Tải bản đầy đủ (.doc) (162 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ các GIẢI PHÁP tài CHÍNH để PHÁT TRIỂN KINH tế TRANG TRẠI VÙNG TRUNG DU MIỀN núi PHÍA bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.68 KB, 162 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế trang trại trong những năm gần đây đã ra đời và phát triển
mạnh mẽ, rộng khắp trong cả nước; phát triển kinh tế trang trại đem lại những
lợi ích to lớn cho đất nước: Tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn
chuyển từ sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, tỉ trọng sản phẩm hàng hóa
thấp,... sang sản xuất hàng hóa với quy mô lớn; khai thác có hiệu quả lao
động, đất đai, đặc biệt là đất trống, đồi trọc đất hoang hóa ở vùng trung du và
miền núi phía Bắc; khai thác nguồn vốn trong dân tạo thêm nhiều việc làm
cho lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định, cải thiện
nâng cao đời sống cho người lao động; tăng tích lũy của dân cư, tạo ra nhiều
nông sản hàng hóa,... từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
nông nghiệp nông thôn.
Kinh tế trang trại ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vùng trung du và miền núi phía Bắc bao gồm 14 tỉnh (trong đó có 11
tỉnh thuộc vùng Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Cạn, Tuyên
Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang
và 3 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Diện tích toàn
vùng 102.964,6 km2, chiếm 31,3% diện tích cả nước. Dân số toàn vùng bằng
14% dân số cả nước,với 43 dân tộc, có 42 dân tộc ít người, mật độ dân trung
bình của vùng: 109 người/km 2. Địa hình bị chia cắt, có nhiều đất trống đồi
trọc, núi non hiểm trở hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển, đời sống dân
cư thấp, tỉ lệ tích lũy nội bộ không cao, trình độ dân trí ở nhiều tỉnh còn rất
thấp. Đặc biệt, ý chí vươn lên làm giàu của người dân ở một số tỉnh vùng cao
thấp, nhiều người dân bằng lòng với cuộc sống hiện tại đói nghèo, không có ý
thức vươn lên.



2

Vùng trung du và miền núi phía Bắc là vùng đất rộng lớn, có nhiều lợi
thế phát triển một nền kinh tế đa dạng, đặc biệt là nông, lâm nghiệp, đồng thời
đây cũng là vùng có vị trí chiến lược quan trọng đối với việc giữ vững ổn định
chính trị và an ninh quốc phòng của đất nước. Hiện nay, vùng trung du và
miền núi phía Bắc vẫn là vùng chậm phát triển, chưa phát huy được lợi thế
của vùng, đời sống của dân cư (đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng núi cao)
rất thấp kém, chậm được cải thiện. Mặc dù vậy, phong trào làm kinh tế trang
trại đang diễn ra mạnh mẽ. Tuy đang trong thời kỳ đầu phát triển, nhưng các
trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc đã đạt được hiệu quả kinh tế
cao.
Tuy nhiên, kinh tế trang trại vùng trung du miền núi phía Bắc vẫn còn
gặp rất nhiều khó khăn hạn chế: Thiếu vốn để đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, sản phẩm chưa qua chế biến chiếm tỉ trọng cao, sản phẩm
khó tiêu thụ trên thị trường; kết cấu hạ tầng yếu kém; trình độ của chủ các
trang trại không cao..., để làm tốt các vấn đề trên, suy cho cùng vốn là vấn đề
quan trọng hàng đầu đối với các trang trại. Vì vậy làm thế nào để các trang
trại có vốn, sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề cần được hết sức quan tâm.
Đề tài: "Các giải pháp tài chính để phát triển kinh tế trang trại vùng
trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam" góp phần tháo gỡ các khó khăn trên
nhằm mục tiêu thúc đẩy kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc
phát triển trong những năm tới là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Khái quát hóa những vấn đề lý luận về kinh tế trang trại, về tác động
của tài chính với phát triển kinh tế trang trại trên cơ sở phân tích lý luận, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn phát triển kinh tế trang trại và việc sử dụng các
công cụ tài chính thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển của một số nước trên
thế giới.



3

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại, thực trạng
sử dụng các công cụ tài chính tác động tới kinh tế trang trại vùng trung du và
miền núi phía Bắc Việt Nam, chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế trong sự phát
triển kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc; cũng như trong
việc sử dụng các công cụ tài chính để thúc đẩy kinh tế trang trại vùng trung
du và miền núi phía Bắc Việt Nam trong những năm qua và những nguyên
nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp tài chính nhằm tạo điều kiện
phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi
phía Bắc nước ta, phát triển mạnh kinh tế hàng hóa, hoàn thành từng bước quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; xóa bỏ nghèo đói, thay đổi tư duy,
lối sống của số đông người dân vùng cao,...
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Là các công cụ tài chính và tác động của các
công cụ tài chính vĩ mô tới kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía
Bắc, nhằm mục tiêu thúc đẩy kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía
Bắc phát triển.
Địa bàn nghiên cứu: Thực tiễn phát triển kinh tế trang trại vùng trung
du và miền núi phía Bắc Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ năm 1999 đến
năm 2010.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu khoa học và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
và thực tiễn về kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc, về sử
dụng các công cụ tài chính thúc đẩy các trang trại của vùng, luận án có những
đóng góp mới sau:



4

- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế trang trại,
khẳng định con đường phát triển kinh tế trang trại là tất yếu trong sự nghiệp
phát triển sản xuất hàng hóa, CNH, HĐH nông nghiệp nước ta nói chung,
vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta nói riêng.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế trang trại và
tác động của các công cụ tài chính với sự phát triển kinh tế trang trại cả nước
nói chung, vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta nói riêng.
- Phân tích thực trạng tác động của các công cụ tài chính với phát triển
kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc, thấy được những ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế sự tác động của các công cụ tài
chính tới phát triển kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp tài chính chủ yếu nhằm thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được chia thành ba chương:
Chương 1: Kinh tế trang trại và vai trò tài chính với phát triển kinh tế
trang trại.
Chương 2: Tài chính với phát triển kinh tế trang trại vùng trung du và
miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tài chính thúc đẩy kinh tế trang
trại vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam phát triển.


5

Chương 1

KINH TẾ TRANG TRẠI VÀ VAI TRÒ TÀI CHÍNH
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CHUNG VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1.1. Khái niệm và phân loại trang trại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với quy mô
lớn: Farm, Farm house... Khi chuyển sang tiếng Việt, thường được gọi là
trang trại hay nông trại.
Để làm rõ khái niệm kinh tế trang trại, trước hết cần phân biệt các
thuật ngữ "trang trại" và "kinh tế trang trại". Trong tiếng Việt hiện nay, hai
thuật ngữ trên trong nhiều trường hợp được sử dụng như là những thuật ngữ
đồng nghĩa (không phân biệt) nhưng về thực chất "trang trại" và "kinh tế trang
trại" là những khái niệm không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các
yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
tồn tại và hoạt động của trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật
chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ kinh tế đó.
Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài
mặt kinh tế, trang trại còn bao gồm cả mặt xã hội và môi trường.
Về mặt xã hội: Trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có
các quan hệ xã hội đan xen nhau: quan hệ giữa các thành viên của hộ trang
trại, quan hệ giữa chủ trang trại và người làm thuê; quan hệ giữa những người
lao động làm thuê với nhau...
Về mặt môi trường: Trang trại là một không gian sinh thái, trong đó
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng; không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái vùng.


6


Như vậy, có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên, trong các mặt: kinh tế - xã hội và môi trường của trang
trại thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang
trại. Vì vậy, trong nhiều trường hợp nói tới kinh tế trang trại tức là nói tới mặt
kinh tế của trang trại, người ta thường gọi tắt là trang trại.
Từ nhận thức trên, chúng ta có thể hiểu, về mặt kinh tế: trang trại là
một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp, có mục đích chủ yếu
là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sử dụng hoặc sở hữu của
một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô đất đai và các
yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và
trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường [31, tr. 16;
19].
Ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, trang trại nông,
lâm, ngư nghiệp bao gồm nhiều loại hình khác nhau, tùy theo các tiêu thức
nghiên cứu mà phân chia hệ thống trang trại cho phù hợp.
* Phân theo hình thức sở hữu: Trang trại bao gồm:
- Trang trại nhà nước: Đó là các nông trường quốc doanh, các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Các doanh
nghiệp này thường có quy mô lớn, thường hình thành nhiều cấp quản lý trung
gian.
- Trang trại tổ chức theo kiểu hợp tác xã nông nghiệp: Đó là hợp tác
xã nông nghiệp do các hộ gia đình nông dân tự nguyện thành lập nên, nhằm
tương trợ, giúp đỡ nhau mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa, tăng cường khả
năng ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường (tương tự như mô hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp kiểu cũ ở
nước ta giai đoạn trước năm 1988).
- Các trang trại được tổ chức dưới hình thức công ty như: Công ty hợp



7

danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,... bao gồm nhiều chủ sở
hữu cùng góp vốn, cùng hợp lực tạo lập công ty, đầu tư để làm kinh tế trang trại.
- Trang trại ủy thác: Là loại hình trang trại mà chủ trang trại không
trực tiếp quản lý mà ủy thác cho người khác (thường là người nhà hoặc bạn
bè) quản lý sản xuất kinh doanh.
- Các trang trại gia đình: Là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh
nông nghiệp phổ biến nhất hiện nay. Là loại hình chủ yếu sử dụng sức lao
động và tiền vốn của gia đình.
* Phân theo đặc điểm kinh doanh: Ta có:
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Là loại hình trang trại sản xuất kinh
doanh nhiều loại cây trồng, nhiều loại vật nuôi, sản xuất gắn liền với chế biến
và tiêu thụ sản phẩm.
- Trang trại chuyên doanh: Là loại hình trang trại sản xuất kinh doanh
tập trung chủ yếu vào một loại cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra một khối lượng
nông sản hàng hóa lớn.
* Phân theo quy mô trang trại: Trang trại bao gồm:
- Trang trại có quy mô lớn.
- Trang trại có quy mô vừa.
- Trang trại có quy mô nhỏ.
Quy định như thế nào là trang trại có quy mô lớn, quy mô vừa và quy
mô nhỏ, điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện
kinh doanh nông nghiệp của mỗi quốc gia. Để phân biệt giữa các trang trại
lớn, vừa và nhỏ thường dựa trên các tiêu thức chủ yếu: đất đai, giá trị sản
phẩm, sản phẩm hàng hóa, lợi nhuận và lao động của trang trại.
(Ví dụ: Ở Việt Nam có nhiều quan điểm cho rằng trang trại có quy mô


8


lớn là trang trại có quy mô đất đai 10 - 50 ha, trang trại có quy mô vừa là
trang trại có quy mô đất đai từ 2 - 10 ha, còn trang trại có quy mô nhỏ: quy
mô đất đai trên dưới 1 - 2 ha,...).
Mỗi cách phân loại trang trại cho chúng ta những nhận thức về một
góc độ của trang trại. Khi nghiên cứu tùy theo điều kiện và mục tiêu cụ thể
mà lựa chọn cách phân loại cho phù hợp.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại
Xuất phát từ quan niệm về kinh tế trang trại như trên, đồng thời qua
thực tiễn phát triển trang trại chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản
của kinh tế trang trại ở nước ta như sau:
- Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản phẩm
hàng hóa theo nhu cầu của thị trường.
- Tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu của một hoặc một
nhóm người (trừ ruộng đất).
- Trong các trang trại, các yếu tố sản xuất trước hết là đất đai và tiền
vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển của sản xuất
hàng hóa.
- Kinh tế trang trại có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ so
với hộ gia đình nông dân, dựa trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất, thâm
canh, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, thực hiện hạch toán, thường
xuyên tiếp cận thị trường.
- Chủ trang trại là người có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và
kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh so với
hộ gia đình nông dân.
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động.
- Có thu nhập vượt trội so với hộ gia đình nông dân [27], [29], [31].


9


Trong các đặc trưng trên, đặc trưng sản xuất hàng hóa là đặc trưng cơ
bản nhất của kinh tế trang trại. Bởi vì, đây chính là sự khác biệt cơ bản nhất
giữa kinh tế trang trại với kinh tế hộ gia đình nông dân (nông hộ). Hộ nông
dân vừa là gia đình - đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ sở sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất ra các sản phẩm tối cần thiết cho cuộc
sống và họ có thể tiêu dùng trực tiếp sản phẩm của mình. Do vậy, sản xuất
trực tiếp, tự túc là cái vốn có của kinh tế hộ gia đình nông dân.
Còn kinh tế trang trại, ngay từ khi ra đời đã mang tính sản xuất hàng
hóa và càng ngày tính chất và trình độ sản xuất hàng hóa của nó càng được
nâng cao.
Mặt khác, đặc trưng sản xuất hàng hóa của kinh tế trang trại sẽ chi
phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định đến các đặc trưng khác của
kinh tế trang trại.
Muốn tiến hành sản xuất hàng hóa đòi hỏi trang trại phải gắn với thị
trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường và đứng vững trong điều kiện thị
trường cạnh tranh. Muốn vậy các trang trại phải tích cực ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, khai thác được lợi thế của trang trại, lợi thế của vùng,
phải tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh tốt, tập trung ruộng đất và vốn với
một quy mô phù hợp với yêu cầu của sản xuất, thực hiện hạch toán kinh tế...
nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng
sức cạnh tranh. Đó là những đòi hỏi cao hơn nhiều so với hộ nông dân, đặc
biệt là các hộ nông dân sản xuất tự túc, tự cấp.
Thực tế là, trang trại nào biết khai thác lợi thế, biết tổ chức sản xuất
kinh doanh hợp lý, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản
xuất, tạo ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, biết chủ động tìm thị
trường tiêu thụ sản phẩm của mình đang là những trang trại làm ăn có hiệu quả.


10


1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang trại
1.1.3.1. Điều kiện tự nhiên với phát triển kinh tế trang trại
- Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên bao gồm: đất đai, thời tiết,
khí hậu, nguồn nước, vị trí địa lý... của trang trại.
Trang trại là các đơn vị sản xuất hàng hóa tập trung với qui mô lớn,
hoạt động sản xuất của trang trại gắn liền với các cơ thể sinh vật sống: cây
trồng, vật nuôi. Do vậy, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của trang trại trên mọi phương diện: Phương hướng sản
xuất kinh doanh, qui mô của trang trại, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của trang trại,...
+ Điều kiện tự nhiên là cơ sở hết sức quan trọng cho các trang trại xây
dựng phương hướng sản xuất kinh doanh của mình - trang trại chỉ có thể phát
triển được những cây trồng, vật nuôi mà điều kiện tự nhiên cho phép, trang
trại sẽ phát triển thuận lợi và đạt hiệu quả cao nếu phát triển các ngành có lợi
thế so sánh (về điều kiện tự nhiên) so với vùng, với khu vực. Nghiên cứu và
nắm vững điều kiện tự nhiên, xác định đúng lợi thế so sánh của trang trại,
giúp các trang trại xác định đúng hướng sản xuất kinh doanh, xác định được
cơ cấu sản xuất khoa học và hợp lý. Xác định đúng ngành chính, ngành
chuyên môn hóa, ngành bổ sung, bổ trợ, ngành phụ và phục vụ góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
+ Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới quy mô trang trại: nếu đất đai tập
trung trên quy mô lớn, lại ở nơi có vị trí thuận lợi sẽ cho phép các trang trại
phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, ứng dụng nhanh chóng các tiến
bộ khoa học - công nghệ, tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, quay vòng vốn nhanh,
góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Mặt khác,
giúp các trang trại tiết kiệm được một bộ phận vốn đáng kể thay vì dùng cho


11


đầu tư, cải tạo đất đai nay dùng để đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ,... vào sản xuất.
+ Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
trang trại: Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phép phát triển nhiều loại cây
trồng, vật nuôi tạo nhiều việc làm cho người lao động, góp phần cải thiện đời
sống, tăng thu nhập cho người lao động, cho chủ trang trại, cho phép khai
thác có hiệu quả hơn các nguồn lực tự nhiên, xây dựng cơ cấu cây trồng vật
nuôi khoa học hợp lý, phát huy được năng lực nội sinh của trang trại, của
vùng.
Nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi: đất đai màu mỡ, "mưa thuận gió
hòa"... làm cho cây trồng vật nuôi sinh trưởng, phát triển tốt đem lại năng suất
cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ,... tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm của trang trại, giúp cho trang trại mở rộng quy mô, tăng thu nhập cho
chủ trang trại.
Mặt khác, cho phép tiết kiệm được chi phí bảo vệ và cải tạo đất, bảo
vệ cây trồng, vật nuôi, tăng đầu tư trực tiếp cho phát triển cây trồng, vật nuôi.
Góp phần làm tăng hiệu quả vốn đầu tư của trang trại: rõ ràng rằng, với một
đồng vốn đầu tư vào vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi (đặc biệt là ở những
nơi có lợi thế so sánh hoặc những nơi có điều kiện tự nhiên đặc biệt cho phát
triển những loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, được thị trường ưa
chuộng), sẽ đem lại một khả năng sinh lợi lớn hơn nhiều so với một đồng vốn
đầu tư vào những nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên bên cạnh những mặt tích cực với phát
triển kinh tế trang trại còn có những mặt tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại: hạn hán, lũ lụt, sâu dịch bệnh,
gió mùa, sương muối,... địa hình chia cắt, gồ ghề, ruộng đất manh mún,...


12


Trang trại muốn phát triển, đòi hỏi các chủ trang trại phải nghiên cứu
kỹ nắm vững được điều kiện tự nhiên của vùng, chủ động phòng chống những
tác động tiêu cực của điều kiện tự nhiên để bảo vệ sản xuất bảo vệ con người,
tăng cường đầu tư bảo vệ, cải tạo đất đai mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh cho trang trại. Điều này đã làm tổn hao một lượng vốn không nhỏ của
các chủ trang trại; nếu với các chủ trang trại có xuất phát điểm thấp; vốn ít,
thiếu hiểu biết, sự hỗ trợ của hệ thống tín dụng không mạnh mẽ, thì việc khắc
phục một cách có hiệu quả các khó khăn trên quả là một vấn đề không dễ
dàng, điều đó đã làm hạn chế sự phát triển của trang trại.
Mặt khác, nếu vùng đất phát triển kinh tế trang trại có vị trí không
thuận lợi: xa đường giao thông, xa trung tâm, xa thị trường thì trang trại khó
có thể phát triển được (vì sản phẩm của trang trại phần lớn là sản phẩm hàng
hóa - cần phải được lưu thông nhanh chóng,...).
Do vậy, việc nghiên cứu, nắm vững được điều kiện tự nhiên của trang
trại, của vùng, nắm được lợi thế cũng như thấy hết được khó khăn về điều
kiện tự nhiên, giúp các chủ trang trại xây dựng được một hệ thống biện pháp
kinh tế kỹ thuật khai thác tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên, nhưng đồng thời
cũng chủ động khắc phục khó khăn của điều kiện tự nhiên, sớm có những
biện pháp phòng ngừa, những diễn biến phức tạp của điều kiện tự nhiên gây
nên để không ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại.
1.1.3.2. Thị trường với phát triển kinh tế trang trại
Trang trại là một đơn vị sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, cũng như
các đơn vị sản xuất hàng hóa khác, trang trại cần phải được gắn chặt với thị
trường, bao gồm thị trường "đầu vào" (tư liệu sản xuất, khoa học - công nghệ,
vốn, lao động,...) và thị trường "đầu ra" (tiêu thụ sản phẩm), thị trường trong
nước và thị trường quốc tế. Các loại thị trường này đều ảnh hưởng rất lớn tới
kinh tế trang trại. Trang trại muốn tồn tại và phát triển thì các sản phẩm do



13

trang trại sản xuất ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường: chủng loại
sản phẩm, số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, thời
gian cung cấp, giá cả sản phẩm, độ an toàn thực phẩm và các dịch vụ hỗ trợ
khác, mỗi thị trường lại có yêu cầu riêng, như vậy thị trường là "người đặt
hàng" cho trang trại, đồng thời thị trường cũng là nơi đánh giá, kiểm nghiệm
mọi mặt đối với sản phẩm của trang trại, nếu trang trại đưa ra thị trường
những sản phẩm được thị trường chấp nhận, thì sản xuất của trang trại được
duy trì và phát triển, ngược lại, sản phẩm của trang trại không được thị trường
chấp nhận, sẽ gây khó khăn cho phát triển kinh tế trang trại. Trang trại muốn
phát triển cần phải tạo ra những sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của thị
trường, hay nói cách khác: thị trường chính là "người" quyết định hướng sản
xuất kinh doanh của trang trại.
Mặt khác, cũng chính thị trường là người cung cấp các yếu tố cần thiết
(lao động, tư liệu sản xuất, công nghệ, vốn...) đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các trang trại. Như vậy thị trường cũng là một nhân tố có ý
nghĩa quyết định đến quy mô của trang trại, quyết định đến năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm của trang trại.
Thị trường ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của trang trại: Thị trường vận động theo các quy luật riêng của nó, các quan
hệ cung - cầu hàng hóa thường xuyên biến đổi, nếu hoạt động sản xuất kinh
doanh của các trang trại không thay đổi kịp thời thì hoạt động sản xuất kinh
doanh và thu nhập của trang trại sẽ bị giảm sút; những biến động thất thường
về nhu cầu một loại sản phẩm nào đó (tình trạng rớt giá liên tục của một loại
sản phẩm,...) sẽ gây khó khăn rất lớn cho các trang trại và người sản xuất.
Nếu các trang trại không đủ sức mạnh, không có các biện pháp để bảo hiểm
rủi ro hoặc thiếu các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước thì các trang trại rất
khó có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.



14

Hơn nữa, trong điều kiện thị trường cạnh tranh đã buộc các trang trại
xem xét các đối thủ, xác định thị phần của sản phẩm của trang trại làm cơ sở
khoa học cho việc xác định quy mô hợp lý của trang trại; đồng thời cũng
chính cạnh tranh đã thúc đẩy trang trại đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô
sản xuất,... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Trong điều kiện
nền kinh tế mở, liên kết, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới tác động
rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung trong đó có các trang trại,
trong điều kiện đó cả hai mặt cơ hội cũng như thách thức, khó khăn cho sự
phát triển của trang trại đều rất lớn.
Do vậy, để phát triển sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các chủ trang trại
phải có những hiểu biết nhất định về thị trường và các quy luật của thị trường
cũng như sự vận động của nó; hiểu biết các đối thủ cạnh tranh, có kiến thức
về khoa học - công nghệ, kiến thức về khoa học quản lý,... để khai thác tối đa
những mặt tích cực, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của thị trường.
Bên cạnh đó, các trang trại cần có sự hỗ trợ tích cực và có hiệu quả trên mọi
phương diện của Nhà nước, của các cấp các ngành liên quan.
1.1.3.3. Trình độ phát triển của vùng với phát triển kinh tế trang trại
Trình độ phát triển của vùng bao gồm: Sự phát triển về kinh tế, về văn
hóa, về xã hội,... của vùng như: sự phát triển của công nghiệp và các ngành,
sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng (điện, đường giao thông, trường
học,...); sự tích lũy của dân cư; trình độ văn hóa - khoa học kỹ thuật, trình độ
quản lý, thói quen của dân cư,... Trình độ phát triển của vùng ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại.
Có thể hình dung sự tác động của trình độ phát triển của vùng tới sự
phát triển kinh tế trang trại qua sơ đồ sau:
Môi trường KTXH
Đầu vào


Trang trại

Của vùng

Đầu ra


15

Sơ đồ 1.1: Sự ảnh hưởng của trình độ phát triển của vùng
tới phát triển kinh tế trang trại
Trang trại là đơn vị sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, trang trại muốn
sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và phát triển đòi hỏi phải được cung
cấp đủ các yếu tố đầu vào: lao động, khoa học và công nghệ, vốn,... thuận lợi
cho sản xuất (đủ số lượng, đúng thời gian, giá rẻ,...) đồng thời sản phẩm của
trang trại phải được tiêu thụ thuận lợi (nhanh, giá cả hợp lý có lợi cho trang
trại). Điều đó phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
vùng. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng ảnh hưởng một cách toàn
diện tới hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển của trang trại.
Với sự phát triển của công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo máy móc
cung cấp máy móc thiết bị cho các trang trại, góp phần CNH, HĐH hoạt động
sản xuất kinh doanh của trang trại nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành sản phẩm...
Công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến là thị trường tiêu thụ sản
phẩm rộng lớn cho các trang trại, sự phát triển của công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến thúc đẩy các trang trại mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa, đồng
thời thông qua các hoạt động liên kết kinh tế, hợp đồng kinh tế giữa các trang
trại với các nhà máy chế biến đã tạo điều kiện cho sự ổn định trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của trang trại, với sự hỗ trợ của các nhà máy chế biến: ứng

vốn, hỗ trợ về giống, kỹ thuật,... giúp các trang trại có điều kiện phát triển và mở
rộng sản xuất.


16

Để phát triển sản xuất có hiệu quả, chủ trang trại rất cần vốn, thông tin
về thị trường, kiến thức khoa học - công nghệ, kiến thức quản lý,... sự phát
triển của các ngành dịch vụ như: tài chính, ngân hàng, thông tin,... giúp các
chủ trang trại vượt qua khó khăn trên để phát triển sản xuất kinh doanh.
Trang trại muốn sản xuất kinh doanh thuận lợi đòi hỏi phải có kết cấu
hạ tầng phát triển, bao gồm đường giao thông, điện, kho bãi,... đủ sức vận
chuyển nhanh chóng kịp thời một khối lượng lớn vật tư, phân bón, sản
phẩm,... đủ sức cho phép trang trại ứng dụng máy móc, tiến bộ khoa học công nghệ có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, trong sơ chế, chế biến, bảo
quản nông sản và đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc sống.
Như vậy, kết cấu hạ tầng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của trang trại, nếu không có giao thông thuận lợi, sản phẩm của trang
trại sẽ khó được tiêu thụ, việc cung cấp tư liệu sản xuất: máy móc, thiết bị; vật
tư, phân bón gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới việc ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho năng suất, chất
lượng sản phẩm không cao, giá thành không hạ, sức cạnh tranh của sản phẩm,
của trang trại thấp, điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển
của trang trại.
Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống giáo dục liên quan đến việc đào
tạo nguồn nhân lực cho trang trại, liên quan đến việc nâng cao trình độ văn
hóa, khoa học kỹ thuật trình độ kinh tế, quản lý cho chủ trang trại. Trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường, liên kết kinh tế và toàn cầu hóa, hội nhập,...
trình độ của người lao động, đặc biệt là chủ trang trại có ý nghĩa quyết định
đến sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại,...
Sự tích lũy của dân cư, thói quen của dân cư trong vùng ảnh hưởng

lớn tới sự phát triển của trang trại. Nếu người dân có tỉ lệ tích lũy cao - giàu
có, có thói quen thích đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ..., sẽ thúc
đẩy phong trào đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong các trang


17

trại, thúc đẩy trang trại phát triển mạnh mẽ..., thúc đẩy các ngành phát triển, có
điều kiện để nâng cao chất lượng các yếu tố hạ tầng tạo điều kiện hỗ trợ cho các
trang trại và nền kinh tế chung của vùng phát triển. Ngược lại, nếu tỉ lệ tích lũy
của dân cư thấp - dân nghèo, lại không mạnh dạn đầu tư ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng, đây là trở lực rất lớn cho sự
phát triển của kinh tế trang trại nói riêng và nền kinh tế của vùng nói chung.
Do vậy, trình độ phát triển của vùng tạo ra môi trường cho các trang
trại phát triển, vùng nào có trình độ phát triển cao sẽ tạo ra môi trường, điều
kiện thuận lợi cho trang trại phát triển, vùng nào có trình độ phát triển thấp, sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các trang trại. Nhận thức được vấn
đề đó, muốn phát triển kinh tế trang trại, chúng ta cần phải tạo điều kiện nâng
cao trình độ phát triển chung của cả vùng; đồng bộ trên tất cả các khâu, phát
triển các ngành có liên quan: công nghiệp chế biến, các ngành dịch vụ: tài
chính, ngân hàng, thông tin, giáo dục, hạ tầng,...
1.1.3.4. Sự tác động của Nhà nước với phát triển kinh tế trang trại
Sự tác động của Nhà nước có vai trò vô cùng to lớn trong việc hình
thành và phát triển kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là sự phát triển ở trình
độ cao của kinh tế hộ gia đình nông dân và chủ yếu được hình thành từ kinh
tế hộ tự cấp tự túc, là quá trình tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất, mở
rộng quy mô, thay đổi mục đích và phương thức kinh doanh,... nếu cứ để kinh
tế hộ sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc biến đổi dần lên kinh tế trang trại con đường
đó mất rất nhiều thời gian có khi phải tới hàng thế kỷ; nhưng nếu được sự ủng
hộ của Nhà nước, kinh tế trang trại sớm được ra đời và phát triển mạnh hơn.

Sự tác động của Nhà nước được thực hiện thông qua:
- Nhà nước công nhận địa vị pháp lý của trang trại, bảo hộ cho trang
trại; giúp cho trang trại có tư cách pháp nhân, có chỗ đứng ngang hàng với
các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, tạo điều kiện cho các chủ trang trại yên


18

tâm đầu tư phát triển, thực hiện được các hình thức liên kết kinh tế, hợp đồng
kinh tế với các tổ chức kinh tế khác phát triển sản xuất kinh doanh,...
- Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
tổng thể các ngành kinh tế nói chung và quy hoạch phát triển ngành nông
nghiệp nói riêng. Đây là cơ sở giúp cho trang trại xây dựng được phương
hướng sản xuất kinh doanh phù hợp; là cơ sở cho sự ổn định và phát triển lâu
dài của trang trại.
- Nhà nước ban hành hệ thống chính sách kinh tế, xã hội đồng bộ và
ổn định, tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh
cho các trang trại phát triển: chính sách ruộng đất, chính sách thị trường,
chính sách khoa học - công nghệ, chính sách đầu tư,... theo hướng khuyến
khích kinh tế trang trại phát triển, khuyến khích các hình thức liên kết kinh tế
phục vụ cho kinh tế trang trại phát triển. Chính sách miễn giảm thuế sử dụng
đất, chính sách vay tín dụng với lãi suất ưu đãi, chính sách bảo trợ giá nông
sản,... đã thực sự có tác dụng tích cực trong việc hình thành và phát triển kinh
tế trang trại, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế
trang trại - giai đoạn hình thành kinh tế trang trại.
- Ngoài ra, Nhà nước còn thông qua hoạt động chi ngân sách nhà nước
(NSNN) chi cho các chương trình kinh tế lớn,... hỗ trợ đào tạo nguồn nhân
lực: xây dựng kết cấu hạ tầng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo chủ
trang trại, giúp đỡ các chủ trang trại về các thông tin thị trường, xâm nhập thị
trường chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản phẩm hàng hóa tạo điều kiện

cho kinh tế trang trại phát triển.
Kinh tế trang trại chủ yếu được hình thành từ kinh tế hộ gia đình nông
dân mà nên, do xuất phát điểm của kinh tế hộ gia đình nông dân thường là rất
thấp nhất là đối với các quốc gia nông nghiệp, do vậy, trong giai đoạn đầu
kinh tế trang trại gặp rất nhiều khó khăn: thiếu vốn, thiếu hiểu biết về kinh tế


19

thị trường, tiêu thụ sản phẩm,... do vậy để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi
phải được sự hỗ trợ của Nhà nước trên mọi phương diện. Khi kinh tế trang
trại phát triển, ổn định thì sự hỗ trợ của Nhà nước cho kinh tế trang trại sẽ
giảm dần.
Đặc biệt, trong xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, kinh
tế trang trại ở những nước như nước ta cần thiết hơn bao giờ hết, sự giúp đỡ
tích cực, toàn diện từ phía Nhà nước mới có thể đứng vững và phát triển
được.
1.1.3.5. Năng lực của chủ trang trại
Năng lực của chủ trang trại có ý nghĩa quyết định đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của trang trại: Xác định phương hướng sản xuất kinh doanh,
lựa chọn thị trường, lựa chọn sản phẩm, lựa chọn công nghệ, lựa chọn đối tác,
cách thức tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, cách thức quản lý,...
Năng lực của chủ trang trại bao gồm: năng lực hiểu biết về khoa học
kỹ thuật sản xuất; năng lực kinh doanh, năng lực quản lý, năng lực tài chính
và bao gồm cả ý chí vươn lên của chủ trang trại.
Là một tổ chức sản xuất hàng hóa với quy mô lớn trong điều kiện hiện
nay để tồn tại và phát triển, đòi hỏi chủ trang trại phải có năng lực. Chỉ có chủ
trang trại có năng lực mới nắm vững được sự vận động của thị trường, xác
định được hướng sản xuất kinh doanh, xác định thị trường cần xâm nhập, cần
chiếm lĩnh, có khả năng ứng dụng có hiệu quả tiến bộ khoa học - công nghệ

vào sản xuất nhằm không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng của sản xuất
kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế của các trang trại. Khai thác có hiệu
quả những tác động của môi trường, hạn chế tối đa các khó khăn. Tạo điều
kiện cho trang trại phát triển ổn định.
Trong nền kinh tế tiểu nông chỉ cần có những người nông dân - chủ hộ


20

cần cù lao động, nhưng trong nền kinh tế thị trường lại cần có những người
nông dân - chủ trang trại đồng thời là chủ doanh nghiệp năng động có đủ năng
lực điều hành, quản lý trang trại có khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của trang trại nhằm đạt hiệu quả cao
trong sản xuất kinh doanh.
1.2. TÀI CHÍNH VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

Phạm trù tài chính, tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường,
thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu
khác nhau của các chủ thể trong xã hội. "Tài chính thể hiện ra là sự vận động
của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các
mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua
việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của chủ thể trong xã hội" [63].
"Hệ thống tài chính là tổng thể các luồng vận động của các nguồn tài
chính khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau
về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội
hoạt động trong các lĩnh vực đó" [63].
Công cụ tài chính được hiểu là một phương tiện được Chính phủ sử
dụng để tác động vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đã
định. Các giải pháp tài chính là toàn bộ các biện pháp, gắn với sự tồn tại
khách quan của hệ thống tài chính, công cụ tài chính, được sử dụng để thực

hiện những mục tiêu đã định. Hệ thống các công cụ tài chính bao gồm: thu
ngân sách (chủ yếu là thuế), chi ngân sách, tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái,
bảo hiểm,... Trong luận án này, tác giả luận án chỉ xin tập trung chủ yếu vào
một số giải pháp tài chính vĩ mô: chi ngân sách, thuế và tín dụng.


21

Cơ chế tác động của các công cụ tài chính tới các trang trại, các doanh
nghiệp là: tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới tình hình tài chính của các
trang trại và các doanh nghiệp, nhằm giúp các trang trại, doanh nghiệp có đủ
vốn hoặc có vốn với điều kiện thuận lợi (giá vốn rẻ), tránh tình trạng thiếu
vốn phải đi vay nặng lãi hay phải bán non sản phẩm..., qua các công cụ tài
chính tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
trang trại, các doanh nghiệp. Thực hiện chức năng bảo hộ cho các trang trại,
các doanh nghiệp. Khắc phục những ảnh hưởng bất lợi của nền kinh tế thị
trường tới tình hình tài chính, cũng như tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
trang trại, của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các trang trại, các doanh
nghiệp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh
tranh của các trang trại, các doanh nghiệp.
Tác động trực tiếp: Là tác động của các công cụ tài chính trực tiếp vào
tình hình tài chính của các trang trại, các doanh nghiệp: miễn, giảm thuế, cho
vay tín dụng với lãi suất ưu đãi, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ cước phí vận chuyển...
Tác động gián tiếp: Là tác động của các công cụ tài chính không trực
tiếp tới các trang trại, các doanh nghiệp mà tác động vào môi trường sản xuất
kinh doanh của các trang trại, các doanh nghiệp, qua đó tạo môi trường hoạt
động sản xuất kinh doanh thuận lợi cho các trang trại, các doanh nghiệp: tác
động vào kết cấu hạ tầng, phát triển hệ thống dịch vụ, phát triển công nghiệp
chế biến, phát triển hệ thống thị trường... Chi NSNN cho các vùng, chi qua
các chương trình, dự án quốc gia: 120, 135, chương trình 5 triệu ha rừng v.v...

1.2.1. Chi ngân sách với phát triển kinh tế trang trại
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng của Nhà nước, chi NSNN không mang tính hoàn trả
trực tiếp. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay NSNN cũng dành một phần để cho


22

vay ưu đãi (tín dụng Nhà nước) thực hiện các chương trình, mục tiêu của Chính
phủ. Chi NSNN có quy mô lớn, phức tạp, có ảnh hưởng rất lớn đến đến hoạt
động kinh tế - xã hội trong đó có hoạt động của các doanh nghiệp, trang trại.
Xét trên phương diện nội dung, chi NSNN bao gồm: Chi cho đầu tư phát triển
(các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước góp phần làm tăng
trưởng kinh tế) chi cho y tế, chi cho giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ,
chi cho văn hóa, thể dục thể thao, chi về xã hội, chi cho quản lý nhà nước, chi
cho an ninh quốc phòng và các khoản chi khác. Các khoản chi ngân sách tạo ra
những nguồn tài chính chủ yếu hoặc có tác dụng như tạo ra khoản "vốn mồi" ban
đầu để kích thích các nguồn vốn của tư nhân và thu hút các nguồn vốn khác
trong xã hội đến với trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta.
Nhờ chi NSNN cho đầu tư phát triển, đã làm cho cơ sở vật chất kỹ
thuật mà đặc biệt là kết cấu hạ tầng, đường giao thông, thông tin của đất
nước, các vùng kinh tế được phát triển mạnh mẽ, các trang trại được thụ
hưởng những lợi ích đó để phát triển.
Nhờ chi NSNN mà các ngành sản xuất kinh doanh phát triển, lực lượng
sản xuất được nâng cao, đời sống người lao động trong vùng được cải thiện tạo
ra một môi trường kinh tế xã hội thuận lợi, tạo điều kiện cho trang trại phát
triển.
Ngoài ra, trang trại còn được thụ hưởng những tác động to lớn khác từ
chi NSNN:
+ Chi NSNN cho văn hóa giáo dục, y tế: Hàng năm NSNN chi một

khoản tiền khá lớn cho văn hóa, giáo dục, y tế..., chăm lo đến việc giáo dục
nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, sức khỏe cho đội ngũ người lao
động, nhằm tạo ra một đội ngũ người lao động có tri thức, có hiểu biết đáp
ứng yêu cầu phát triển mới của các ngành, các doanh nghiệp, các trang trại.


23

Đặc biệt là các nơi thuộc vùng trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi có
nhiều khó khăn, có đời sống văn hóa, tinh thần thấp.
+ Chi NSNN cho khoa học - công nghệ: Nhận thức được khoa học công nghệ có vai trò to lớn đối với sự phát triển của các ngành, các doanh
nghiệp, các trang trại,... trong điều kiện hiện nay, Nhà nước đã dành một
khoản ngân sách lớn chi cho việc phát triển khoa học - công nghệ. Nhà nước
đã quan tâm tới tất cả các khâu: nghiên cứu, triển khai (R & D) khoa học công nghệ, từ đời sống của các nhà khoa học đến điều kiện vật chất cho
nghiên cứu, triển khai khoa học - công nghệ (phòng thí nghiệm, cơ sở thực
nghiệm,...). Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chuyển giao công nghệ,... nhằm
tạo ra máy móc, thiết bị, giống cây, con mới,... phục vụ cho sự nghiệp phát
triển của đất nước của các ngành các doanh nghiệp và các trang trại,...
+ Chi NSNN cho hỗ trợ đầu tư, nhập khẩu, bảo trợ giá nông sản, hỗ
trợ cước phí vận chuyển một số loại hàng hóa cho các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa,...
+ Chi NSNN cho hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với
mục tiêu đưa tri thức mới, đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Nhà nước đã xây
dựng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư rộng lớn trong cả nước,
thống nhất từ trung ương đến các địa phương và cơ sở, hàng năm, NSNN
cũng chi một khoản khá lớn cho hệ thống này.
+ Chi NSNN thực hiện các chương trình kinh tế lớn: chương trình 5 triệu
ha rừng, chương trình việc làm (120), chương trình xây dựng vùng nguyên
liệu cho cây công nghiệp chế biến (chương trình mía đường,...).

Trang trại nào tận dụng cơ hội thông qua chi NSNN mang lại, trang
trại đó đã thu được tác động kép: một mặt làm tăng được vốn cho mình, vừa
sử dụng được tiến bộ khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực,… mà
không mất tiền hoặc mất với một khoản lệ phí rất nhỏ. Mặt khác, không phải


24

bỏ tiền ra hoặc nếu phải bỏ ra thì với một lượng rất nhỏ xây dựng kết cấu hạ
tầng, đổi mới khoa học - công nghệ và đào tạo nhân công, nhờ vậy mà tập
trung vốn, sức lực của mình cho đầu tư phát triển trang trại.
Chi NSNN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở các tỉnh thuộc khu vực
trung du và miền núi, bởi vì ở đây kết cấu hạ tầng rất yếu kém, điều kiện địa
hình có nhiều khó khăn, tích lũy của dân cư thấp. Các tỉnh vùng này còn gặp
nhiều khó khăn. Khả năng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước thấp. Tuy
nhiên, Nhà nước không thể làm thay Ủy ban nhân dân tỉnh, làm thay các trang
trại được, nhưng chi NSNN cần phải trở thành khâu đột phá, nhằm thu hút đầu
tư từ các nguồn khác thúc đẩy kinh tế toàn vùng nói chung trang trại nói riêng
phát triển. Chính quyền địa phương, dân cư, các ngành,... cần đứng ra cùng
Nhà nước làm tốt các vấn đề trên với tinh thần "Nhà nước, nhân dân cùng
làm".
Với các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm thấp chi
NSNN có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, NSNN của những nước này
không dồi dào, do vậy, việc kết hợp giữa "Nhà nước với nhân dân" cùng làm
trong mọi vấn đề là hết sức cần thiết; vấn đề quan trọng cần giải quyết là: Nhà
nước làm cái gì? Nông dân làm cái gì? Nhà nước phải làm những cái gì mà nông
dân không làm được hoặc làm không có hiệu quả, chẳng hạn đường giao thông,
kết cấu hạ tầng… Nhà nước cần nghiên cứu để thấy được nhu cầu của các vùng,
các địa phương để có cơ cấu chi NSNN phù hợp, mặt khác, các chủ trang trại
cũng cần chủ động tìm hiểu cơ cấu chi NSNN cho vùng để tiếp cận, có chương

trình hành động phù hợp, nhằm khai thác tối đa sự giúp đỡ của Nhà nước qua chi
NSNN.
1.2.2. Thuế với phát triển kinh tế trang trại
Thuế là hình thức đóng góp nghĩa vụ theo luật định của các tổ chức
kinh tế và dân cư cho Nhà nước bằng một phần thu nhập của mình. Thuế là
khoản thu bắt buộc, được thể chế hóa bằng luật, các cá nhân và pháp nhân có


25

nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước. Đây là khoản đóng góp không hoàn
trả trực tiếp của người nộp thuế. Bên cạnh nhiệm vụ cơ bản là tập trung nguồn
lực tài chính vào tay Chính phủ để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
đất nước trong từng thời kỳ. Thuế còn được dùng để điều chỉnh quá trình phát
triển của các ngành, các vùng. Ngoài ra qua thuế kích thích các nhà đầu tư bỏ
vốn vào phát triển các ngành, các vùng theo chương trình ưu tiên của quốc
gia.
Thuế

Thuế

Đầu vào

Trang trại

Lao động, tư liệu sản xuất,
vốn, khoa học - công nghệ
Giảm thuế
- Khuyến
khích phát

triển sản xuất.
Tạo nguồn
cung cho trang
trại
- Khuyến
khích nhập
khẩu.
- Thúc đẩy
doanh nghiệp
đâu tư đổi
mới công
nghệ phát
triển sản
xuất,...

Giảm thuế

- Khuyến khích
sử dụng có hiệu
Tăng thuế
quả đất đai, tài
nguyên rừng
- Hạn chế
biển (giảm sử
nhập khẩu
máy móc thiết dụng tài nguyên
thuế sử dụng
bị, nguyên
ruộng đất)
liệu.

- Góp phần tăng
- Tăng giá
đầu tư trở lại
đầu vào của
phát triển sản
trang trại.
xuất.
- Hạn chế
việc đổi mới, - Khuyến khích
ứng dụng tiến ứng dụng công
bộ khoa học - nghệ mới
công nghệ - Giảm chi phí →
trong các
tăng sức sức
trang trại
cạnh tranh →
...
cải thiện đời
sống của người
lao động →
tăng P → tăng
đầu tư → phát
triển sản xuất,...

Tăng thuế
- Giảm lợi
nhuận của
trang trại,
giảm thu
nhập của

người lao
động và của
chủ trang
trại.
- Tăng chi
phí sản xuất
→ tăng giá
thành sản
phẩm làm
cho sản
phẩm khó
tiêu thụ.
...

Thuế

Đầu ra
Giảm thuế

Tăng thuế

Làm cho
- Tạo điều
kiện tiêu thụ giá sản
sản phẩm tốt phẩm cao
khó tiêu thụ
hơn.
- Khuyến
khích xuất
khẩu.

- Tạo điều
kiện phát
triển công
nghiệp chế
biến.
...

Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa thuế với hoạt động sản xuất kinh doanh
của trang trại


×