1
TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VỀ NHÀ NƯỚC VÔ SẢN TRONG TÁC
PHẨM “NỘI CHIẾN Ở PHÁP” - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN NAY
“Nội chiến ở Pháp” là một trong những tác phẩm kinh điển mẫu mực
của C.Mác, đánh dấu sự phát triển mới về tư duy lý luận của chủ nghĩa Mác
trên những nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học, đặc biệt là lý
luận về chuyên chính vơ sản, về nhà nước vơ sản. Tác phẩm này được C.Mác
viết từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1871, đây là giai đoạn có nhiều biến cố lịch
sử quan trọng trong đời sống chính trị và kinh tế ở châu Âu.
Trong bối cảnh cách mạng tư sản đã nổ ra và giành thắng lợi ở hầu khắp
châu Âu. Giai cấp tư sản sau khi liên kết với giai cấp vô sản và giành được
thắng lợi đã lộ rõ bộ mặt phản động, quay lại đàn áp giai cấp vô sản. Chủ nghĩa
tư bản đã phát triển một cách mạnh mẽ ở và đã bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc
cả trong phạm vi từng nước tư bản và giữa các nước tư bản với nhau, gây ra
nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu; đặc biệt, là cuộc chiến tranh Pháp – Phổ
1870-1871 và cuộc cách mạng vô sản ngày 18 tháng 3 năm 1871 đưa đến việc
thành lập Công xã Pa-ri đã khiến cho thời kỳ này trở thành một giai đoạn quan
trọng trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác và phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Ngay từ những ngày đầu, sau khi Công xã Pa-ri tuyên bố thành lập, C.
Mác đã thu thập và nghiên cứu cẩn thận tất cả những tin tức về hoạt động của
Công xã: tài liệu trên báo Pháp, Anh và Đức, tin tức trong thư gửi từ Pari...
Ngày 18 tháng Tư 1871 tại hội nghị của Tổng hội đồng, C. Mác đã đề nghị ra
bản tuyên ngôn gửi tất cả các thành viên của Quốc tế về "xu thế chung của
cuộc đấu tranh" ở Pháp; Tổng hội đồng trao cho C. Mác chuẩn bị bản tuyên
2
ngơn. Ơng đã bắt tay vào viết tác phẩm "Nội chiến ở Pháp". Ngày 30 tháng 5
năm 1871, Tổng hội đồng nhất trí phê chuẩn văn bản chính thức "Nội chiến ở
Pháp" do C.Mác viết.
Tác phẩm "Nội chiến ở Pháp" được xuất bản lần đầu ở Luân Đôn vào
tháng 6 năm 1871 bằng tiếng Anh. Trong những năm 1871-1872 "Nội chiến ở
Pháp" đã được dịch ra tiếng Pháp, Đức, Nga, I-ta-li-a, Tây Ban Nha và Hà
Lan và đăng trên tạp chí định kỳ và xuất bản thành sách riêng ở các nước
châu Âu và ở Mỹ.
Nội dung của tác phẩm được C.Mác kết cấu thành bốn phần: Phần I: C.
Mác tập trung phê phán tính chất tối phản động của chính phủ Chi- e; phần II,
C.Mác tiếp tục vạch trần những chính sách phản động của chính phủ Chi-e
đối với nhân dân Pháp và chỉ ra tính tất yếu của cách mạng bạo lực; phần III,
C.Mác tổng kết kinh nghiệm của Cơng xã Pari với tính cách là nhà nước vơ
sản – nền chun chính vơ sản đầu tiên trên thế giới; phần IV, C. Mác tập
trung lên án tội ác đẫm máu của giai cấp tư sản Pháp. Của chính phủ Chi-e
đối với các chiến sĩ Cơng xã.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác, trước khi sự kiện
“Công xã Pari” xảy ra, vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung, vấn đề
nhà nước của giai cấp vơ sản nói riêng đã được xây dựng về lý thuyết những
nguyên tắc cơ bản. C.Mác và Ph.Ăngghen trên cơ sở phân tích những tất yếu
kinh tế trong xã hội tư bản đã đi đến khẳng định, chủ nghĩa tư bản tất yếu diệt
vong, chủ nghĩa cộng sản tất yếu ra đời thay thế nó; đồng thời, khẳng định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lật đổ giai cấp tư sản, xoá bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Q trình ấy, để
hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tất yếu giai cấp vơ sản phải đập tan nhà
nước của giai cấp tư sản và xây dựng nhà nước vơ sản của mình. Những tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước được đề cập đến lần đầu tiên
3
trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, sau đó tiếp tục được làm rõ trong tác phẩm
“đấu tranh giai cấp ở Pháp viết trong giai đoạn những năm 1848 đến 1850”.
Công xã Pari - một sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh tự giác của
giai cấp vô sản khi những mâu thuẫn trong lòng xã hội đã lên đến đỉnh điểm
nhưng lại nhanh chóng thất bại đã thơi thúc C.Mác phải khẩn trương tổng kết
thực tiễn, khái quát thành lý luận, luận giải một cách sâu sắc nguyên nhân thất
bại của “Công xã Pari” và vạch ra những vấn đề chung nhất làm cơ sở để giai
cấp vô sản vận dụng trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, trên cơ sở khái quát toàn bộ sự
tồn tại phát triển của nhà nước qua các giai đoạn lịch sử, C.Mác đã làm rõ vấn
đề thực chất của nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước khơng phải là một cái gì
đó thần bí, khó hiểu, mà chẳng qua chỉ là một cơ quan đặc biệt do giai cấp
thống trị xây dựng lên để bảo vệ lợi ích ích kỷ của một thiểu số bọn bóc lột,
đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. C.Mác viết: nhà nước “là một lực
lượng xã hội được tổ chức nhằm mục đích nơ dịch xã hội, và là một bộ máy
thống trị giai cấp”1.
Do những chức năng đặc thù của nó, nhà nước mang lại và duy trì những
quyền lợi vơ cùng to lớn cho những giai cấp, những tập đoàn chi phối nó. Điều
đó khiến cho nhà nước trở thành mục tiêu quan trọng nhất của mọi cuộc đấu
tranh trong lịch sử, của cả các giai cấp đối kháng nhau, lẫn trong nội bộ từng
giai cấp. Các giai cấp đối kháng nhau ln tìm mọi cách để giành cho được nhà
nước về tay, thậm chí các nhóm khác nhau trong một giai cấp cũng vì những lợi
ích ích kỷ của mình mà khơng ngừng tìm mọi cách đấu đá lẫn nhau, tranh giành
quyền lực nhà nước. Thực tế đó cho thấy, bản thân giai cấp vô sản muốn đạt
được mục tiêu của mình củng bắt buộc phải giành lấy chính quyền nhà nước
bằng việc, lật đổ nhà nước tư sản và xây dng nh nc vụ sn. C.Mỏc khng
1
C.Mác và Ph.ăngghen toàn tËp, tËp 17. Nxb CTQG. H.1995, tr.446.
4
nh: "những ngời vô sản Pa-ri hiểu rõ rằng đà đến lúc phải tự mình quản lý
lấy công việc xà hội, để cứu vÃn tình thế...Họ hiểu rằng nghĩa vụ tối cao và
quyền tuyệt đối của mình là phải tự mình làm chủ vận mệnh của mình, tự
mình nắm lấy chÝnh quyÒn" 2. Do vậy, hành vi lịch sử của Công xã Pari là thủ
tiêu bộ máy nhà nước quan liêu, tư sản, quân đội cũ và cảnh sát, các cơ quan
hành chính và tòa án.
Vì những những quyền lợi ích kỷ nhưng quá lớn ấy, giai cấp thống trị
qua các thời đại khơng ngừng tìm đủ mọi biện pháp để củng cố và tăng cường
chính quyền nhà nước của mình và để làm được điều đó, vấn đề có tính quy
luật của mọi giai cấp thống trị nói chung, giai cấp tư sản nói riêng, là bao giờ
cũng phải thiết lập và không ngừng tăng cường bộ máy bạo lực của nhà nước.
Trong đó, giai cấp tư sản thậm chí ngồi qn đội, cảnh sát là những cơng cụ
vật chất đặc biệt, còn sử dụng cả sự giúp đỡ của các lực lượng tinh thần siêu
tự nhiên – thông qua sự có mặt của giáo hội và tầng lớp “tăng lữ” trong cơ
cấu nhà nước- để bảo vệ địa vị của mình. C.Mác viết: “Chính quyền nhà nước
tập trung,-với những cơ quan có mặt khắp nơi của nó: quân đội thường trực,
cảnh sát, bộ máy quan liêu, tăng lữ và quan tòa, những cơ quan được xây
dựng theo nguyên tắc phân cơng lao động có hệ thống và có đẳng cấp”3
Thông qua sự tăng cường chức năng thống trị giai cấp của bộ máy nhà
nước, nhà nước tư sản hơn bao giờ hết bộc lộ bản chất dã man, tàn bạo, phi
nhân tính của “bộ máy thống trị giai cấp”. Một khi mà quyền lợi ích kỷ của
bọn chúng bị xâm phạm, chúng không ngần ngại dùng mọi công cụ, phương
tiện để đàn áp sự phản kháng của giai cấp vô sản, kể cả việc dùng súng máy,
đại bác để tắm máu những người phản kháng bất kể họ là đàn bà hay trẻ nhỏ.
C.Mác viết: “Văn minh và chính nghĩa của chế độ tư sản lộ rõ bộ mặt hung tàn
thực sự của nó ra mỗi khi những nô lệ và những kẻ bị áp bức của chế độ đó nổi
2
3
Sđd tr.445.
Sđd tr.445.
5
dậy chống lại những người chủ của họ. Lúc bấy giờ văn minh đó và chính
nghĩa đó đã lộ rõ ra là sự dã man công khai và sự báo thù bất chấp pháp luật.
Mỗi một cuộc khủng hoảng mới trong cuộc đấu tranh giai cấp của những người
sản xuất ra của cải chống lại những người chiếm hữu của cải càng chứng minh
sự thực đó một cách rõ rệt. Ngay cả những sự tàn ác của giai cấp tư sản hồi
tháng Sáu 1848 cũng lu mờ đi trước hành động cực kỳ khả ố của năm 1871...
những hành động hung bạo thú vật của binh lính Véc-xây phản ánh tất cả tinh
thần cố hữu của cái thứ văn minh mà chúng phục vụ với tư cách là kẻ bảo vệ và
kẻ phục thù được trả công. Vinh quang thay, cái nền văn minh phải đứng trước
một nhiệm vụ khó khăn là làm sao giải quyết được hàng đống thi hài của
những người đã bị nó giết sau khi cuộc chiến đấu kết thúc.”4
Từ những tổng kết thực tiễn qua “Công xã Pari”. C.Mác khái quát lý
luận và một lần nữa khẳng định, muốn giành được thắng lợi cuối cùng, giai
cấp vô sản buộc phải lật đổ nhà nước tư sản, nhà nước của giai cấp thống trị.
Việc lật đổ nhà nước của giai cấp thống trị để xây dựng nhà nước của giai cấp
mình là vấn đề có tính quy luật trong lịch sử. Tuy nhiên, khác với nhà nước
phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay thế nhà nước
phong kiến, đó chỉ là sự thay thế nhà nước của giai cấp bóc lột này bằng nhà
nước của giai cấp bóc lột khác. Giai cấp thống trị mới chỉ cần tiến hành một
vài cải tạo, thay đổi một vài vị trí- mà khơng cần thay đổi bản chất của bộ
máy đó- là có thể sử dụng ngay bộ máy sẵn có của nhà nước cũ làm cơng cụ
bạo lực của mình, phục vụ cho những lợi ích của mình. Nhà nước vơ sản khác
hồn toàn về chất so với các kiểu nhà nước đã có trước đó trong lịch sử. Do
vậy, q trình xây dựng nhà nước của mình, giai cấp vơ sản khơng thể sử
dụng lại bộ máy cũ của nhà nước tư sản, mà phải xố bỏ hồn tồn những tàn
tích của nhà nước bóc lột cũ- cải tạo hồn tồn về chất bộ máy nhà nước- và
4
Sđd tr.473.
6
xây dựng một mơ hình nhà nước kiểu mới- nhà nước chun chính vơ sản. C.
Mác viết: “giai cấp cơng nhân không thể chỉ giản đơn nắm lấy bộ máy nhà
nước sẵn có và vận dụng nó để đạt mục đích của mình được.”5.
Cơng lao hết sức vĩ đại của C.Mác là thông qua tổng kết thực tiễn Công
xã Pari đã thấy rõ bản chất, tính chất, hình thức của nhà nước chun chính vơ
sản. C.Mác đã chỉ ra những đặc trưng của nhà nước vơ sản đầu tiên, hình thức
chính quyền vơ sản cần phải thay thế bộ máy nhà nước tư sản đã bị xóa bỏ:
“Cơng xã là hình thức chính trị, rốt cuộc đã được tìm ra, khiến cho nó có thể
thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”6.
C.Mác đã nhấn mạnh bản chất của nhà nước chun chính vơ sản đó là
bản chất giai cấp vơ sản: “BÝ qut thùc sù cđa Công xà là ở chỗ: về thực
chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân 7 . õy là nhà nước đầu
tiên trong lịch sử thật sự đại biểu và bảo vệ lợi ích của quần chúng lao động,
dựa vào đa số nhân dân để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Cơng xã
Pari là hình thức nhà nước thật sự dân chủ. Tất cả các cơ quan chính quyền và
các chức vụ đều do dân bầu cử dân chủ, trực tiếp bằng phiếu kín. Các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang, tòa án, hệ thống hành
chính…được xây dựng và tổ chức theo nguyên tắc dân chủ. Qua đó, C.Mác
đã chỉ ra nguồn gốc sức mạnh của nhà nước vô sản là từ ngay trong lòng nó.
Sức mạnh của nhà nước vô sản không chỉ do bản thân kết cấu của nó đã là
một cơ thể sống, cơ thể hành động, là sự tập trung thống nhất cả ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, biểu hiện tập trung nhất sức mạnh vật chất và
tinh thần của toàn giai cấp vô sản. C.Mác viết: “Công xã không nên là một cơ
quan đại nghị, mà phải là một cơ thể hành động, vừa hành chính, vừa lập
Sđd tr.445.
6
Sđd tr.454.
7
Sđd tr.454
5
7
pháp”8. Mà sức mạnh của nhà nước vô sản còn có nguồn gốc từ ngay chính
những “nhân viên” của nó; thay vì trước kia, các “nhân viên” của nó là những
kẻ tiêu biểu cho những đẳng cấp đặc quyền, đặc lợi, ăn trên ngồi chốc, đứng
trên xã hội, được “tuyển chọn” theo chế độ phân phong ngơi thứ. Thì nay
nhân viên của nhà nước vô sản là những người tiêu biểu cho giai cấp công
nhân, được chọn ra do bầu cử tự do của nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cứ
lúc nào nếu có dấu hiệu sao nhãng công việc. C.Mác viết: “ Công xã gồm
những đại biểu thành phố do đầu phiếu phổ thông ở các khu của Pa-ri bầu lên.
Họ là những đại biểu có trách nhiệm và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Đa
số uỷ viên của Công xã tất nhiên phải là những công nhân hoặc là những đại
biểu được thừa nhận của giai cấp công nhân”9. Mặt khác, sức mạnh của nhà
nước vô sản không chỉ là sức mạnh của giai cấp vô sản mà còn là sức mạnh
của cả dân tộc. Nếu các nhà nước trước đó đứng trên dân tộc, điển hình như
chính phủ của Chi- e sẵn sàng vì lợi ích của giai cấp mà quay lưng phản bội
lợi ích của dân tộc, thì ngược lại, theo C.Mác, nhà nước vơ sản có sự thống
nhất giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, do vậy sức mạnh của nhà nước vô
sản là sức mạnh của cả dân tộc: “Không được phá vỡ sự thống nhất dân tộc
mà trái lại sự thống nhất đó phải được cơ cấu công xã tổ chức lên. Sự thống
nhất dân tộc phải trở thành một hiện thực bằng cách huỷ bỏ chính quyền nhà
nước vẫn tự xưng là hiện thân của sự thống nhất ấy nhưng lại muốn độc lập
đối với dân tộc, đứng trên dân tộc. Kỳ thực thì chính quyền nhà nước ấy chỉ là
một cái u ăn bám trên thân thể dân tộc mà thôi”10
Đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, C.Mác cho rằng một nhà
nước ưu việt là một nhà nước mà có chi phí ít nhất mà lại hiệu quả cao nhất,
vì vậy cần phải giảm gánh nặng chi phí của xã hội cho bộ máy nhà nước đến
Sđd tr.449.
Sđd tr.449.
10
Sđd tr.451.
8
9
8
mức thấp nhất, bằng nhiều giải pháp mà trước hết là việc xoá bỏ quân đội
thường trực, và thay thế nó bằng nhân dân được vũ trang. Bởi theo ơng, cùng
với các hệ luỵ khác do bộ máy nhà nước mang lại, quân đội thường trực và
cảnh sát là những gánh nặng của xã hội do vậy cần phải xoá bỏ nó. Ơng viết:
“Cơng xã đã thực hiện được khẩu hiệu của tất cả các cuộc cách mạng tư sản là
thiết lập một chính phủ ít tốn kém, bằng cách huỷ bỏ hai món chi tiêu lớn
nhất: quân đội thường trực và hệ thống quan lại”11.
Cùng với việc xoá bỏ quân đội thường trực để giảm gánh nặng chi phí,
đẩy nhanh quá trình phục hưng xã hội, C.Mác còn chủ trương trả lương cho
bộ máy viên chức nhà nước trên cơ sở thu nhập bình qn của cơng nhân.
Đây cũng là một tư tưởng rất tiến bộ giúp cho xã hội nhanh chóng đạt được sự
ổn định, đồng thuận và hạn chế được những tác động xấu do những chức năng
đặc thù của nhà nước mang lại như nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí, loại bỏ
được những đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy nhà nước; thể hiện tính ưu việt
hơn hẳn của nhà nước vơ sản. Ơng viết: “Từ các uỷ viên Công xã cho tới
những nhân viên cấp thấp nhất đều phải đảm bảo công vụ với mức lương
ngang lương công nhân. Những đặc quyền đặc lợi và những phụ cấp chức vụ
của những kẻ quyền cao chức trọng của nhà nước cũng biến đi cùng với chính
ngay những kẻ quyền cao chức trọng đó. Chức vị xã hội”12
Đặc biệt, trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, lần đầu tiên chúng ta thấy,
C.Mác đề xuất tư tưởng về các quan chức chính phủ chính là những đầy tớ của
xã hội, ơng nhấn mạnh đó khơng phải là những đầy tớ bình thường mà là những
người đầy tớ cú trỏch nhim. C.Mỏc vit: Cần phải cắt bỏ những cơ quan thuần
tuý áp bức của chính phủ cũ nhng phải đoạt lấy những chức năng hợp lý của nó
trên cả xà hội, và đem giao cho những ngời đầy tí cã tr¸ch nhiƯm cđa x· héi”13
Nếu như qn đội thường trực được C.Mác coi là công cụ quyền lực
11
12
13
Sđd tr.453.
Sđd tr.449
Sđd tr.451.
9
vật chất của giai cấp tư sản thống trị, thì tầng lớp tăng lữ chính là cơng cụ để
giai cấp tư sản thống trị xã hội về mặt tinh thần. Do vậy, nhà nước vơ sản
cùng với việc giải phóng xã hội khỏi sự thống trị vật chất của giai cấp tư sản
thì cũng phải đồng thời xố bỏ sự thống trị về mặt tinh thần của chúng, bằng
cách xoá bỏ ảnh hưởng của tầng lớp tăng lữ đối với nhà nước. C. Mác viết:
“Một khi đã bãi bỏ quân đội thường trực và cảnh sát, tức là những công cụ
quyền lực vật chất của chính phủ cũ, Cơng xã lập tức bắt tay vào đập tan
công cụ áp bức tinh thần, tức là “thế lực tăng lữ”, bằng cách tách giáo hội ra
khỏi nhà nước và tước đoạt tài sản của tất cả những giáo hội nào là những
tập đồn hữu sản”14.
Cùng với việc xố bỏ ảnh hưởng của giáo hội khỏi nhà nước, cần có
chủ trương xố bỏ cả sự ảnh hưởng của giáo hội khỏi đời sống xã hội, bằng
cách tách giáo hội khỏi nhà trưởng và mở rộng giáo dục. Nhà nước vô sản
phải bảo đảm một nền giáo dục kiểu mới- giáo dục miễn phí cho toàn dân. Tư
tưởng về một nền giáo dục và những phúc lợi xã hội khác do nhà nước tài trợ
mặc dù không phải lần đầu tiên được đề cập đến, nhưng việc khẳng định nó
đã cho thấy tính chất ưu việt, tiến bộ của nhà nước vô sản so với nhà nước tư
sản. C.Mác viết: “Tất cả các nhà trường đều mở rộng cửa đón nhân dân vào
học khơng mất tiền, và đồng thời được giải thoát khỏi sự can thiệp của nhà
thờ và nhà nước. Như thế, không những tất cả mọi người đều được hưởng nền
giáo dục nhà trường, mà ngay cả khoa học cũng được giải phóng khỏi những
xiềng xích của những thành kiến giai cấp và của quyền lực chính phủ.”15
Mặc dù chủ trương xố bỏ một cách triệt để những tàn tích của xã hội
cũ. Trong quá trình xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới của giai cấp vơ sản,
chỉ xố bỏ những yếu tố đã lỗi thời lạc hậu và kế thừa, cải tạo để sử dụng
những yếu tố hợp lý của bộ máy nhà nước cũ, C.Mác viết: “Cảnh sát, trước
14
15
Sđd tr.450.
Sđd tr.450.
10
kia vốn là cơng cụ của chính phủ trung ương thì nay lập tức bị tước hết mọi
chức năng chính trị và biến thành một cơ quan có trách nhiệm của Cơng xã và
có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Đối với những viên chức thuộc tất cả mọi
ngành khác trong bộ máy hành chính thì cũng như vậy”16.
Trong tác phẩm, C.Mác đã phác họa khá rõ nét những chức năng,
nhiệm vụ cơ bản của nhà nước chuyên chính vơ sản. Nhà nước vơ sản khơng
những là cơng cụ của giai cấp vô sản chống lai giai cấp tư sản mà còn là chính
quyền tiến hành cơng việc quản lý xã hội to lớn. Thông qua việc phân tích cơ
cấu, cơ chế hoạt động của nhà nước vơ sản, C.Mác khẳng định triển vọng phát
triển của xã hội do nhà nước vô sản quản lý, và chỉ rõ triển vọng phát triển đó
có cơ sở từ những tất yếu kinh tế trong lòng xã hội, chứ không phải là những
tính tốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Ơng viết: “Giai cấp cơng nhân
khơng hề trơng mong Cơng xã có những phép lạ. Giai cấp cơng nhân khơng
có những ảo tưởng hồn tồn có sẵn để thực hiện par décret du people (bằng
sắc lệnh của nhân dân). Nó biết rằng muốn thực hiện được việc giải phóng
cho bản thân mình và đồng thời đạt đến hình thức sinh hoạt cao hơn mà xã
hội hiện đại, do bản thân sự phát triển kinh tế của nó, đang khơng thể nào
khơng hướng tới, thì nó sẽ phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh lâu dài, và trải
qua cả một loạt những q trình lịch sử làm hồn tồn biến đổi cả hồn cảnh
và con người. Nó khơng cần phải thực hiện một lý tưởng nào cả, mà chỉ cần
giải phóng những nhân tố của xã hội mới đã phát triển trong lòng xã hội tư
sản cũ đang sụp đổ”17.
Khả năng phát triển của xã hội do nhà nước vô sản quản lý còn được
thể hiện ở chỗ, thông qua chế độ tổ chức sản xuất đặc thù của nó là nền sản
xuất hợp tác, hợp tác chặt chẽ giữa nhiều cơ sở sản xuất, để tiến hành một nên
sản xuất thống nhất, tập trung theo kế hoạch, nó có thể khắc phục được những
16
17
Sđd tr.449
Sđd tr.455, 456.
11
cuộc khủng hoảng kinh tế do cạnh tranh tư bản tự do gây ra.
Cơng xã Pari đã có nhiều hoạt động quản lý thể hiện rõ chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước kiểu mới như: Giao cho công nhân quản lý các nhà máy, xí
nghiệp để duy trì sản xuất; quản lý đơ thị, phát triển giáo dục, giữ gìn trật tự trị
an, xây dựng đời sống văn hóa mới làm cho mọi người dân được hưởng…
Như vậy, thông qua tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, C.Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt là kinh
nghiệm của “Công xã Pari”, khái quát ra những vấn đề cơ bản nhất trong học
thuyết về nhà nước chun chính vơ sản. Những tư tưởng cơ bản này của C.
Mác tiếp tục được chính ơng và Ph.Ăngghen phát triển hoàn thiện trong
những giai đoạn tiếp theo với một quan điểm nguyên tắc nhất quán được khái
quát một cách khá đầy đủ trong thư của Ph.Ăngghen gửi cho Ph.Vanpatanh,
ngày 18 tháng 4 năm 1884: “Cả Mác, cả tôi từ năm 1845 đều giữ quan điểm
cho rằng một trong những kết quả cuối cùng của của cuộc cách mạng vô sản
sắp tới sẽ là sự tiêu vong dần dần và rốt cuộc, là sự biến mất của cái tổ chức
chính trị mệnh danh là nhà nước. Mục đích chủ yếu của tổ chức này là ln
đảm bảo bằng lực lượng vũ trang, sự phục tùng kinh tế của đa số lao động đối
với thiểu số giàu có. Một khi thiểu số giàu có biến mất, thì cũng biến mất sự
cần thiết phải có lực lượng vũ trang để cưỡng bức chính quyền nhà nước.
Đồng thời chúng tơi cũng luôn luôn cho rằng muốn đạt được mục tiêu này và
những mục tiêu khác quan trọng hơn nhiều của cuộc cách mạng xã hội sắp tới
thì giai cấp những người vơ sản trước hết phải nắm lấy chính quyền có tổ
chức của nhà nước và dùng nó để chấn áp sự phản kháng của giai cấp các nhà
tư sản và tổ chức xã hội, theo nguyên tắc mới”.
Tóm lại, “Nội chiến ở Pháp” là một trong những tác phẩm kinh điển
tiêu biểu của C.Mác. Với sự ra đời của tác phẩm này, những quan điểm về
nhà nước vô sản của chủ nghĩa Mác được C.Mác trình bày một cách có hệ
12
thống, nó chính là cơ sở lý luận quan trọng để các đảng cộng sản nghiên
cứu, vận dụng trong xây dựng cơ cấu, mơ hình nhà nước vơ sản của mình,
góp phần vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiờu cn bn cua chu
ngha xó hi.
Xây dựng nhà nớc pháp quyền xà hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân là một vấn đề lớn trong đờng lối
lÃnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đặt vấn đề xây dựng nhà nớc pháp
quyền xà hội chủ nghĩa đà đợc Đảng ta đề cập đến từ Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VII, VIII và tiếp tục đợc khẳng định trong Đại hội Đảng lần thứ IX, X.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chủ nghĩa xà hội đang lâm vào tình trạng
khủng hoảng và thoái trào. Nhà nớc xà hội chủ nghĩa ở một loạt nớc đà chấm dứt
sự tồn tại của mình. Khôi phục và phát triển Nhà nớc xà hội chủ nghĩa với t cách là
công cụ để giải phóng con ngời đang đợc đặt ra nh một vấn đề cấp bách của những
ngời cách mạng nói chung và các nhà lý ln ViƯt Nam nãi riªng.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội
những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà nước; mặt khác,
là người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đơng và Việt Nam,
với một trí tuệ phi thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát
triển sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên cơ sở những
yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và từ đó xây dựng nên
những tư tưởng của riêng mình với những nét độc đáo hiếm thấy.
Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây
dựng một nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân. Đây là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Bác Hồ và của Đảng ta
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã được minh chứng và
kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chính
quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước
kiểu mới – nhà nước pháp quyền phải là nhà nước của dân, do dân và vì
13
dân; đó là tư tưởng, ý chí nhất qn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước pháp quyền,
nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân là một hệ thống quan điểm
tư tưởng trên nhiều lĩnh vực và nhiều tổ chức trong bộ máy nhà nước,
gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người về xây dựng
bộ máy nhà nước.
Nhà nước ta được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam và ở Đông Nam Á, dựa trên
nền tảng công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản Hiến pháp năm 1946
ở nước ta ra đời là mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây dựng
một nhà nước pháp quyền. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân - theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ”. Đây là một trong
những vấn đề hết sức căn bản trong xây dựng nhà nước kiểu mới, phản ánh
mối quan hệ giữa nhà nước và công dân của nhà nước kiểu mới mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh hết sức coi trọng xây dựng. Mối quan hệ giữa nhà nước với
công dân được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Nhà
nước có nghĩa vụ với cơng dân đồng thời có những quyền theo quy định của
pháp luật để thực thi cơng quyền mà nhân dân giao phó; ngược lại cơng dân
vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ cơng dân đối với nhà nước. Trên tinh
thần đó, Hiến pháp năm 1992 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có những quy định rất cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, đồng thời cũng dành toàn bộ Chương V với 34 điều
(từ Điều 49 đến Điều 82) quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, Người gọi đó là “công
bộc” của dân, cách gọi ấy thật là dân dã mà sâu sắc. Khi Quốc hội tín nhiệm
bầu Người làm Chủ tịch nước – người đứng đầu Chính phủ, Người trả lời các
nhà báo: Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây
giờ gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng làm, cũng
14
như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Người căm ghét
thói cậy quyền, cậy thế, chia rẽ, kiêu ngạo, tham ơ, lãng phí, quan liêu, móc
ngoặc, tham nhũng… vì đó là kẻ thù của nhân dân, của dân tộc, của Chính
phủ. Đó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm súng, nó nằm
trong tổ chức của ta, nó là giặc nội xâm để làm hỏng cơng việc của ta.
Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng hệ thống pháp luật tạo hành
lang pháp lý cho mọi hoạt động của nhà nước ta trong sự nghiệp kháng
chiến và kiến quốc. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Hồ Chí Minh cũng là người có cơng lớn nhất trong sự nghiệp
lập hiến và lập pháp. Người đã hai lần đứng đầu ủy ban soạn thảo Hiến
pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc
lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có luật pháp cũng chưa đủ, điều
quan trọng là pháp luật của nhà nước phải đi vào cuộc sống, phải trở
thành hoạt động tự giác của mỗi người trong xã hội.Do đó, một mặt
chăm lo hồn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt
khác Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế
bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi
hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Người nói:
“Cơng bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải
tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt” 18 .
Về vấn đề đảng cầm quyền và lãnh đạo nhà nước kiểu mới, ngay từ
năm 1925 trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” khi đề cập đến mơ hình nhà
nước trong tương lai và nhiệm vụ của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng
Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công – nông – binh, phát đất cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền… ra sức tổ chức kinh tế mới để
thực hành thế giới đại đồng”19. Đến trước khi vĩnh biệt đồng bào, đồng chí,
18
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 9, tr. 524
19
Sđd, T.6, tr 162
15
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Như vậy, tư tưởng về Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền là
tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng khi đất nước chưa giành được chính quyền cũng như khi có chính
quyền dân chủ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức
đảng và đảng viên: Đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ
đảng viên của Đảng phải biết tôn trọng nhà nước dân chủ nhân dân, gương
mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của nhà nước.
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có
một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của
nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động,
được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an tồn xã hội. Nó ảnh
hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của
từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó,
dân chủ đi đơi với kỷ cương trật tự, được thể chế hố thành pháp luật,
trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại
diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa
trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì cơng lý. Để
làm được những điều đó trước hết cần phải đảm bảo mọi lợi ích và
quyền hành đều thuộc về nhân dân.
16
Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân,
nhất thiết phải giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự
nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành
đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt
hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa dạng của
con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển
kinh tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa , quyền lực Nhà nước
được bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Vì vậy, trong cơng cuộc đổi mới Nhà nước hiện nay, phải ra sức phát
triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản
chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo
quyền con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có
cuộc sống ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi
con người phải gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trước
đất nước và xã hội.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp
rộng rãi mọi lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng
và trí tuệ của tồn dân để cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành
chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể
trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của
Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cũng như
giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà
nước. Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân,
phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát triển kinh tế, văn hoá,
cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
17
chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Bên cạnh đó, cần giải quyết tốt mối quan hệ công dân – Nhà
nước. Đây là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà
nước pháp quyền là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có
nghĩa vụ tơn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp
luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được
chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Chính vì vậy, một mặt Nhà
nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước,
những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tn thủ triệt để
pháp luật, khơng có một tổ chức Nhà nước hoặc cơng chức nào được
đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi
tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này bảo
đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác
chống những hành vi tự do, vơ chính phủ.
Muốn giải quyết mối quan hệ giữa cơng dân và Nhà nước thì Nhà
nước phải đặt mục tiêu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của dân.
Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm sốt có hiệu quả
đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan tới
vấn đề này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng
cần hết sức coi trọng việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân
dân, tạo thành thói quen tốt trong sinh hoạt xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân
bầu ra. Do đó, một khi Nhà nước khơng còn vì dân, nghĩa là nó khơng đáp
ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín
18
nhiệm đối với nói. Đó là cơ sở để chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”20
Vấn đề rất quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân trên nền tảng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội
của các công dân thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực
với pháp luật. Trong đó pháp luật là cơ sở để duy trì quyền lực Nhà
nước, bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, lại vừa là
hình thức thực hiện quyền lực cơng khai. Vì vậy, Nhà nước chỉ có thể
biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực cơng khai của mình đối với xã
hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà
nước trong quan hệ xã hội của các công dân là xây dựng một hệ thống
pháp luật trên nền dân chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân
dân. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan, cơng bằng,
bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm
trung tâm để xây dựng quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước phải
thuộc về nhân dân, phải thể hiện ý chí của nhân dân, là sự phản ánh
khách quan các nhu cầu xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Xây dựng
quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xã hội của các công dân là để
bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của
họ và khơng thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi công dân phải dẫn
tới sự thống nhất của cả trật tự xã hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi
sự chiếm đoạt quyền lực Nhà nước bởi các cá nhân chuyên quyền đứng
bên trên và bên ngồi dân, hoặc là loại bỏ sự vơ trách nhiệm và bất lực
của những người cầm quyền.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được tổ chức và vận
20
Sđd, T.5, tr 60
19
hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản. Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự
nhiên và tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ chính trị. Tập trung dân
chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự cần thiết hợp lý
để cho dân chủ tránh được những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất
chấp pháp luật, kỷ cương, vượt quá hành động pháp lý để rơi vào tự do,
hỗn loạn, phá phách, vơ chính phủ. Nó bảo đảm cho các cơ quan quyền
lực khơng thể trở nên nhu nhược, bất lực mà có thực quyền. Nó kết hợp
tính tơn trọng dân chủ, tơn trọng các quyết định của tập trung với tinh
thần trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân có quyền lực.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo cho Nhà nước mang bản chất của giai
cấp công nhân, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hoạt động
của Đảng thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện
phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp
Nhà nước hồn thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình. Để tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không phải nhờ vào uy quyền,
mệnh lệnh, mà ở trình độ năng lực vạch ra đường hướng chính trị đúng
đắn và thơng qua cơng tác tun truyền, thuyết phục, làm cho mọi tổ
chức và toàn xã hội tự giác chấp nhận, ở tính gương mẫu và vai trò tiên
phong chiến đấu của tổ chức Đảng, của đội ngũ cán bộ, Đảng viên; ở sự
gắn bó, tín nhiệm của quần chúng đối với Đảng; ở sự trong sạch, vững
mạnh về bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng.
Hiện nay vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà
20
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là khơng thể có một lực
lượng chính trị nào có thể thay thế được. Vấn đề đó khơng chỉ mang
tính ngun tắc được khẳng định từ lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, mà con là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn của
cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay.
Những tư tưởng của C. Mác về nhà nước vô sản trong tác phẩm “ Nội
chiến ở Pháp” là những cơ sở lý luận vơ cùng quan trọng để các đảng cộng
sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng nghiên cứu, vận dụng
trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của mình. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm công cụ vật chất để hướng tới xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, thì những tư tưởng kinh điển đó hơn bao giờ hết
trở thành những chỉ dẫn vô cùng quý báu.
Giá trị của tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc nó đưa ra những tư
tưởng mới, phát kiến mới mà nó còn là một mẫu mực về phương pháp làm
việc của những người cộng sản chân chính; mẫu mực về phương pháp tư duy;
phương pháp tiếp cận các vấn đề xã hội, đó là phải đi từ đời sống hiện thực
phong phú, sinh động để nhanh chóng tổng kết những vấn đề thực tiễn mới
nảy sinh, đúc rút kinh nghiệm, khái quát lý luận; không ngừng bổ sung,làm
giàu lý luận thông qua hoạt động thực tiễn, làm cho lý luận và thực tiễn gắn
luôn thống nhất chặt chẽ với nhau.