lao động (trong đó người lao động luôn giữ vai trò quyết định).
Trong sản xuất người lao động phải giải quyết mối quan hệ với tư liệu sản xuất-lĩnh vực tự

nhiên, các công cụ, phương tiện và đối tượng lao động vừa được lấy từ trong giới tự nhiên,
vừa được con người sáng tạo ra. Ngày nay, nhờ thành tựu của khoa học hiện đại con người
ngày càng sáng tạo ra nhiều tư liệu sản xuất mới, làm phong phú thêm giới tự nhiên và
phục vụ đắc lực hơn cho nhu cầu cuộc sống xã hội. Như vậy, giới tự nhiên vừa là điều kiện
mang lại tư liệu sản xuất cho con người, vừa là môi trường thuận lợi hoặc khó khăn để con
người hoạt động sản xuất; và rõ ràng điều kiện tự nhiên thuận lợi, mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên được giải quyết tốt thì sẽ làm cho nền sản xuất xã hội phát triển và
ngược lại.
Trong quá trình sản xuất (quá trình tác động qua lại giữa con người và tự nhiên) đã
làm nảy sinh mối quan hệ giữa con người với con người-thực chất, đây là biểu hiện của
7. Sđd, tr.30.
8 . Sđd, tr.42.


7

7

quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất-hình thức biểu hiện ra bên ngoài của quá
trình sản xuất. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất lại có ba mặt luôn gắn bó hữu cơ với nhau, đó là
quan hệ giữa con người với con người về sở hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý và
phân công lao động, về phân phối sản phẩm (trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất
giữ vai trò quyết định nhất).
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, được biểu hiện
trong sự tác động qua lại và quy định lẫn nhau giữa quan hệ của con người với tự nhiên và
con người với con người. Nếu quan hệ giữa con người với tự nhiên được giải quyết tốt sẽ
tạo ra quan hệ giữa con người với con người tốt và ngược lại, nếu quan hệ giữa con người
với con người được giải quyết không tốt cũng sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới quan hệ giữa
con người với tự nhiên. “ở đây, cũng như bất cứ nơi nào khác, sự đồng nhất giữa giới tự
nhiên và con người cũng biểu hiện ở chỗ là quan hệ hạn chế của con người với giới tự

nhiên quyết định quan hệ hạn chế của con người với nhau, và quan hệ hạn chế của con
người với nhau lại quyết định quan hệ của con người với giới tự nhiên”.9
Trong thực tiễn đời sống đã cho thấy, nếu con người khám phá, chinh phục và cải tạo
giới tự nhiên theo đúng quy luật khách quan của nó, không làm nghèo nàn đi giới tự nhiên,
mà làm phong phú thêm giới tự nhiên và làm cho giới tự nhiên phục vụ tích cực nhu cầu
đời sống xã hội, thì cũng sẽ tạo ra mối quan hệ tốt hơn giữa con người với con người. Điều
này hầu như chỉ được đảm bảo và phát triển trong những chế độ xã hội ưu việt, xã hội vì
con người, mà thời đại ngày nay chế độ xã hội ấy không thể là xã hội nào khác ngoài xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, xã hội tư bản chủ nghĩa do bản chất
bóc lột của nó, tất cả chỉ vì giá trị thặng dư “m”, nên các nhà tư bản luôn bất chấp quy luật,
bất chấp luân thường đạo lý để làm giàu, kể cả việc đối xử tàn ác với tự nhiên và với người
lao động; chính vì thế mà làm cho mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội
tư bản chủ nghĩa không thể phát triển tốt được. Hiện nay, tuy xã hội xã hội chủ nghĩa còn
đang non yếu, thành tựu đạt được về mọi mặt chưa nhiều, sự khủng hoảng trầm trọng trong
quá trình phát triển theo hình xoáy ốc đã và đang làm cản trở, hạn chế nhiều mặt của chế
độ xã hội mới; song với bản chất ưu việt của nó, giai cấp lãnh đạo và quần chúng nhân dân
thường xuyên quan tâm tới việc giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng
như giữa con người với con người một cách hài hoà; những con người trong chế độ xã hội
này không chỉ biết có khai thác, chinh phục và cải tạo giới tự nhiên, mà còn biết bảo vệ
9

. Sđd, tr.44.


8

8

giới tự nhiên, coi giới tự nhiên như người mẹ hiền của mình. Những năm gần đây hàng loạt
vấn đề mang tính toàn cầu đang gây nên nỗi lo lắng, kinh hoàng cho nhân loại như, thủng

tầng ô zôn, hiệu ứng nhà kính, thiên tai, lũ lụt, bão lốc, sóng thần…Để giải quyết những
vấn đề trên đòi hỏi các quốc gia, dân tộc toàn thế giới phải cùng nhau chung sức tìm cách
khắc phục và ngăn chặn những hành vi xâm hại tới cơ thể giới tự nhiên. Do đó, trong quá
trình sản xuất, loài người muốn có năng suất cao, chất lượng, hiệu quả tốt phải coi trọng
xây dựng và phát triển cả mối quan hệ giữa con người với con người cũng như quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Nói cách khác, chúng ta phải luôn chú trọng giải quyết đúng
đắn chiều sâu của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Cũng trong tác phẩm này, khi bàn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất; Mác và Ăngghen cho rằng, lực lượng sản xuất bao giờ cũng giữ
vai trò quyết định, còn quan hệ sản xuất luôn có tác động to lớn trở lại lực lượng sản xuất.
Quan niệm này của các ông không chỉ biểu hiện đơn thuần là một thế giới quan mới, mà
còn giá trị hơn nữa bởi tính đúng đắn và có cơ sở khoa học của nó. Các ông viết: “Hình
thức giao tiếp – cái mà trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ trước đến nay đều được quyết
định bởi lực lượng sản xuất và đến lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất”. 10 Ở đây các
ông dùng cụm từ “hình thức giao tiếp”, thực chất muốn nói đến quan hệ sản xuất với tư
cách là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của lực lượng sản xuất. Một phát hiện tuyệt vời
nữa của các ông về nội dung này, đó là sự vận động, biến đổi của lực lượng sản xuất đã
làm cho quan hệ sản xuất đến một lúc nào đó trở thành “xiềng xích” trói buộc, cản trở quá
trình phát triển của bản thân lực lượng sản xuất. Quá trình đó đòi hỏi phải xoá bỏ kiểu quan
hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu, thay vào đó là một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp
hơn với lực lượng sản xuất đang phát triển ấy. Các ông đã viết: “Những điều kiện khác
nhau ấy lúc đầu là những điều kiện của sự tự mình hoạt động và sau đó, là trở ngại đối với
sự tự mình hoạt động, thì làm thành, trong toàn bộ sự tiến triển lịch sử, một chuỗi chặt chẽ
những hình thức giao tiếp mà mối liên hệ là ở chỗ người ta thay thế hình thức giao tiếp cũ
đã trở thành một trở ngại bằng một hình thức mới phù hợp với những lực lượng sản xuất đã
phát triển hơn, …hình thức mới này à son tuor (đến lượt nó) lại trở thành trở ngại và lại
được thay thế bằng một hình thức khác”11

10 . Sđd, tr.51.
11 . Sđd, tr.104.



9

9

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mặc dù luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau, nhưng không phải là quan hệ đồng nhất, mà giữa chúng còn có mâu thuẫn biện
chứng-mâu thuẫn của các mặt đối lập trong một phương thức sản xuất. Đó là, mâu thuẫn
giữa yếu tố thuộc về nội dung với yếu tố thuộc về hình thức của một sự vật hiện tượng,
giữa cái thường xuyên vận động, biến đổi với cái ít vận động, biến đổi…Nhưng, để một
phương thức sản xuất nhất định và một nền sản xuất xã hội tồn tại và phát triển được, thì
quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, phải luôn đề ra mục tiêu, tiêu chí phù hợp cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tất cả những vấn đế này đều mang tính khách quan và phổ biến ở mọi thời kỳ lịch sử xã
hội loài người. “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ – tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ”. 12 Nếu xét biểu hiện mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất ở mặt xã hội, thì đó là mâu thuẫn giữa lực lượng tiến bộ và lực lượng bảo
thủ, trì trệ. Do vậy, mâu thuẫn về mặt kinh tế luôn được coi là cội nguồn, gốc rễ của mọi
mâu thuẫn xã hội, là một trong những động lực sâu xa của sự vận động và phát triển của xã
hội. Bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, chế độ xã hội nào muốn phát triển không thể không giải
quyết mâu thuẫn khách quan này. Theo Mác và Ăngghen: “Tất cả mọi xung đột trong lịch
sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp” 13.
Việc giải quyết mâu thuẫn đó không nhất thiết phải đợi đến lúc nó diễn ra gay gắt, mà phải
là giải quyết thường xuyên và kết hợp tốt với đột biến để kịp thời tạo ra sự nhảy vọt về
chất. Bởi vì, “ngoài ra, không cần thiết là mâu thuẫn đã phải đẩy đến cực độ ở trong một
nước, mới gây ra những xung đột ở trong nước ấy”. 14 Đặc biệt trong xã hội có giai cấp,
những mâu thuẫn này càng gay gắt, phức tạp; muốn giải quyết các mâu thuẫn đó không

còn con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh cách mạng - một cuộc cách mạng xã
hội. “Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao
tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước cho đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ
sở của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng”.15 Vấn đề mâu thuẫn
biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
12 . C.Mác và Ph.ăngghen
13 . Sđd, tr.107.
14 . Sđd, tr.107.
15. Sđd, tr.107.

toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H 1995, tr.14-15


10

10

một cuộc cách mạng xã hội còn được C.Mác bổ sung, làm rõ hơn khi ông cho rằng: “Tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những
quan hệ sản xuất đó – mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các
lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bất đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.16
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là loại mâu thuẫn
làm triệt tiêu khả năng phát triển và vai trò của nhau, mà là mâu thuẫn trong mối quan hệ
biện chứng của các mặt đối lập trong một phương thức sản xuất nhất định. Do đó, mâu
thuẫn này chỉ có thể là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển của nhau và của nền sản xuất
xã hội. Chính sự tác động qua lại biện chứng ấy của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
đã tạo thành quy luật khách quan, chi phối toàn bộ quá trình vận động và phát triển của

mọi chế độ xã hội, mọi thời kỳ lịch sử.
Như vậy, Mác và Ăngghen đã phát hiện ra quy luật khách quan của sự phát triển sản
xuất vật chất, cũng có nghĩa là quy luật khách quan của toàn bộ lịch sử xã hội và đó chính
là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, để vận dụng quy luật đó vào thực tiễn, để phát huy vai trò của mâu thuẫn
biện chứng đó vào phát triển xã hội, đòi hỏi giai cấp lãnh đạo (giai cấp thống trị) phải có
nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, có các biện pháp, chính sách, chiến lược… phù hợp; tránh chủ quan, nóng vội, duy ý
chí làm cho quan hệ sản xuất không theo kịp hoặc vượt trước sự phát triển của lực lượng
sản xuất, tất cả những hành vi đó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm trì
trệ sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Mặt khác, nếu ta hiểu lực lượng sản xuất như một
yếu tố biểu hiện về mặt trình độ, sức sản xuất xã hội, thì quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt
bản chất chế độ xã hội, do vậy khi nhìn vào các giai đoạn phát triển của xã hội, khi đánh
giá các thời đại lịch sử, cũng như xây dựng và phát triển đất nước chúng ta phải thấy rõ cả
hai vấn đề này.
Ba là, Về kết cấu của xã hội

16

C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1995, tr.15.


11

11

Trong “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ kết cấu khách quan, tất yếu
của xã hội, theo các ông đó chính là kết cấu được tạo nên bởi những yếu tố và những mối
liên hệ tất yếu, khách quan; trong đó nổi bật là mối liên hệ giữa “xã hội công dân”, cơ cấu
xã hội, nhà nước, pháp quyền và kiến trúc thượng tầng tư tưởng. “Khái niệm “xã hội công

dân” ở đây được hiểu với hai nội dung cơ bản: thứ nhất, chỉ toàn bộ những hình thức giao
tiếp vật chất của con người; thứ hai, chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất của xã hội” 17. Do vậy,
nó là sự phản ánh một hệ thống những quan hệ và hoạt động tất yếu của con người, trong
đó hoạt động sản xuất vật chất và quan hệ vật chất là nền tảng của tất cả những sinh hoạt
và các quan hệ xã hội khác. Các ông viết: “ Như vậy, quan niệm đó về lịch sử là: phải xuất
phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực
của sản xuất và hiểu hình thức của sự giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do
phương thức sản xuất ấy sản sinh ra – tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau
của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử, rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội công
dân trong lĩnh vực sinh hoạt của nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải
thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết
học, đạo đức, v.v…và theo dõi quá trình phát sinh của chúng trên cơ sở đó; nhờ vậy mà tất
nhiên có thể miêu tả được toàn bộ quá trình”18. Mặc dù, trong “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và
Ăngghen chưa sử dụng khái niệm “hình thái kinh tế – xã hội” nhưng đoạn văn trên đã cho
thấy rõ khái niệm này chỉ toàn bộ kết cấu của xã hội với tư cách một hệ thống những yếu
tố và những mối liên hệ khách quan, tất yếu của đời sống xã hội, tức là một chế độ xã hội
đặc trưng cho những xã hội cụ thể trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Liên quan đến vấn đề này, trong tác phẩm Mác và Ăngghen cũng đã phê phán một
cách toàn diện, sâu sắc quan niệm duy tâm về lịch sử – xã hội, cái quan niệm biến tinh
thần, ý thức thành động lực của lịch sử mà không thèm đếm xỉa đến sản xuất vật chất. Các
ông chỉ rõ rằng: cho đến lúc này mọi quan niệm về lịch sử, hoặc hoàn toàn không biết đến
cơ sở hiện thực đó của lịch sử, hoặc chỉ coi đó là một cái thứ yếu, không có liên hệ gì với
tiến trình của lịch sử. Qua đó, Mác và Ăngghen một lần nữa khẳng định lại: “Khác với
quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một phạm trù nào đó
trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử, …”19.

17
18
19


. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr. 42.
Sđd, tr.54.
Sđd, tr.54


12

12

Ngoài ra, trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen đã sử dụng quan niệm duy vật về
lịch sử vào việc giải thích một cách đúng đắn về ý thức xã hội. Theo đó, nếu như “ ý thức
không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì “chính con người khi
phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với
sự tồn tại hiện thực của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình”. “Sự sản xuất ra
những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với
hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật chất của con người”20. Trên cơ sở đó các ông đã nhấn
mạnh: “Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”21.
Trên đây là những nội dung cơ bản của quan điểm duy vật về lịch sử với tư cách là
hệ thống lý luận trong “Hệ tư tưởng Đức”. Vì vậy, có thể nói, với Hệ tư tưởng Đức, Mác
và Ăngghen đã tạo nên một cuộc cách mạng trong triết học.
4. Ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh tư tưởng – lý luận hiện nay
Trước hết, cần khẳng định rằng, “Hệ tư tưởng Đức” là một tác phẩm triết học rất
quan trọng của Mác và Ăngghen, viết trong thời kỳ chủ nghĩa Mác đang trong giai đoạn
hình thành. Đây là tác phẩm chín muồi đầu tiên của chủ nghĩa Mác, có quy mô lớn nhất
trong quá trình hình thành triết học Mác, đánh dấu bước tiến mới của C.Mác, Ph.Ăngghen
trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như chủ
nghĩa cộng sản khoa học… Trong tác phẩm này, những tư tưởng cơ bản của thế giới quan
mới đẫ được trình bày khá hoàn chỉnh, dĩ nhiên là phù hợp với trình độ lúc bấy giờ. Mặc
dù trong tác phẩm này, các ông còn sử dụng hệ thống thuật ngữ cũ, nhưng các ông đã đưa
vào trong đó những nội dung mới; mặt khác, các ông cũng đã bổ sung những thuật ngữ

mới của học thuyết cách mạng của giai cấp vô sản. Đặc biệt, sự luận chứng các tư tưởng,
các nguyên lý, các phạm trù của quan niệm duy vật về lịch sử có một ý nghĩa hết sức có
giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, và đó chính là bước tiến chủ yếu của tác phẩm này.
Việc phát hiện ra quan điểm duy vật về lịch sử là một thành tựu khoa học vĩ đại, là
một bước ngoặt trong các học thuyết về xã hội và là nội dung chủ yếu tạo nên cuộc cách
mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chính Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ,
nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác (quan niệm duy vật về lịch sử và lý luận giá trị thặng dư)
mà chủ nghĩa xã hội đã phát triển từ không tưởng thành khoa học. Phát hiện ra quan niệm
duy vật về lịch sử đã được Mác trình bày trong một loạt tác phẩm, bắt đầu từ mùa hè năm
20
21

Sđd, tr 37.
Sđd, tr 37.


13

13

1843, khi ông bắt tay vào viết “Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”; tiếp đó phát
hiện này được hình thành trên những nét lớn vào mùa xuân năm 1845 trong tác phẩm
“Luận cương về Phoiơbăc” và lần đầu tiên được trình bày một cách toàn diện, chi tiết và
sâu sắc. Phát hiện này chính là tiền đề có tính chất phương pháp luận cho phát kiến thứ hai
– lý luận giá trị thặng dư và cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành chủ nghĩa Mác nói
chung và triết học Mác nói riêng.
Những kết quả lý luận đã đạt được trong tác phẩm này là cơ sở cho hoạt động khoa
học và thực tiễn tiếp theo của Mác và Ăngghen. Với thành tựu này, cấc ông đã làm sáng tỏ
mọi vấn đề cho chính bản thân mình, đã “thanh toán xong món nợ tinh thần” với hệ tư
tưởng Đức; do đó, các ông vững tin rằng, học thuyết cách mạng đang được hình thành đã

có cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc, và học thuyết đó sẽ đi vào phong trào công nhân
như là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình.
Chỉ bằng việc các thế lực phản động và những kẻ thù của chủ nghĩa Mác tìm mọi
cách để ngăn cản việc xuất bản tác phẩm này, chúng ta cũng có thể thấy được vai trò và
ảnh hưởng to lớn của tác phẩm đối với đời sống xã hội đương thời. Và mặc dù tác phẩm
“Hệ tư tưởng Đức” cùng với quan niệm duy vật về lịch sử của Mác và Ăngghen được trình
bày trong tác phẩm đã ra đời cách đây hơn 160 năm, nhưng hiện nay những tư tưởng, quan
điểm cơ bản đó vẫn đúng, vẫn giữ nguyên giá trị. Song đồng thời, nó cũng là một trong
những trung tâm chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch và bọn cơ hội, xét lại.
Trong đó, các luận điểm xuyên tạc họ cho rằng triết học Mác chẳng có gì đặc biệt, đó
chẳng qua chỉ là “sự lắp ghép tinh vi”, là phép cộng giản đơn giữa phép biện chứng của
Hêghên và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbăc; Mác và Ăngghen không có sáng tạo gì mới cả.
Những vấn đề triết học lịch sử – xã hội, hay là quan điểm duy vật lịch sử của Mác chỉ là sự
“gán ghép” một cách sống sượng chủ nghĩa duy vật vào lý giải các vấn đề xã hội mà thôi
và sự lý giải đó cũng chỉ là những quan điểm chủ quan của Mác và Ăngghen, v.v… Đứng
trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử – cụ thể và phát triển chúng ta thấy rằng, các
lý lẽ phản bác, xuyên tạc từ trước đến nay đều thiếu sức nặng, không mấy thuyết phục,
không vượt qua được những lập luận đanh thép mà Mác và Ăngghen đã nêu ra trong tác
phẩm. Hơn nữa, Mác và Ăngghen luôn nhấn mạnh rằng triết học các ông luôn là hệ thống
mở, cần tiếp nhận nó không phải như một tín điều hay những giáo lý mà phải với thái độ
phê phán khoa học, nó cần không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện; triết học


14

14

của các ông chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, nó cần phải vận dụng một
cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen viết: “Lý luận của chúng

tôi không phải là một tín điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao
hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau” 22. Lênin người học trò xuất
sắc của Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ
đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”23.
Các quan điểm duy vật về lịch sử trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” còn là cơ sở lý
luận cho các Đảng cộng sản và giai cấp vô sản các nước xây dựng, hoạch định đường lối,
chủ trương và những giải pháp phát triển đất nước. Đối với nước ta, từ sau đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI đến nay, chúng ta đã và đang thu nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
mặt, công cuộc đổi mới toàn diện ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta ngày càng có nhiều
kinh nghiệm trong quản lý và xây dựng đất nước, nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn,
phù hợp và có hiệu quả hơn chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam; đặc biệt, trong đó có sự vận dụng sáng tạo các quan điểm
duy vật về lịch sử, ví như: vấn đề con người, về giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phát triển kinh tế xã hội, v.v… ở một nước
nghèo chậm phát triển, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu như nước ta. Trong đó, Đảng ta đã
mạnh dạn, và quyết tâm xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; chuyển đổi dứt khoát
sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Như vậy, chúng ta đã tự “cởi trói”, phá bỏ “xiềng
xích” của kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp với sự phát triển mới của
lực lượng sản xuất đang cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngay ở Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định, chúng ta phải đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế; các kỳ đại hội sau đó cho đến nay Đảng ta tiếp tục nhất quán
quan điểm, đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; phát huy tối đa vai trò của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao và
cải thiện đời sống cho nhân dân, chăm lo và đầu tư cho giáo dục đào tạo, phát triển khoa
22 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
23 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.


H.1999, t 36, tr 785.


15

15

học – công nghệ…Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định, nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; đại hội chỉ rõ vấn đề phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng
quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nếu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”. 24 Như vậy,
Đảng ta xác định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là quá trình gắn liền
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn là điều kiện để phát triển lực lượng sản
xuất đó, và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là để tạo ra sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Kế thừa tư tưởng đổi mới của các kỳ đại hội trước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.25
Tóm lại, “Hệ tư tưởng Đức” là một tác phẩm luận chiến có giá trị to lớn về nhiều
mặt mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã dày công xây dựng để sáng tạo ra những tư tưởng không
chỉ có ý nghĩa trong thời đại của các ông, mà còn cho cả các thế hệ giai cấp vô sản và nhân
loại tiến bộ sau này. Thông qua tác phẩm này, chúng ta càng có thêm cơ sở lý luận khoa
học trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đồng thời, trang bị cho
chúng ta phương pháp tiếp cận các vấn đề xã hội, đó là phải đi từ sản xuất vật chất, từ đời
sống hiện thực phong phú, sinh động; trang bị cho chúng ta một thế giới quan mới - thế
giới quan duy vật biện chứng trong xem xét và cải tạo thế giới.


. ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H..1996, tr.24.

24
25.

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H..2001, tr.89.



×