Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.26 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------

ĐINH THỊ HỒNG THẢO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------

ĐINH THỊ HỒNG THẢO

T RU YỆ N N G Ắ N V Ũ T RỌ N G P H Ụ N G
T RU YỆ N N G Ắ N V Ũ T RỌ N G P H Ụ N G

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS TÔN THẢO MIÊN

THÁI NGUYÊN - 2008

THÁI NGUYÊN - 2008


Mục lục

2.1.2 Những bài ca có cốt truyện đơn giản



38

Phần 1: MỞ ĐẦU

1

2.2 Những bài ca không có cốt truyện.

49

1. Lý do chọn đề tài

1

2.2.1 Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch.

50

2. Lịch sử vấn đề

2

2.2.2 Những bài ca kể chuyện bâng quơ.

56

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5


2.2.3 Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình.

62

3.1 Mục đích nghiên cứu

5

Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày

69

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

6

3.1. Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực

69

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6

3.2 Yếu tố tự sự với mục đíc kể sự tả tình

81

4.1 Đối tượng nghiên cứu


6

3.2.1 Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm.

81

4.2 Phạm vi nghiên cứu

6

3.2.2 Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai.

86

5. Phương pháp nghiên cứu

7

3.3 Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình

90

6. Đóng góp của luận văn

7

Phần 3: KẾT LUẬN

97


7. Bố cục của luận văn

7

Tài liệu tham khảo

101

Phần 2: NỘI DUNG

8

Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn đề lý
luận có liên quan đến đề tài

8

1.1 Khái quát về người Tày và văn học dân gian Tày

8

1.1.1 Khái quát về tộc người Tày

8

1.1.2 Vài nét về văn học dân gian Tày

10


1.1.2.1 Một số thể loại văn học dân gian của người Tày

13

1.1.2.2 Dân ca sinh hoạt của người Tày

13

1.2 Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian

18

1.2.1 Loại hình tự sự
1.2.2 Yếu tố tự sự trong văn học dân gian

21

Chương 2: Các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự trong dân ca Tày 27
2.1 Những bài ca có cốt truyện
2.1.1 Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

27
29



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Phần 1: Mở đầu

2. Lịch sử vấn đề

1.Lý do chọn đề tài

Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao, dân ca với những đặc điểm

Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy

thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình trước những vấn đề

sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời

xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca cùng các vấn đề xung quanh nó từ lâu đã

ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể

được khoa lịch sử văn học soi sáng, phân tích dưới nhiều góc độ: Chủ đề, tư

sáng tác truyện thơ hay đến vậy.

tưởng, đề tài, thi pháp, ngôn ngữ… tuy nhiên về mặt loại hình còn có thể đi

Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có

sâu hơn nữa về một đặc điểm góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo loại hình


phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà

trữ tình dân gian tiêu biểu này. Đó là yếu tố tự sự và sự xâm nhập mạnh mẽ

nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã

của nó vào trong ca dao, dân ca. Đây có thể nói là một vấn đề độc đáo nên từ

hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình

lâu đã thu hút được sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này

đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca

có thể kể đến những ý kiến, bài viết sau:

trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi

Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diện: “...Khác với

niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ

phong cách của nhiều tác phẩm thơ ca trữ tình, trong văn học thành văn,

thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.

phong cách của ca dao, dân gian trữ tình biểu lộ khá rõ rệt xu hướng kể

Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều

cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con

chuyện, nghĩa là xu hướng miêu tả tình cảnh không chỉ qua tâm trạng mà còn
qua cả hành động nhân vật nữa”.[492, 16]
Về đặc điểm của yếu tố tự sự, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Lê
Trường phát đã gián tiếp kể ra trong khi viết về lối kể chuyện.

người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên

Tìm hiểu về lối kể chuyện trong ca dao, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị rất

luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi

chú ý tới phân biệt kể chuyện - trữ tình với kể chuyện - tự sự. Nét khác biệt

chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.

giữa hai loại này chung quy gồm mấy đặc điểm sau:

Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn

“1. Trong ca dao (ở đây đang nói về ca dao kể chuyện) nhân vật trữ tình

học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông

kể chuyện mình, còn trong vè, câu chuyện về nhân vật (tất nhiên là nhân vật

quan tâm chú ý. Vì vậy nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý


tự sự) lại do người khác kể lại.

nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2. Câu chuyện được kể trong ca dao là chuyện tâm tình - đó là nỗi niềm
được kể nhiều hơn là câu chuyện được thuật lại.” [207, 31]



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Cũng giống như nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, nhà nghiên cứu Lê
Trường Phát trên cơ sở viết về lối kể chuyện, đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất

cũng khó mà hình thành, cho nên chỉ có thể nói “sự” là cơ sở, là điểm tựa của
tư tưởng tình cảm trong ca dao”.[32, 34]

của những bài ca viết theo lối này: “Trong bài ca dao kể chuyện tuy cũng có

Tổng hợp các ý kiến trên, dễ nhận thấy có một điểm chung là từ cách gọi

sự nhưng nổi lên bình diện thứ nhất việc kể và tả là “tình” là nỗi niềm của


tên cho đến nội dung vấn đề được đưa ra, các nhà nghiên cứu mới chỉ gián

nhân vật (và là nhân vật trữ tình). ở đây câu chuyện đựơc kể không cần mang

tiếp nhắc đến yếu tố tự sự và cũng chỉ nhắc đến một khía cạnh nào đó của yếu

vẻ ngoài của nó như trong thực tại, điều đáng chú ý hơn cả vẫn là những cảm

tố này trong ca dao mà chưa tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể vấn đề này.

xúc tâm lí của nhân vật trữ tình phản ứng lại những biểu hiện, những vẻ
ngoài của sự việc.” [139, 26].

Với bài viết “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Nguyễn Bích Hà
đã bước đầu nhìn nhận, tìm hiểu yếu tố tự sự trên một số phương diện: Các

Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy lối kể chuyện mà hai nhà

dạng thức biểu hiện, đặc điểm vai trò của nó trong ca dao nói chung. Tuy

nhà nghiên cứu trên đề cập tới có nội hàm rất gần với yếu tố tự sự trong ca

nhiên do dung lượng có hạn của bài báo nên bài viết còn khá khái quát, chưa

dao. Do vậy, những ý kiến nhận định trên là những gợi ý quan trọng và quý

đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này.

báu cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài.


Trên đây là một số bài viết về yếu tố tự sự trong kho tàng ca dao người

Về các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự, dù chỉ nghiên cứu ở mức độ

Việt. Dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những kết quả nghiên cứu

khái quát nhưng trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao”, Phạm Thu Yến đã

trên thật sự là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện

bước đầu chỉ ra rằng yếu tố tự sự xuất hiện trong ca dao có những dạng thức

đề tài.

biểu hiện khác nhau.

Bên cạnh mảng ca dao người Việt, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến

Trong bài viết: “Học viết truyện ngắn trong ca dao cổ” Vũ Tú Nam qua
việc phân tích bài ca dao “Mình ta nói với ta mình hãy còn son” đã chỉ ra

việc tìm hiểu sự hiện diện của yếu tố này trong kho tàng dân ca của các dân
tộc anh em khác. Có thể kể đến một số bài viết sau:

những “đức tính” cần có của một truyện ngắn. Cũng trong bài viết này tác giả

Trong khi tìm hiểu về “Đặc điểm kết cấu dân ca Hmông”, tác giả Phạm

đã nêu một cấp độ biểu hiện của yếu tố tự sự trong ca dao: Cấp độ có cốt


Thu Yến nhận định rằng: “Một đặc điểm rất quan trọng, khi quan sát kết cấu

truyện.

dân ca Hmông là các bài dân ca này dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật,

Riêng bàn về “sự” và “tình”, Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra một cách rất

kể lể, phô diễn đậm nét hơn” và “Dân ca Việt, dân ca Trung Quốc kết cấu

hình ảnh cũng khá cụ thể mối quan hệ giữa hai yếu tố này: “Có thể nói “sự” là

thường ngắn, gọn, các yếu tố cốt truyện không rõ như dân ca Thái, dân ca

thể xác “tình” là linh hồn của ca dao. Muốn lập ý, diễn tình và cấu tứ nói

HMông có nhiều bài rõ yếu tố cốt truyện, đôi chỗ còn có lời trần thuật của

chung phải nhờ đến “sự”. Mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời thì sẽ mất hết nội

người dẫn truyện.” [60, 39]

dung, ý nghĩa, chẳng là cái gì cả. Nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ, tứ

Tìm hiểu về dân ca trữ tình Thái, tác giả này cũng cho rằng: “Một đặc
điểm dễ nhận thấy ở dân ca Thái là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối tự sự,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

phô diễn, giãi bày khiến dân ca Thái vừa giản dị, hồn nhiên vừa lãng mạn, thơ
mộng. Một bài dân ca Thái thường kể về một tình huống, diễn tả tâm trạng,
nhiều khi như kể cả câu chuyện có lời thoại, tả cảnh, tả tình.” [153, 39]

Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài là:

Riêng về dân ca sinh hoạt của người Tày, đối tượng mà đề tài hướng tới,

- Xác định một khái niệm chung nhất về yếu tố tự sự.

các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng có sự tham gia của yếu tố tự sự.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng đã khẳng định rằng: “Sli,
lượn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa nam nữ thanh

- Từ khái niệm ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Tày để
tìm ra những lời ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự và tiến hành phân loại
chúng.

niên, nhưng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự sự” và

- Trên cơ sở những số liệu cụ thể mà kết quả khảo sát đem lại, chúng tôi


“chính do hình thức diễn xướng nối tiếp này mà các bài lượn trữ tình vẫn

tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra một số đặc điểm cơ bản và vai trò của

mang hơi thở của thể loại tự sự’.[193, 14]

yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca Tày.

Tìm hiểu về “lượn sách”, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cũng khẳng

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

định: “Loại lượn này mặc dầu được trình bày trong các cuộc sli, lượn nhưng

4.1. Đối tượng nghiên cứu

lại mang yếu tố tự sự đậm đà hơn tính trữ tình”. [49, 33]

Các lời dân ca sinh hoạt của người Tày có sự hiện diện của yếu tố tự sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu

Như vậy, dù trong kho tàng ca dao người Việt hay ở bộ phận dân ca sinh
hoạt của người Tày, trên cấp độ loại hình, cần nhận thấy có sự xâm nhập

Các lời dân ca Tày đã được sưu tầm và biên dịch trong một số cuốn sách

mạnh mẽ của yếu tố tự sự vào loại hình tưởng như đối lập với nó về phương

sau:


thức biểu hiện - loại hình trữ tình dân gian. Nhưng cho đến nay vấn đề này

1. Ca dao Tày Nùng, Triều Ân (1994 ), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu, Nxb

vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến,
những nhận định của nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu
một cách tương đối toàn diện về yếu tố tự sự trong điệu hát dân ca trữ tình
Tày. Từ đó chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó trong việc biểu lộ cảm xúc
trữ tình của những cư dân nói tiếng Tày.

Văn học.
2. Lượn slương, Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm, dịch,
Nxb Văn hoá dân tộc.
3. Phong Slư, Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên soạn và
dịch thuật, Nxb Văn hóa dân tộc.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4. Đồng dao Tày, Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên soạn,

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nxb Văn hoá Dân tộc.

Qua việc tìm hiểu đề tài, luận văn sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca sinh hoạt

5. Lượn cọi Tày – Nùng, Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Nxb Văn
hóa dân tộc.


của người Tày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng, Hoàng Thị Quỳnh Nha
(2003), Nxb Văn hóa - Thông tin.

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, VĂN HỌC DÂN GIAN

7. Lượn Tày Lạng Sơn, Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới
thiệu, Nxb Văn hoá Dân tộc.

TÀY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Khái quát về tộc ngƣời Tày và văn học dân gian Tày

8. Lượn cọi, Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Nxb Văn hoá
dân tộc.

1.1.1 Khái quát về tộc người Tày
Tày là tên gọi từ lâu đời dùng để chỉ chung người dân tộc ở Trung


Và một số bài dân ca sinh hoạt của người Tày được tuyển chọn, phiên

Quốc và Đông Nam Á. Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này đã có từ nửa

âm, biên dịch in trong các hợp tuyển, tổng tập văn học.

cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Ngoài tên gọi này, người Tày

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

còn được biết đến bởi các tên Thổ, Cần Shín, Khay, Táy...

Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Bởi vậy,

Cùng với người Việt, người Mường... ở Việt Nam, người Tày đã có

với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này, chúng tôi sử dụng

mặt từ xa xưa gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước. Tính đến năm

nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp sau là

1995, dân số Tày ở nước ta vào khoảng 1,2 triệu người, đứng vị trí thứ nhất

cơ bản:

trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh

- Phương pháp thống kê, hệ thống.


thành trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Việt bắc,trên địa bàn các

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn... đặc biệt là Cao Bằng

- Phương pháp phân tích, khái quát hoá.

(75% dân số tỉnh Cao Bằng).

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.

Tìm về cội nguồn lịch sử, người Tày còn thuộc nhóm Âu Việt trong

6. Đóng góp của luận văn

khối Bắc Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam

Hoàn thành đề tài, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các

Trung Quốc. Vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt

dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.

(Tày - Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt - Mường) thành lập

7. Bố cục của luận văn

nên vương quốc Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là An Dương Vương Thục


Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của

Phán. Địa bàn quốc gia Âu Lạc là Bắc Bộ và Trung Bộ. Âu Lạc là quốc gia

luận văn được thể hiện trong 3 chương:

đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Trong quá trình cùng chung

Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn
đề lý luận có liên quan đến đề tài.

sống, đấu tranh để xây dựng và giữ gìn đất nước người Âu Việt và người Lạc
Việt vốn có những quan hệ gần gũi nhau, cùng giao lưu tiếp thu ảnh hưởng

Chương 2: Các dạng thức tồn tại của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.

văn hoá của nhau. Người Lạc Việt đông hơn và phát triển xuống vùng đồng

Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.

bằng phía Nam, theo hạ lưu các con sông và ven biển. Có thể những bộ phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





người Âu Việt đã hoà nhập vào nhóm Lạc Việt để hình thành dân tộc Việt

diệt vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân

hiện đại. Còn lại là những bộ phận người Âu Việt ở miền núi và trung du chịu

dân địa phương, đồng hóa với người Tày.

ảnh hưởng văn hoá của người Việt. Tức người Tày ngày nay.

Xã hội Tày trước cách mạng tháng Tám đã chuyển sang chế độ phong

Sau người Việt sống ở vùng đồng bằng phì nhiêu, người Tày sinh cơ

kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở miền xuôi nên quan

lập nghiệp ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi nhất. Đó là những cánh

hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn là quan hệ đoàn kết,

đồng miền núi, những thung lũng ruộng bậc thang xung quanh có cây rừng,

tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng làng xóm.

suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc trồng trọt chăn

Trên đây là một vài nét chấm phá về lịch sử tộc người và điều kiện xã

nuôi, đặc biệt là việc trồng các loại hoa màu, các cây công nghiệp, cây ăn quả.


hội của cư dân nói tiếng Tày trước cách mạng tháng Tám. Những điều này ít

Trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của đồng bào Tày căn bản là

nhiều đều có ảnh hưởng tới văn học dân gian nói riêng cũng như văn hóa của

một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nguồn sống chính là trồng trọt, thứ đến

người Tày nói chung.

là chăn nuôi. Thủ công nghiệp là nghề phụ trong gia đình. Việc thu thập khai

Có thể nói, địa hình miền núi ưu ái mà bất thuận, thiên nhiên hùng vĩ

thác lâm thổ sản là nguồn thu nhập quan trọng. Việc săn bắn bổ sung nguồn

tươi đẹp mà dữ dằn, cửa ngõ biên giới giao du rộng mở mà không kém phần

thu nhập cho gia đình. Việc buôn bán chủ yếu nằm trong tay người Hoa kiều

phức tạp... tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến điều kiện sống, sinh hoạt,

và người Việt ở thị xã, thị trấn.

văn hoá, tính cách của những người Tày. Người Tày không những đã tạo ra

Vùng sinh sống trước đây của người Tày là địa bàn chính chống xâm

được một nền văn hoá với những giá trị vật chất bền vững mà còn sáng tạo


lăng dưới nhiều triều đại. Từ thời Lý Trần, nhất là từ thời Lê, nhà nước phong

nên một nền văn hoá tinh thần với những phong tục tập quá lâu đời và phong

kiến đặt chế độ “thế tập, phiên thần” tức chế độ thổ ti, phái một số công thần

phú.

hay con cháu của họ, chọn trong những phần tử trung kiên nhất, đem theo gia

Trước hết, đó là những nét đẹp trong văn hoá sắc tộc của người Tày.

đình, thuộc tộc, lên chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới sau mỗi trận chiến

Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn có lòng kính già yêu trẻ. Dưới chế độ

thắng, quét sạch xâm lược ra khỏi bờ cõi. Các vị lưu quan này đời đời kế tục

cũ người phụ nữ không được đối xử bình đẳng với nam giới, không được

cai trị các địa phương, rất mực trung thành với triều đình trung ương.

hưởng gia tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng con tôn

Chế độ thổ ti dần tan rã dưới thời Pháp thuộc. Con cháu các dòng họ
thổ ti sống hòa vào nhân dân các địa phương, trở thành người Tày, mang theo
nhiều yếu tố văn hóa Việt. Một sự hòa hợp dân tộc trong lịch sử đáng chú ý
xảy ra vào thế kỉ 16, 17. Triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh
đuổi, chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc


trọng, vì họ giữ vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và trong quản lý
kinh tế gia đình.
Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa
anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt.
Người Tày sống hồn hậu, chân thành và đặc biệt có lòng mến khách.
Bản làng là đơn vị hành chính đồng thời là nơi diễn ra những sinh hoạt văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




hoá tinh thần. Ở đó họ sống với nhau thân thiện, đàm ấm và hoà hảo. Mỗi khi

đình thờ thần, không có các nhà tu hành mà chỉ có những người làm nghề

khách vào bản, cả bản vui mừng đón tiếp. Họ đón tiếp nhau không chỉ bằng

cúng bái như “tào”, “mo”, “then”, “pụt”...

tình cảm chân thành đằm thắm mà còn bằng cả tiếng hát lời ca ngọt ngào thiết

Thờ tổ tiên là tục lệ lâu đời của người Tày. Bàn thờ thường đặt ở gian
chính, hướng ra cửa. Những ngày lễ tết trong năm, những việc đại sự gia đình


tha:
Xin dâng lời đẹp cho người

như xây nhà mới, cưới xin, tang lễ... bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng là nơi họ

Xin dâng lời thơm cho bạn

thỉnh cầu, giao cảm tâm linh.

Nét phong tục độc đáo này trở thành một môi trường lý tưởng nuôi
dưỡng những tiếng hát lời ca của người Tày.

Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số vị Phật, Thần thường thấy
trong Phật giáo như Phật bà Quan âm, trong đạo giáo như Hắc Hồ Huyền

Nói đến văn hoá người Tày không thể không nói đến ngôn ngữ của

Đàn, Hoa Vương, Thánh Mẫu... Trong khi làm ma chay cúng bái, đồng bào

người Tày. Người Tày đã sớm có một thứ ngôn ngữ của riêng mình. Qua thời

dùng một số nghi thức trong “thọ mai gia lễ”. Tín ngưỡng của đồng bào Tày

gian sàng lọc tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và ngữ

bắt nguồn từ thuyết vạn vật có linh hồn, chủ nghĩa đa thần trong nguyên thủy,

pháp. Trong từ vựng tiếng Tày và tiếng Việt đều có những từ vay mượn của

tục thờ thần dòng họ, tục tin ở rất nhiều thứ ma, gọi là “phi”, kết hợp với một


nhau, nhất là có rất nhiều tiếng từ Hán Việt. Lý do rất đơn giản bởi giống như

số yếu tố Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo do những người làm nghề cúng bái

người Việt, trước đây người Tày đã từng học chữ Hán, sau đó trên cơ sở chữ

đem truyền bá trong dân gian.

Hán, người Tày đã tạo ra chữ Nôm Tày. Sự ra đời chữ Nôm Tày có ý nghĩa

Những ngày hội, ngày Tết truyền thống trong đồng bào Tày cũng như

vô cùng quan trọng trong tiến trình văn hoá lịch sử phát triển dân tộc Tày.

trong người dân Việt Nam nói chung đều là những ngày Tết nông nghiệp.

Ngay từ khi ra đời, chữ Nôm Tày trở thành một phương tiện đắc dụng ghi lại

Mỗi ngày Tết trong năm đều có ý nghĩa riêng, có những nghi lễ và đồ cúng

tiếng nói Tày, thơ ca, truyện khuyết danh... của dân tộc Tày. Như vậy, qua

riêng, thường là sản phẩm tiêu biểu của từng mùa. Tết đầu năm âm lịch là Tết

thời gian sàng lọc đến nay, người Tày đã tương đối ổn định phát triển và đáp

lớn nhất trong năm. Đồng bào ăn mừng kết thúc một năm thu hoạch thắng lợi,

ứng nhu cầu giao tiếp của đồng bào. Tiếng nói ấy sinh động về âm thanh, giàu


đồng thời chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất. Mỗi Tết đến đều mang lại

có về từ ngữ, phong phú về sắc thái biểu cảm. Điều này thể hiện rõ trong lời

cho người ta những hy vọng mới. Trong tháng Tết này người ta mở những

ăn tiếng nói, nhưng đặc biệt là qua kho tàng văn hoá dân gian của họ.

ngày hội Lồng Tồng để cầu mùa màng, để cho trai gái vui chơi, ca hát với

Tín ngưỡng, lễ hội cũng là một mảng quan trọng trong đời sống tinh
thần đồng bào Tày. Đó là nơi bộc lộ rõ nhất đời sống tâm linh của họ.

nhau, tổ chức những trò chơi dân gian để thưởng xuân. Đây còn là dịp để bạn
bè, bà con đến hỏi thăm nhau, con cái ở xa về thăm cha mẹ, nhất là con rể đến

Thật khó mà xác định người Tày thuộc tôn giáo nào. Phật giáo rất phổ

lễ tết bố mẹ vợ. Ngoài ngày Tết đầu năm, trong năm, người Tày còn rất nhiều

biến ở Việt Nam. Nhưng người Tày hầu như không có chùa thờ Phật mà chỉ

ngày Tết khác như: Tết mùng 3 tháng 3 âm lịch, Tết Đoan ngọ mùng 5 tháng
5, Tết rằm tháng bảy, Tết trung thu... Những ngày hội, ngày Tết truyền thống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




nói chung có những ý nghĩa lành mạnh, nó nói lên ước mong của người dân

Truyện cổ tích ra đời đã đánh dấu bước trưởng thành trong tiến trình

lao động muốn làm sao cho mùa màng của mình thu hoạch tốt, của cải được

văn học dân gian Tày. Phần lớn các truyện đều nói lên đạo đức tài năng của

dồi dào, ấm no, hạnh phúc. Thực tế hơn, nó nhằm cải thiện phần nào đời sống

những người bình dân, những người cùng khổ nhất, người có công đánh giặc

của người lao động sau những ngày làm ăn mệt mỏi trên những nương rẫy.

cứu nước, đả kích bọn hôn quân bạo chúa, cường hào ác bá. Có truyện đề cao

1.1.2 Vài nét về văn học dân gian Tày

lòng chung thuỷ vợ chồng, tình bạn bè giàu nghèo sống chết có nhau. Có

1.1.2.1 Một số thể loại văn học dân gian Tày

truyện giáo dục con cái về quan điểm lao động như truyện phú ông bắt con

Với những khao khát chinh phục thiên nhiên cải tạo cuộc sống mà dân


trai đi học nghề trước khi được hưởng gia tài của ông cha để lại. Có thể thấy

tộc Tày sớm thoát khỏi thời kì mông muội, tiến tới văn minh loài người. Mặt

kho tàng truyện của người Tày vô cùng phong phú. Qua những câu chuyện

khác, trải qua những cuộc thiên di vĩ đại, người Tày đã có một nền văn hoá

truyền miệng đó, ít nhiều chúng ta cũng cảm thấy bóng dáng của sự phát triển

phát triển lâu đời. Người Tày lại sớm có chữ viết và ngôn ngữ riêng nên họ đã

của loài người từ nguyên thuỷ xa xưa tới khi xã hội phân chia thành giai cấp

xây dựng được một nền văn nghệ nói chung và văn học dân gian khá đồ sộ.

đối kháng.

* Loại hình tự sự dân gian

Truyện cười của người Tày không nhiều, ý nghĩa đấu tranh giai cấp

Người Việt có thần thoại là cơ sở giải thích các hiện tượng tự nhiên và
sự ra đời của vạn vật thì người Tày cũng đánh dấu trong kho tàng văn hoá dân

cũng chưa sâu sắc thâm thuý. Nội dung chủ yếu của truyện cười là phê phán
thói hư tật xấu trong nội bộ người dân lao động.

gian của mình bằng thần thoại Pú Lương Quân. Truyện đã thâu tóm giới thiệu


Truyện ngụ ngôn của người Tày cũng không nhiều. Nói chung, đó là

cả ba thời kì sinh hoạt của quá trình phát triển xã hội loại người, săn bắt, trồng

những truyện về cơ bản có hình thức là mượn truyện loài vật để nói về các

trọt, chăn nuôi. Những hệ thống thần thoại người Tày mang đậm màu sắc

mối quan hệ nhân sinh. ý nghĩa chủ yếu của truyện là rút ra các bài học sâu

hoang đường nhưng trong ý niệm tuyệt đối, những câu chuyện này đã phản

sắc về thế sự, mục đích chủ yếu là đề cao trí thông minh của người lao động.

ánh được sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan của người Tày cổ xưa.

Đối với thể loại truyện thơ dân gian, người Tày đã đóng góp cho kho

Truyền thuyết Tày đặc biệt phong phú ở bộ phận có mẫu đề người anh

tàng văn học dân tộc những kiệt tác mà cho đến nay những giá trị nội dung và

hùng chống xâm lăng, giữ vững địa bàn cư trú. Trong đó nổi bật là nhóm

nghệ thuật của nó còn khiến các thế hệ sau phải ngỡ ngàng: Khảm Hải, Nam

truyện kể về các thủ lĩnh quân sự, các vị anh hùng. Trong đó, có thể kể đến

Kim - Thị Đan, Lưu Đài- Hán Xuân, Trần Chu- Quyển Vương... Kết cấu


truyền thuyết Nùng Trí Cao, Hoàng Lục, Tôn Đản, Dương Tự Minh... Ngoài

truyện thơ thường diễn ra theo ba bước: gặp gỡ, yêu thương tha thiết – tình

ra, ở mảng thể loại này còn phải kể đến vô số truyền thuyết địa phương, kể về

yêu tạm thời bị chia cắt hoặc tan vỡ- đôi bạn tìm cách thoát khỏi trói buộc để

những vị có công khai sơn phá thạch, lập bản dựng mường mà tên tuổi được

đoàn tụ. Truyện thơ dân gian Tày thể hiện khát vọng dân chủ, khát vọng hạnh

coi như là thật, được chép lại trong các thần tích, thần phả gắn liền với cả đền

phúc mãnh liệt cũng như ý thức chống lại lề thói tập tục khắc nghiệt, bóp

thờ thần, miếu thờ thành hoàng... ở những bản làng Tày.

nghẹt quyền tự do yêu đương của con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





* Loại hình trữ tình dân gian.

đối đáp được thì coi như thua cuộc. Do vậy trai gái Tày rất chú ý học hỏi kinh

Gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét nhất đời sống vật chất và tinh thần

nghiệm của người già để có vốn đối đáp phong phú.

của người Tày phải kể đến loại hình trữ tình dân gian Tày. Đó là những lời ca

Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam, nữ

tiếng hát cất lên từ nhà sàn yêu dấu, từ mảnh rừng xanh bao la, từ dòng suối

thanh niên Tày hàng ngày. Đây là lối nói tự do, sáng tạo, thường được diễn ra

hiền hoà mát thương... Trai gái Tày đem những tiếng hát lời ca cất lên như

khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội... Nó cũng là một hình thức

một cái cầu nhỏ gửi tâm tình tới người thương yêu, tới quê hương làng bản.

biểu hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện những

Loại hình này được hợp thành từ hai tiểu loại: Dân ca nghi lễ và dân ca

sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt rũa, những lời phuối

sinh hoạt. Mỗi mảng lại có những đặc sắc riêng trên cả hai phương diện nội


phác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng

dung và nghệ thuật.

mạn.

* Các thể loại trung gian

Sẽ khó có thể miêu tả được hết diện mạo văn học dân gian Tày. Nó vô

Tục ngữ Tày rất phong phú. Về hình thức, đó là những câu ngắn gọn

cùng phong phú về thể loại, đồ sộ về khối lượng, đa dạng về sắc thái biểu

văn vẻ, giàu hình ảnh gần gũi với đời sống ngàn năm. Về nội dung, đó là

cảm. Trong vốn văn hoá cổ quý báu đấy, gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét

những câu đúc kết những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống muôn màu

nhất đời sống, tình cảm và tư tưởng của người Tày phải kể đến dân ca sinh

muôn vẻ của cộng đồng Tày trên cả hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nghiên

hoạt. Lựa chọn tiểu loại này làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ nói rõ

cứu tục ngữ của đồng bào Tày, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn hoàn cảnh làm ăn

hơn ở mục sau.


sinh sống và những kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất, trong quan

1.1.2.2 Dân ca sinh hoạt của người Tày.

hệ xã hội và gia đình của đồng bào xưa.

Dân ca Tày có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lao động

Câu đố là một thể loại khá phổ biến ở mọi vùng cư trú của người Tày.

sản xuất, trong sinh hoạt giao tiếp thì có dân ca sinh hoạt, trong các nghi lễ

Bất kỳ ở đâu nhưng lúc bên bếp lửa, đi làm nương rẫy, trò chuyện, vui đùa

trang trọng thì có các mo, then, tào, pụt, trong đám cưới đám hỏi, rước dâu thì

người ta đều dùng câu đố như một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Nội

có hát quan làng. Nói chung những hình thức sinh hoạt đó thường tập trung

dung của câu đố rất phong phú biểu hiện những nhận xét sắc sảo, tinh tế và

phô diễn tình cảm, ca ngợi lao động, ca ngợi tình yêu, đề cao tự do... Ở mỗi

hóm hỉnh. Các câu đố về sự vật, con người, về hiện tượng tự nhiên rất gắn bó

phương diện của cuộc sống thì có một thể tài ca hát riêng. Vì vậy, các mảng

với đời sống hàng ngày của người Tày. Đây cũng là một hình thức giải trí tuơi


đề tài đã có đường biên rõ nét. Đó là các bài hát về lao động sản xuất, hát

mát, đầy chất thông minh và có tác dụng giáo dục cộng đồng một cách sâu

mừng đám cưới, hát mừng nhà mới, hát mừng hội bản hội mường, hát sinh

sắc.

con, hát đưa tiễn linh hồn và đặc biệt là hát về tình yêu với tất thảy cung bậc
Câu đố có thể cấu tạo từ hai đến hàng chục câu. Trai gái Tày có lúc sử

của nó.

dụng câu đố dưới hình thức hát Lượn giao duyên. Bên trai hay bên gái không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Một trong những hình thức mà đề tài hướng đến chính là dân ca sinh

- Tiếng Then thành tiếng Then phơi phới

hoạt của người Tày. Mảng tiểu loại này có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc


Tiếng cọi thành tiếng cọi thiết tha

sống người Tày. Từ lúc bước chân xuống thang ra khỏi nhà đến mảnh nương,

- Ra chợ được nghe tiếng Hà lều

thửa ruộng để nhặt rêu bắt ốc, tìm măng hái củi… lúc nào, nơi nào cũng phải

Bát phở không cần mỡ cũng ngon

có câu hò tiếng hát. Tiếng hát lời ca đã trở thành linh hồn của bản mường, là
nơi thể hiện chân thành tình cảm của người Tày theo cách riêng của mình.

Về hình thức sinh hoạt diễn xướng, đặc trưng của lượn là đối đáp, đối
ca và nối tiếp ca.

Dân ca sinh hoạt của người Tày không chỉ phong phú về nội dung,

Đối đáp là một trong những hình thức sinh hoạt phổ biến của lượn.

chan chứa sắc thái biểu cảm mà còn đa dạng về các tiểu loại. Có thể kể đến

Hiểu một cách đơn giản nhất đối đáp là một bên “đối” và một bên đáp trả lại.

một số tiểu loại sau:

Một bên - thường là “khách” - bao giờ cũng ca ngợi hết lời những thứ, những

* Lượn: là một bộ phận dân ca Tày. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu


vật... của bên “chủ”. Bên chủ sẽ đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn, lịch sự,

vẫn chưa đưa ra một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ ngày. Nhưng theo nhà

không dám nhận những lời khen của khách. Xét về hình thức, lối hát này

nghiên cứu Vi Hồng, Lượn có cội nguồn từ chữ Vjén (ru) mà thành. Lượn có

không có những nét khác biệt lắm so với những cuộc hát ví, hát phường vải,

rất nhiều tiểu loại. Ngoài hai loại cơ bản tiêu biểu lượn cọi và lượn slương,

phường cấy... của người Kinh.

người Tày còn có lượn then, lượn nàng Hai, lượn khắp… Trong cái nhìn đối

Bên cạnh đối đáp là đối ca. Đối ca phổ biến ở lượn slương sau nữa là

sánh với dân tộc Kinh, lượn là một lối hát giao duyên có thể tương tự như lối

lượn then. Ở lượn slương thường là tập thể bên nam bên nữ, mỗi bên có khi

hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay

đến hai chục người hoặc hơn nữa. Nam nữ ngồi thành hai hàng theo chiều dài

động lòng người gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Người Tày coi lượn

của gian nhà sàn, quay mặt vào nhau. Sau những lời mời lịch sự của chủ nhà,


như một nhu cầu tinh thần không thể nào thiếu được: “Khắp mọi luỹ làng của

lời tuyên bố lý do của bên chủ và vài nghi thức đơn giản khác, hai bên nam nữ

người Tày, Nùng không mấy khi vắng tiếng Sli, giọng lượn. Chỉ trừ giấc ngủ

bắt dầu “đối ca”. Đối ca có thể đối về đề tài lượn, đối về nội dung của bài

và bữa ăn của họ – Sli lượn vang lên từ trong mọi nhà, ra khắp bản mường...

lượn hoặc chỉ đối có tính chất hình thức, đối hoa, đối mùa, tháng... có khi thay

ngoài đồng ngoài rẫy, ngoài chợ, ngoài đường. Không chỉ có thanh niên mà

nhau lượn những khổ lượn khác nhau.

người già, người trẻ đều thích Sli, lượn, thích nghe Sli, lượn”.....[26, 14]
Đã có một thời tiếng lượn ngập tràn làng bản, đồi núi, hoà vào tận tâm
hồn, huyết mạch đồng bào:

“Nối tiếp ca” là một hình thức nữa của sinh hoạt diễn xướng lượn. Có
hai loại nối tiếp ca. Thứ nhất là nối tiếp ca theo đúng nghĩa đen của thuật ngữ
này. Nghĩa là bên nam, bên nữ thay nhau, lần lượt hát lên những bài lượn về

- Nửa đêm Nàng ới cháy lòng

một đề tài. Có những câu chuyện chia làm nhiều đoạn nhỏ, mỗi bên lần lượt

Khiến em dừng đường kim đường vá


hát lên từng đoạn như tiếp nối nhau cho đến hết câu chuyện.

Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Loại nối tiếp thứ hai là hai bên cùng hát tiếp nối - chắp nối các “đường

Tóm lại Phong slư phục vụ cho tình yêu lứa đôi nhưng Phong slư cao

lượn” với nhau, các đường lượn ấy thì rất nhiều tùy theo từng cặp, những tốp

hơn cuộc sống, nên có yếu tố hư ảo mang theo tính tao nhã, thanh cao. Vì vậy,

ca thuộc nhiều hay ít.

Phong slư vẫn tồn tại trong đời sống tình cảm của người Tày như một nét đẹp

Thông qua các hình thức diễn xướng này mà tiếng hát lời ca ngân lên
mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần không thể thiếu
được trong đời sống tinh thần người Tày.

trong văn hoá độc đáo thấm đẫm phong vị trữ tình.

* Những bài hát vui cho trẻ em: Đồng dao và hát ru
Đồng dao là những bài hát vui của lứa tuổi nhi đồng. Nó có thể xuất

* Phong slư: Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc

hiện tự nhiên (như những hạt mầm khoẻ mạnh dưới nắng xuân) được xướng

sắc của trai gái Tày. Bức thư này viết bằng chứ Nôm Tày trên nền vải sa tanh

lên từ những cuộc sinh hoạt vui chơi của tập thể nhi đồng hoặc đó là bài hát

đỏ, rộng chừng một mét vuông. Vải được vẽ hoa biên, hai bên là hai con rồng

của cha mẹ, anh chị thương quí các em mà đặt lên lời ru.

há mồm chầu mặt trời hoặc chim muông. Ngày xưa con trai, con gái Tày ít

Đồng dao cho em tuy kết cấu không được chặt chẽ nhưng có vần, có

học chữ, không biết chữ, bởi thế họ thường nhờ một người là Slấy cá viết hộ,

điệu, dễ đọc, dễ nhớ phù hợp tâm lý của trẻ em. Những bài ca với những hình

Slấy cá là người trí thức bình dân sống trong cộng đồng Tày. Phong slư do

ảnh đẹp đẽ đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ phát triển lớn lên cùng với lòng tôn

Slấy cá viết, ghi lại những tâm tình thầm kín của trai, gái Tày. Phong slư được

kính mẹ cha, tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, sống nhân ái, vị tha... Có thể


gửi đi, khi nhận được, người con trai con gái Tày lại đem Phong slư đó đến

nói, đồng dao Tày là di sản văn hoá mang bản sắc dân tộc đậm đà.

nhờ một Slấy cá đọc, Slấy cá thường ngâm ngợi những bức thư đó theo một

Cùng với những bài đồng dao, hát ru chủ yếu là lời ca dành riêng cho

giai điệu tha thiết. Vì vậy, bức thư có tính chất cá nhân ấy thông qua Slấy cá

các em nhỏ. Ngay từ thuở ấu thơ, các em đã được đắm chìm trong tiếng hát

trở thành một loại dân ca mang tính cộng đồng.

lời ca qua những lời ru ngọt ngào của người mẹ, người chị. Hát ru là nguồn

Tình yêu nam nữ trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách trắc

sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn con người từ thuở còn trên nôi. Những lời

trở, tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy

ca mộc mạc, giản dị, chân chất, thật sự đã trở thành cầu nối trí tuệ tâm hồn

nhiên không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ lãng

của bậc sinh thành với thế hệ mai sau. Người Tày có rất nhiều bài hát ru và

mạn, nhân văn.


đến nay tiểu loại này vẫn đang được sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu ngày
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy

càng rộng rãi.

Dẫu là không lấy được cũng cam

Thơ ca dân gian giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học dân gian

Yêu nhau để khắp mường được thấy

Tày. Có thể nói nó là bộ phận phong phú nhất trong kho tàng văn học dân

Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau

gian của người Tày. Và trong bộ phận thơ ca hết sức phong phú này, thơ ca

Tới trăm năm khi về âm phủ

sinh hoạt lại nổi lên như một loại hình đặc sắc nhất. Việc tìm hiểu khái quát

Ta rủ nhau về chốn mường hơn

diện mạo thơ ca sinh hoạt sẽ giúp người viết rất nhiều trong việc đi sâu vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




tìm hiểu một khía cạnh độc đáo của thể loại này. Đó là yếu tố tự sự và sự hiện

trưng nổi bật nhất và cũng là quan trọng nhất của loại hình tự sự là tính khách

diện của nó trong kho tàng dân ca Tày.

quan. Cũng theo Bielinxki, trong mối quan hệ với những loại hình còn lại, nếu

1.2 Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian

tác phẩm trữ tình ưa nói tới cái chủ quan, tác phẩm kịch là “sự dung hợp của

1.2.1 Loại hình tự sự

các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình” thì đối

Phân văn học theo phương thức phương tiện thẩm mĩ ở cấp độ loại

tượng mà tự sự hướng tới là tính khách quan của thế giới.

hình, thuật ngữ tự sự và trữ tình từ lâu đã được các nhà kinh điển mỹ học và

T.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mỹ lại cho rằng “Tự sự là cách để ta đưa

lý luận văn học trên thế giới đề xuất nghiên cứu trong sự phân biệt và tương


cái sự việc vào một trật tự và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa, tự sự là

quan ước lệ. Tuy nhiên, theo sự tiến hoá của văn hoá, xã hội và lịch sử, những

cách tạo nghĩa cho sự kiện biến cố”.

tư liệu bao quát chúng ngày càng phong phú, đa dạng, sự chuyển hoá thâm
nhập lẫn nhau của chúng trong thực tiễn sáng tác cũng gây không ít khó khăn

Như vậy, mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau, sẽ có các
quan điểm khác nhau về tự sự.

cho người nghiên cứu trong việc xác định thể loại. Trong khi nêu lên những

Song dù nhấn mạnh đặc trưng nào, tiêu chí loại hình vẫn có một cái lõi

ranh giới cụ thể giữa chúng cũng như những đặc tính và những biến thể phong

chung nhất. Về khái niệm tự sự chúng tôi thống nhất quan điểm của các nhà

phú, lịch sử phân định loại hình tự sự và trữ tình đã có những ý kiến khác

biên soạn "Từ điển thuật ngữ văn học" : " Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh

nhau.

hiện thực trong cảm nhận chủ quan về nó thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời
Một trong những người đầu tiên nhắc đến khái niệm tự sự trong sự


sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện

phân biệt hai loại hình còn lại, phài kể đến la Arixtot. Theo Arixtot, văn học

thực qua bức tranh mở rộng của đời sống, trong không gian, thời gian, qua các

có ba phương thức mô phỏng hiện thực. Đó là kể về một sự kiện như về một

sự kiện biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà

cái gì tách biệt với mình như Homere vẫn làm, hoặc là người mô phỏng tự nói

văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình. Nhưng ở đây tư tưởng và

về mình không thay đổi ngôi xưng, hoặc là trình bày tất cả những nhân vật

tình cảm của nhân vật thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài

được mô tả trong hành động. Tên gọi của ba phương thức trên lần lượt là tự

của con người tới mức giữa chúng dường như không có sự phân biệt nào cả ".

sự, trữ tình và kịch. Như vậy, ở dạng ban đầu, tự sự chỉ được coi là một

[328, 11]

phương thức mô phỏng hiện thực.

Vấn đề cơ bản của phương thức tự sự là "nhà văn kể lại, tả lại từ những


Cho đến sau này, trong quá trình phân biệt loại văn học, các nhà nghiên

gì bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực phản ánh

cứu mới dựa vào ba phương thức trên mà khái quát hoá, phân loại thành ba

trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn

loại hình văn học. Lúc này, tự sự mới xuất hiện với tư cách là một loại hình.

tại ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn". [328,

Trong cách phân loại đó, theo Bielinxki, khái niệm tự sự được dùng để chỉ

11]. Do thể hiện sự thực đời sống qua các sự kiện biến cố và hành vi con

toàn bộ những tác phẩm biểu hiện đời sống thông qua miêu tả sự kiện. Đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




người nên tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì
đó.


Trong các tác phẩm trữ tình, nguyên tắc tái hiện đời sống trong tính chủ
quan đã đặt cái tôi tự bạch, tự biểu hiện của tác giả vào vị trí trung tâm tổ

Như vậy, ở tác phẩm tự sự, kể chuyện (hay trần thuật) là yếu tố trung

chức và chi phối thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Trong tác phẩm trữ tình

tâm tổ chức ra thế giới nghệ thuật. Đồng thời với nó, cốt truyện, nhân vật là

cũng có sự việc nhân vật chi tiết đời sống... song chúng chỉ là những sự việc

những yếu tố hạt nhân, được triển khai nhờ một hệ thống các yếu tố chi tiết,

thuần tuý nhằm khách quan hoá, cụ thể lượng thông tin nội cảm - cái mà chủ

sự kiện, ngoại hình, tính cách nhân vật, ngoại cảnh... kể cả hệ thống hư cấu

thể trữ tình muốn biểu hiện. Chính vì thể loại hình trữ tình là nghệ thuật biểu

liên tưởng.

hiện trong sự phân biệt với nghệ thuật miêu tả vốn là đặc trưng của loại hình

Từ đặc trưng trên, có thể thấy, tự sự có một khả năng bao quát rộng
lớn, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống và ngày càng có vị trí quan trọng
trong đời sống thể loại văn học.

tự sự.
Nhưng trong quá trình tìm hiểu về dân ca sinh hoạt của người Tày- một
loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài tác giả


Bước sang thế kỉ XX, vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm,

dân gian lại trình bày ý tưởng, tình cảm của mình dưới hình thức đời sống đã

phổ biến. Tự sự đã bước ra khỏi ranh giới của thể loại văn học để trở thành

được cải tạo lại. Xét về bản chất, đó là một hình thức chủ quan nhưng xét về

một bộ phận nghiên cứu độc lập, có tính liên ngành và có vị trí ngày c àng

mặt ngoại hình ít nhiều mang tính khách quan gián tiếp.

quan trọng trong ngành khoa học văn học và các khoa học nhân văn. Tự sự

Ở những bài dân ca đó, tác giả thường miêu tả rộng rãi các hiện tượng

học hiện đại đã trở thành một bộ môn khoa học, hiểu theo nghĩa rộng là

của đời sống cho một hình thức lý tưởng nhất định. Nói theo Gulaixep “xét về

"nghiên cứu cấu trúc của bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách khác

đối tượng và cách thể hiện là tự sự nhưng cái giọng cơ bản thì lại hoàn toàn

là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của bản tự sự nhằm tìm một cách

trữ tình”. Bài ca sau là một ví dụ :

đọc" [11, 28].


Màn đêm sáp phủ bản mường

Cùng với sự xâm nhập giữa các thể loại trong văn học, tự sự không chỉ

Chim ngàn xao xác về rừng tổ xa

có mặt trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn... như một phương thức tạo

Thấy đôi phượng hạc bay qua

nghĩa và truyền thông tin, tự sự còn có mặt trong thơ, thơ trữ tình, ca dao, dân

Đậu ngay cửa sổ cành hoa nở đầy

ca... những thể loại tưởng chừng ở phía bên kia ranh giới của tự sự. Trong

Lại sang cây nhãn nhẹ bay

những loại hình trữ tình này, tự sự tham gia một cách rất tích cực có vị trí đặc

Hai ta khác chốn lúc này gặp nhau

biệt và có vai trò tương đối quan trọng. Việc tìm hiểu về lý thuyết tự sự trên

Hỏi ai xui khiến trước sau

đây sẽ là những cơ sở lý thuyết vững chắc cho việc xem xét sự xâm nhập của

Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?


yếu tố tự sự vào trong dân ca Tày - một loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu.
1.2.2 Yếu tố tự sự trong văn học dân gian

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Bài ca rõ ràng là lời kết bạn đầy tình tứ và duyên dáng của nhân vật trữ
tình. Nhưng mở đầu lại là lời kể, dụng ý kể chuyện bắt đầu bằng hình ảnh hết



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




sức gợi cảm “Màn đêm sáp phủ bản mường” càng vế sau cái dụng ý đó càng

- Những bài ca có cốt truyện

trở lên rõ nét. Chỉ đến hai câu cuối khi cái dòng tự sự ở đầu tạm thời khép lại

- Những bài ca không có cốt truyện

thì cái mạch trữ tình mới mở ra:

Vấn đề này chúng tôi sẽ trở lại sâu hơn, cụ thể hơn trong các chương tiếp

Hỏi ai xui khiến trước sau


theo.

Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?
Rõ ràng nếu gọi đây là một câu chuyện thì không phải nhưng trong đó
rứt khoát là có yêu tố kể và tả, chứ không thuần túy chỉ là trữ tình.

Tóm lại cần phải khẳng định một lần nữa sự có mặt của yếu tố tự sự
trong dân ca Tày, sự xuất hiện này có lúc biểu hiện ra bằng lời trần thuật,
miêu tả hành động, cử chỉ của nhân vật trực tiếp xuất hiện trong bài ca, cũng

Những bài dân ca kiểu vậy trong kho tàng dân ca Tày không phải hiếm.

có khi nó chỉ dừng lại ở một duyên cớ, một lời đưa đẩy. Nhưng dù xuất hiện

Mỗi bài thường ghi lại một sự việc một sự kiện triển khai thành một bức tranh

dưới hình thức nào thì mục đích cuối cùng của nó cũng là làm nền tảng ngọn

cụ thể qua lời trần thuật trữ tình của tác giả hay nhân vật. Trong lượng thông

nguồn cho cảm xúc trữ tình bắt mạnh vào để bộc lộ giãi bày.

tin mà người đọc tiếp nhận được trong các bài ca đó không thể không thừa

* Tiểu kết:

nhận có cả lượng thông tin sự việc. Về thực chất, lượng thông tin sự việc đã

Tóm lại qua các công trình nghiên cứu, qua quá trình khảo sát và phân


được nhận thức thẩm mỹ điều chỉnh lại theo quy luật riêng của loại hình trữ

tích dân ca sinh hoạt của người Tày, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của

tình. Yếu tố tự sự như trần thuật, sự kiện, nhân vật... ở đây một mặt tác động

yếu tố tự sự trong mảng dân ca này. Yếu tố ấy có các cung bậc đậm nhạt, mầu

và chừng nào đó đã thay đổi kết cấu trữ tình, nhưng mặt khác lại chịu sự qui

sắc khác nhau, đã biểu hiện ra trong sự phong phú, đa dạng của các lời ca.

định của kết cấu mang tính chất của chỉnh thể trữ tình. Chúng tôi gọi đó là sự

Yếu tố ấy xuất hiện đã đem đến cho cảm xúc trữ tình những sắc thái mới lạ,

xâm nhập của yếu tố tự sự vào loại hình trữ tình. Sự xâm nhập này đem đến

hấp dẫn.

các bài ca trữ tình khả năng tái hiện lại những hiện tượng đời sống như trực

Tuy nhiên, hiện nay rất khó tìm cho khái niệm này một nội hàm chung

tiếp miêu tả cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục.

nhất, đầy đủ nhất và toàn diện nhất. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi không có

Nhưng khác với phương thức tự sự, sự tái hiện này không mang mục đích tự


tham vọng đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về yếu tố tự sự trong dân ca

thân mà chỉ nhằm tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm

Tày. Song ở chương có tính chất tiền đề lý luận này, chúng tôi cũng cố gắng

nghiệm, suy tưởng.

xác định một số khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc tìm hiểu vấn đề này

Yếu tố tự sự xuất hiện trong bài ca không chỉ với số lượng phong phú

ở các chương tiếp theo. Chương này chỉ có tính chất giới thiệu khái quát.

mà còn dưới nhiều biểu hiện khác nhau. Những biểu hiện này có lúc đậm sắc

Những biểu hiện cụ thể cũng như vai trò của yếu tố tự sự sẽ được chúng tôi

thái kể chuyện nhưng cũng có lúc mờ nhạt đi bởi cảm xúc trữ tình, trong quá

trình bày rõ hơn ở các chương tiếp theo.

trình khảo sát phân loại, chúng tôi nhận thấy có thể chia yếu tố tự sự trong
dân ca Tày ra làm hai tiểu loại:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





CHƢƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ

Ở những bài ca này dù dài hay ngắn, ghi một phiến đoạn hay một
trường diện của cuộc sống thì những sự kiện trong đó vẫn được kể lại tương

TRONG DÂN CA
Dân ca Tày thường dài hơn dân ca Việt. Đa số một bài thường từ năm

đối hoàn chỉnh. Cho dù một người đứng ngoài khách quan kể lại hay chính

đến sáu câu, có bài trên dưới chục câu, thỉnh thoảng có bài trên trăm câu. Một

người trong cuộc tự giãi bày tâm sự thì những bài ca này đều khắc hoạ nhân

đặc điểm dễ nhận thấy trong dân ca Tày là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối

vật tương đối tinh tế, miêu tả cụ thể những sự kiện quan trọng bước đầu có

tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Tày vừa giản dị hồn nhiên vừa lãng

dáng dấp câu chuyện, hé lộ sức sống của nghệ thuật tự sự trong loại hình trữ

mạn thơ mộng.

tình dân gian.


Xuất hiện ở loại hình tưởng như đối lập này, yếu tố tự sự khẳng định vị

Yếu tố tự sự biểu hiện trong những bài ca có cốt truyện còn có thể chia

trí của mình bằng những cung bậc khác nhau, với biểu hiện vô cùng phong

nhỏ làm hai cấp độ biểu hiện: những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh và những

phú. Tập hợp lại có thể chia làm hai dạng cơ bản:

bài ca có cốt truyện đơn giản.

- Những bài ca có cốt truyện

Trước khi đi vào từng tiểu loại cụ thể, ở đây xin nói rõ về thêm về quan

- Những bài ca không có cốt truyện

niệm cốt truyện trong thơ ca dân gian Tày.

2.1 Những bài ca có cốt truyện

Khi tìm hiểu thơ ca dân gian Nga, nhà nghiên cứu T.M Akimova cho

Với đặc trưng thuộc về loại hình trữ tình dân gian, dân ca Tày xuất hiện
với chức năng chính là để biểu hiện diễn biến tâm trạng. Trong các bài ca này,

rằng: “Trong bài hát trữ tình dân gian bao giờ cũng có cốt truyện cho dù cốt
truyện có nhỏ kém phát triển tới đâu đi chăng nữa”.


nổi lên bình diện thứ nhất và tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình chứ không

Thực ra chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng có một số lượng lớn

phải sự kiện khách quan. Hệ quả có thể suy ra từ điều này là sự xuất hiện của

các bài ca trữ tình dân gian không có một chút tính tự sự nào và dù một số bài

yếu tố trong một bài ca không phải là điều bắt buộc và lại càng không phải là

có yếu tố tự sự đi chăng nữa thì cũng không thể gọi là cốt truyện được. Xuất

yếu tố quyết định có thể chi phối. Nhưng khi tìm hiểu về dân ca Tày chúng tôi

phát từ hai phương thức phản ánh cuộc sống khác nhau, cốt truyện trong dân

nhận thấy có rất nhiều bài ca chất tự sự kết hợp chặt chẽ với mạch trữ tình dàn

ca khác xa so với cốt truyện trong các thể loại tự sự như: truyện cổ tích,

trải. Điều đó đã đem đến một loại bài ca mà các âm hưởng chủ đạo hoàn toàn

truyện cười, truyện thơ... Nếu như trong các thể loại tự sự khác, cốt truyện là

là trữ tình nhưng lại được bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài đậm tính tự sự. Chúng

phương tiện chính để tạo ra các hiện tượng nghệ thuật, qua đó mở ra nội dung

tôi gọi đây là những bài ca có cốt truyện


cơ bản của thể loại này thì trong các bài hát trữ tình dân gian, các tình huống

Đó là những bài ca ghi chép sự việc tương đối hoàn chỉnh, hợp thành

cốt truyện lại là nguyên cớ để biểu đạt những tư tưởng tình cảm nhất định.

một thể thống nhất, có những chỗ bước đầu cấu thành tình tiết câu chuyện

Các tình huống cốt truyện, nếu có, trong các bài hát dân gian không phải là

sinh động thú vị, thể hiện tương đối xuất sắc nghệ thuật tự sự.

yếu tố chủ đạo xác định kết cấu. Ngược lại chính nó phụ thuộc vào yếu tố
khác của kết cấu, đóng vai trò phụ thuộc. Mặt khác, theo đúng nghĩa của “Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




điển thuật ngữ văn học”: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức

lượn “mười hai tháng” là một trong những bài ca thể hiện tương đối xuất sắc

theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản,


nghệ thuật tự sự ở cấp độ đầu tiên này.

quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại hình tự
sự và kịch”. [88, 11]

Toàn bài gồm mười ba đoạn, đã kể lại một cách tường tận công việc
của nhà nông. Qua lời kể của một nhân vật dường như khách quan, đứng

Nếu đối chiếu vào dân ca Tày thì với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái
niệm này sẽ không thể tồn tại một cốt truyện nào trong một bài ca cụ thể.
Như vậy, chỉ có thể hiểu một cách hết sức quy ước về yếu tố cốt truyện
của thơ ca dân gian truyền thống. Về mặt nguyên tắc chúng không có cốt

ngoài câu chuyện, các chi tiết sự việc cứ lần lượt hiện lên theo dòng mạch
thời gian.
Bài lượn được bắt đầu từ tháng một và chất tự sự được khởi nguồn từ
hành động:

truyện đúng theo quan điểm và ý nghĩa của thuật ngữ này khi ta dùng cho tác

Tháng giêng mùng một đốt hương liền

phẩm tự sự. Tuy nhiên chúng ta cũng vẫn cần và có thể nói về tính cốt truyện

Đốt đèn hai ngọn lên chầu tiên

mang màu sắc riêng có thể thấy trong một số bài ca có sự xuất hiện của yếu tố

Đốt đèn hai ngọn lên chầu bụt


tự sự.

Diễn biến của câu chuyện là diễn biến của sự việc trong suốt mười hai
2.1.1 Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh

tháng. Gắn với tháng hai là:

Do việc quan niệm cốt truyện trong cả các bài hát trữ tình dân gian
hoàn toàn mang tính quy ước nên sự hoàn chỉnh của cốt truyện cũng chỉ là
khái niệm mang tính tương đối. Đó chỉ là kết quả của việc so sánh cấp độ này,
đặt cấp độ này trong mối tương quan với các cấp độ biểu hiện còn lại của yếu
tố tự sự trong dân ca Tày.

Tháng hai xuân tới trăm hoa nở
Liệu mà xuất giá chị em ơi
Tháng ba lại mở đầu bằng công việc phát rẫy bông dưới chân núi:
Tháng ba phát rẫy bông chân núi.
Cũng trong tháng này, với cái nắng dịu dịu của tiết mùa xuân:

Qua việc so sánh, có thể rút ra một nhận xét, cấp độ có cốt truyện hoàn

Trai ở thư phòng, thư ngại viết

chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của yếu tố tự sự trong dân ca. Cấp độ này

Gái mắt lim dim ở góc nhà

thường được biểu hiện ra bằng những bài ca có dung lượng, quy mô lớn, số

…………................................


lượng nhiều. Đó là những bài ca đi vào mô tả trường diện của cuộc sống với

Trai ở học đường thư ngại viết

nhiều chi tiết sinh động, sự kiện phong phú… nhưng thống nhất trong một kết
cấu tương đối chặt chẽ. Nhiều khi những bài đó đã đạt đến mức gần như một
câu chuyện có tình tiết hoàn chỉnh được diễn đạt dưới dạng thơ ca.
Dù chỉ chiếm một số lượng khá khiêm tốn nhưng với độ đậm nét nhất
của hình thức biểu hiện, dễ nhận ra dạng thức này trong một bài ca cụ thể. Bài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Gái ở phòng hương tính ngại đàn
Bước sang tháng tư, công việc lúc này trở nên bận rộn hơn bởi :
Tháng tư đám mạ mọc xanh xanh
Dồn dập mùa công thêm hát đình
Dồn dập mùa công thêm hát hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Cấu tứ của bài ca tiếp tục được xây dựng theo trình tự của thời gian và

Có thể nói bài lượn đã thể hiện được rõ nét sắc tinh tế sắc điệu của ngòi


công việc trong năm. Theo dòng mạch đó, nhân vật trữ tình đã liệt kê và kể lại

bút tự sự dưới hình thức bài ca năm tháng. Tả theo thời gian, nói thẳng sự

một cách chi tiết tỉ mỉ công việc và kinh nghiệm làm ruộng suốt từ tháng năm

việc, bài lượn đã ghi chép toàn diện cuộc sống khẩn trương gian khổ của

cho đến tháng mười. Cái nền tự sự đã đem đến logic chặt chẽ cho toàn bài.

người nông dân Tày trong suốt một năm qua. Bài lượn kể nhiều sự kiện, bao

Bài ca vì thế mà giống một bản tường trình dài tổng kết kinh nghiệm làm việc

quát thời gian dài, không gian rộng mà vẫn có dòng mạch, chương pháp. Cố

hữu hiệu và quen thuộc của nhà nông:

nhiên ở đây tuy chưa cấu thành câu chuyện có tình tiết sinh động, hoàn chỉnh

Tháng sáu làm cỏ bận trăm dường

như yêu cầu của một tác phẩm tự sự chính thống, nhưng trong cảnh ong bay

Cúi mặt làm cỏ đầu đượm sương.

bướm lượn, màu cỏ xanh cây mướt, tiếng chim hót trùng kêu…được kết hợp

Là những thành quả lao động đang lớn lên từng ngày như một sự bù
đắp xứng đáng công sức người chăm bón:


nhuần nhuyễn khéo léo đan dệt với hoạt động nông trang. Toàn bài thơ điểm
xuyết cảnh mùa vụ, phối hợp với tả việc, từ đó làm cho bài thơ có kết cấu chặt

- Tháng tám ngoài đồng bông trắng lúa

chẽ hồn nhiên vừa không hề có cảm giác rối loạn, thể hiện đẩy đủ phong phú

- Tháng chín ca mùa lúa chín vàng

cảnh lao động của người nông dân nơi đây.

- Tháng mười là mùa ta gặt hái

Song song tồn tại với yếu tố tự sự là những dòng thơ tràn đầy cảm xúc

Cho chàng cái hái, cái đòn dây

trữ tình. Đó là những phiến đoạn nói về tâm trạng nỗi lòng của nhân vật trữ

Chàng đi gặt, cho chàng đòn, hái

tình đan xen trong những chi tiết kể lể công việc đồng áng của nhà nông. Nội

Chàng xem liệu gặt hái ra tay

dung của các câu thơ đó có thể là nỗi buồn thương da diết vì cảnh cô đơn lẻ

- Tháng một ngoài đồng những rạ rơm


bạn:

Cắt én một đôi đi dạo mường

Bên bạn có đôi làm được chóng

Cắt én một đôi đi dạo xứ

Độc thân lẻ thiếu ruộng bỏ không.

Lúa gặt vào bồ bỏ rơm vàng

Là nỗi khắc khoải, ngẩn ngơ của sự chia lìa xa cách:

Trải dài suốt mười hai khổ thơ là công việc của mười hai tháng trong
năm, cho đến khổ mười ba, bài ca đã kết lại trong nỗi nhớ bạn tình da diết,
trong cái xoay vần của tạo hoá và gợi mở những niềm lạc quan tươi sáng.
Một năm mười hai tháng xoay vần

Nhớ bạn xa nhau ngày ngày buồn
Giá được ở gần nhau, bạn nhỉ
Là nỗi nhớ triền miên không sao dứt được:
Nhớ nhung nhân ngãi mỗi ngày buồn

Nhớ bạn lòng mơ ngày gặp mặt

Chính nhờ những dòng thơ này mà bài ca có âm hưởng trữ tình đằm

Nhớ bàn lòng mong biết mặt thân


thắm thiết tha. Người nghe, người đọc chợt nhận ra các dòng mạch cảm xúc

Năm tháng trôi đi vẫn còn xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




vẫn là âm hưởng chủ đạo trong những bài ca dạng này. Và như thế trên cái

tắt một cốt truyện cổ. Bài lượn Lương Sơn Bá – Trúc Anh Đài là một ví dụ cụ

nền tự sự, bài ca vẫn đứng vững ở ranh giới loại hình trữ tình.

thể.

Những bài ca về chủ đề nông sự là nơi thể hiện sắc nét nghệ thuật tự sự,

Bài lượn được phỏng theo truyện cổ dân gian cùng tên của Trung Quốc.

thay cho lời kể, ở đây công việc nhà nông được hợp thành một bộ phận của

Trai gái Tày yêu thích câu chuyện tình thuỷ chung mà bi thảm này nên đã

nội dung thơ ca. Những bài ca này hoặc kể về việc lo tìm giống má, làm


đem lên sân khấu nhà sàn, dùng tiếng hát lời ca mà cất lên thành câu chuyện.

vườn, đánh cá, buôn trâu hay dệt vải, ươm tơ... đều đã phản ánh được sinh

Bài ca vì thế có cái mạch lạc rõ nét của yếu tố tự sự lại có cái da diết của

động bức tranh sinh hoạt của người Tày.

những cảm xúc trữ tình. Nội dung của câu chuyện này có thể tóm tắt như sau:

Hợp thành tiểu loại này, ngoài những bài ca thuộc về chủ đề nông sự
như bài lượn mười hai tháng trên còn phải kể đến những bài lượn séc.

Anh Đài là một cô gái thông minh, ham học có chí lớn. Để thoả mãn khát
vọng, nàng đã cải trang thành một phong lưu công tử sắm sửa hành lý, lên

Lượn séc có nghĩa là lượn theo sách. Những bài lượn này có hai kiểu.

đường đi du học. Trên đường đi nàng gặp Sơn Bá, một nho sinh cũng đang

Kiểu thứ nhất là lượn tự sự lịch sử. Đây là những bài lượn diễn ca lịch sử một

trên đường đi học. Hai người kết nghĩa anh em, hai người cùng học một

cách chính thức theo sách chứ không thêm bớt. Những bài lượn này mặc dù

trường, cùng ăn chung một mâm, ngủ cùng một chiếc giường mà Sơn Bá

được trình bày trong các cuộc lượn nhưng lại mang chất tự sự đậm đà hơn


không hề biết Anh Đài là nữ nhi cải trang. Một hôm Anh Đài bắt được thư

tính trữ tình. Mặt khác, những bài lượn này khi cất lên không nhất thiết phải

cha gọi về nhà. Sơn Bá tiễn Anh Đài đi mấy chục dặm đường trở về, bắt được

bộc lộ cảm xúc yêu thương, trạng thái tình cảm. Mục đích của chúng có khi

thư Anh Đài nói thật mình là con gái, lúc này chàng mới biết sự thật. Khi Sơn

chỉ dừng lại ở việc thi thố tài năng giữa các chàng trai cô gái có dịp gặp nhau.

Bá trở về nhà, Anh Đài đã bị bố mẹ ép gả cho anh chàng họ Mã, lễ cưới sắp

Cho nên chúng tôi không chú ý phân tích rõ bài lượn tự sự lịch sử trong phạm

sửa tiến hành. Quá đau khổ Sơn Bá đã chết, Anh Đài để tang khóc lóc thảm

vi nghiên cứu của đề tài này.

thiết. Đám cưới Anh Đài được tổ chức long trọng. Khi kiệu cưới đi qua mộ

Kiểu thứ hai là những bài lượn tóm tắt cốt truyện hoặc chỉ tóm lấy một

Sơn Bá, Anh Đài xuống kiệu kêu khóc, mộ tự nhiên mở ra, Anh Đài chui vào.

vài chi tiết của cốt truyện, rồi thông qua những chi tiết đó, bài lượn có thể bộ

Linh hồn hai người hoá thành bươm bướm để đời đời kiếp kiếp bay lượn trên


lộ trực tiếp hay gián tiếp gửi gắm vào trong đó những cảm xúc yêu thương.

hoa thơm cỏ lạ, hưởng mãi tình yêu trong trắng.

Những bài lượn này tuy mang đậm dấu ấn của loại hình tự sự nhưng mục đích

Toàn bộ cốt truyện đó đã được cô đọng lại trong tám mươi câu thơ.

cuối cùng vẫn là để bộc lộ cảm xúc trữ tình. Cho nên chúng tôi xếp chúng vào

Một dung lượng không phải là ngắn so với phạm vi một bài lượn nhưng lại

những bài lượn tự sự - trữ tình và đặt chúng ở dạng thức biểu hiện cao nhất

chưa đủ dài để trở thành một truyện thơ cùng tên. Nhưng trong từng đấy câu

của yếu tố tự sự trong loại hình trữ tình dân gian - dạng thức những bài ca có

cũng có đủ cả cốt truyện, nhân vật, những chi tiết sinh động, những phiến

cốt truyện hoàn chỉnh. Dạng thức này khá phổ biến trong những bài lượn tóm

đoạn miêu tả… Tất cả đã liên hệ với nhau một cách thống nhất tạo thành một
bài ca có dáng dấp một câu chuyện hoàn chỉnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Mạch tự sự được bắt đầu bằng việc giới thiệu, sự xuất hiện của hai
nhân vật chính: Lương Sơn Bá và Trúc Anh Đài.

Lời thoại tuy dung lượng ngắn, số lượng ít nhưng cũng đủ phả vào
trong đó cái hơi thở sinh động của tự sự. Bài lượn vì thế bớt đi cái nặng nề

Sơn Bá đời xưa con nhà văn

của tính chất kể và tả.

Neo đơn đi học chỉ một mình

Bài lượn cứ diễn biến theo cái mạch truyện truyền thống, cho đến cái

Một mình đi học đi qua bản

mâu thuẫn giữa tình yêu thuỷ chung với quyết định ép gả của cha mẹ thì dừng

Rồi gặp Anh Đài kết bạn thân

lại. Đến đây câu chuyện rẽ sang một hướng khác theo cái tư duy sáng tạo của

Anh Đài ngày ấy thật khôn

người Tày. Sơn Bá trong suy nghĩ của người hát lên khúc ca này không phải


Phận gái đóng giả thành trai tân

là một chàng trai bi luỵ, đau khổ đến nỗi phải ôm mối hận mà giã biệt cuộc

Kết cùng Sơn Bá làm bạn hữu

đời. Chủ động hơn, chàng quyết tâm học hành để có thể đường hoàng xin

Rủ nhau đi học học trường quan.

cưới Anh Đài:

Bằng ngôn ngữ súc tích và cô đọng, bốn khổ đã làm đầy đủ các mục

Sơn Bá nhắn lại với Anh Đài

của phần mở đầu. Từ việc giới thiệu tên nhân vật, gia cảnh của từng người

Anh về còn học học thi tài

đến hoàn cảnh hai người gặp gỡ đều gói gọn trong số lượng câu chữ ngắn

Thi thư phải học, học cho hết

ngủi ấy.

Thi đỗ trạng nguyên đệ nhất tài

Sau mở đầu như vậy, truyện bắt đầu đi vào tóm tắt diễn biến câu


Sơn Bá đi, Anh Đài ở lại bị cha mẹ ép duyên gả bán. Đau khổ và tuyệt

chuyện. Cách kể ở đây theo từng đoạn. Mỗi đoạn là một chi tiết chắt lọc đã

vọng, nàng tìm đến cái chết. Mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm trong các

được thơ hoá. Chín đoạn thơ đã kể lại tuần tự từ lúc Sơn Bá – Anh Đài học

hành động:

cùng trường cho đến lúc Đài bị gả bán.

Năm canh sầu não đi ra đường

Ở đây ngoài việc kể và tả, bài ca bắt đầu xuất hiện những đối thoại. Đó
là lời dặn dò của Anh Đài:

Anh Đài nhớ bạn lòng buồn thương
Mới giả vào rừng để chờ đợi

Anh hỡi ở lại chăm học giỏi

Khăn đào vắt cổ vấn thân nàng.

Em về thăm cha mẹ mấy ngày

Bỏ lại hết những chi tiết về lễ cưới, gạt ra ngoài sự việc Anh Đài chui

Và lời nhắn nhủ của Sơn Bá:


vào mộ, đôi uyên ương hoá thành bươm bướm, câu chuyện kết thúc bất ngờ

Anh về còn học học thi bù

trong những dòng trữ tình ngoại đề da diết một nỗi buồn thương:

Thi thư phải học học cho hết

Anh Đài thời xưa thuộc giống hoa

Thi đỗ trạng nguyên đệ nhất tài

Sinh về dương thế chẳng thành gia
Sinh xuống dương gian tâm lạc số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Thành chim khảm khắc vọng rừng xa.
Ở đó không chỉ có một trường đoạn miêu tả tỉ mỉ như trong truyện cổ

chưa thật thành thục, nhưng bù lại nó lại có cái trong sáng giản dị có xen kẽ
được dòng mạch trữ tình tràn đầy cảm xúc yêu thương.


tích, cũng không có những đoạn biến thiên có hậu như trong truyện thơ

Dân ca là nghệ thuật trữ tình và nếu một sáng tác văn học nghệ thuật

Sanpec_Anh Tài. Nó chốt tại trong cái biến ảo. Một cái kết mang đậm hơi

không sáng tác theo phương thức trữ tình, không mang tính trữ tình thì không

thở, đặc trưng của những bài lượn. Có lẽ vì thế mà đây chỉ là tiền thân, là

phải là dân ca. Khác với truyện thơ, anh hùng ca, thần thoại ca... lấy kể

bước đi chập chững, là những thử nghiệm ban đầu của truyện thơ.

chuyện về số phận một hay nhiều nhân vật làm mục đích, dân ca lấy tỏ bày

Câu chuyện kết thúc không có cảnh đôi uyên ương hồ điệp mà mãi bên

tâm tình tác giả, lấy phô diễn nhiều tâm tư tình cảm làm mục đích. Do vậy

nhau. Chỉ có cảnh Anh Đài biến thành chim khảm khắc cô đơn lẻ bạn. Khảm

việc xuất hiện yếu tố tự sự dưới hình thức một cốt truyện hoàn chỉnh như trên

khắc là một giống chim kêu đêm hè, được dung để ví với người yêu sầu thảm

không thể là điều phổ biến trong dân ca Tày. Theo thống kê của chúng tôi, chỉ

vì xa nhau mà than thở. Phải chăng khi hư tạo ra kết thúc này, người hát muốn


có 19 bài trong tổng số 463 bài có sự xuất hiện của yếu tố tự sự. Một con số

kín đáo bày tỏ những xúc cảm nỗi lòng của mình với bạn tình?

không nhiều nhưng từng đấy cũng đủ thấy sắc điệu tự sự độc đáo tồn tại trong

Nhìn lại toàn bộ, có thể kết luận rằng bài lượn theo dòng tự sự là chính
nhưng những bài ca dạng này vẫn được xếp vào loại những bài ca tự sự - trữ

một loại hình tưởng như có phần đối lập.
2.1.2 Những bài ca có cốt truyện đơn giản

tình bởi lẽ chen vào giữa thanh âm tự sự vẫn là những dòng cảm xúc trữ tình

Một đặc điểm rất quan trọng khi quan sát kết cấu dân ca Tày là các bài

sôi nổi. Đó là những phản ứng, những sắc thái tình cảm khác nhau mà người

dân ca này đa số dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật, kể lể, phô diễn đậm

hát kín đáo gửi gắm qua việc miêu tả tâm trạng nhân vật:

nét hơn. Điều đó đã tạo ra một nhóm bài ca mà chúng tôi gọi là nhữ ng bài ca

Sơn Bá đến nơi liền lên nhà

có cốt truyện đơn giản.

Nhưng chẳng thấy bạn lòng xót xa


Thật ra ranh giới một bài ca có cốt truyện đơn giản với một bài ca có
cốt truyện hoàn chỉnh cũng chỉ mang tính tương đối. Đường biên ranh giới

và:
Năm canh sầu não đi ra đường

không phải lúc nào cũng rõ nét. Chỉ có thể căn cứ vào dung lượng tự sự trong

Anh Đài nhớ bạn lòng buồn thương

từng bài ca cụ thể mà xếp chúng vào dạng này hay dạng khác.

Mặt khác ngay trong việc lựa chọn, hay việc thay đổi chi tiết để kể lại

Xuất hiện dưới dạng này, yếu tố tự sự thường được hình thức hoá bằng

cũng đã gián tiếp bộc lộ tình cảm. Đó là còn chưa đề cập tới sắc thái tình cảm

một kết cấu năng động và ngắn gọn. Đó là những mẩu chuyện, những tình tiết

trực tiếp của người diễn xướng. Bài ca vì thế vừa có các mạch tự sự sắc nét

được sắp xếp theo hệ thống ít nhiều khác nhau hoặc có khi là một bản tóm tắt

vừa có tính trữ tình sâu lắng.

cô đọng của những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh. Do không có một dung

Nói một cách khách quan, so với những truyện thơ cùng lấy cốt truyện


lượng dài để phản ánh một trường diện của cuộc sống, những bài ca dạng này

từ những câu chuyện cổ, thì nghệ thuật tự sự trong những bài ca dạng này

thường chỉ đi vào miêu tả một phiến đoạn của cuộc sống thường nhật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






X.G.Laduchin nhận xét “Đối với các bài hát trữ tình dân gian không
nên nói đến cốt truyện mà tốt hơn là nói đến các yếu tố của cốt truyện”. Như

Một bài ca không dài, tất cả chỉ có chín câu nhưng đã chín câu đó kịp
tạo thành một câu chuyện khá trọn vẹn và hấp dẫn.

đã nói ở trên, với tác phẩm thuộc loại hình trữ tình, khó có thể tồn tại cốt

Câu chuyện đơn giản những có khá đầy đủ yếu tố cơ bản của một cốt

truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Nhưng với các bài ca ở dạng thức

truyện: có nhân vật, thời gian, đặc điểm, có sự việc, hành động, có cả lời dẫn


này có thể nói rẳng dù không có cốt truyện theo đúng nghĩa của thuật ngữ

truyện của người kể lẫn ngôn ngữ đối thoại trực tiếp của nhân vật.

này, song thực ra tự chúng đã mang tính cốt truyện làm cho các sự kiện phát
triển và liên hệ một cách thống nhất.

Đại từ “em” ở đầu câu cho thấy tác giả (cô gái) đang trực tiếp kể
chuyện của chính mình. Nội dung, tính chất của câu chuyện và cách kể của

Do vậy yếu tố nổi bật của cốt truyện tồn tại trong những bài ca này vẫn

tác giả cho thấy người kể đang rất muốn gửi gắm tâm sự của mình đến một

là mối liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa các chi tiết hoạt động, sự việc… được nói

người. Người đó có thể là cô đang thầm yêu trộm nhớ, cũng có thể là người

đến trong bài ca.

đã cùng có nặng lòng thề thốt yêu thương. Nhưng dù là ai thì cũng đang cách

So với những bài ca có cốt truyện rõ nét, những bài ca có cốt truyện mờ

xa cô để lại trong lòng cô một nỗi niềm tương tư trĩu nặng.

nhạt đông đảo hơn về mặt số lượng. Xuất hiện trong dân ca sinh hoạt Tày có

Hai từ “Chiều rồi” cho thấy thời gian xảy ra câu chuyện và thời gian kể


45 bài ở dạng này, chiếm khoảng 9,7% số lượng bài ca có sự xuất hiện của

lại câu chuyện rất gần nhau, điều đang ở trong một ngày. Nghĩa là câu chuyện

yếu tố tự sự. Một con số không phải quá lớn những cũng đủ thấy hiện tượng

được kể lại khi nó vừa xảy ra, còn đang hết sức nóng hổi và tươi mới. Điều

thâm nhập chuyển hoá lẫn nhau giữa các loại hình văn học dân gian.

này phản ánh rõ nhu cầu khẩn thiết muốn được giãi bày sẻ chia của người nói.

Xuất hiện ở dạng này, có lúc yếu tố tự sự xuất hiện trong một bài ca có
đủ các nhân vật, chi tiết, hoạt động và đối thoại. Chẳng hạn bài ca sau:

Hai câu đầu đã giới thiệu rõ thời gian địa điểm, nhân vật của câu
chuyện. Thời gian chiều rồi, lúc cô gái trên đường đi chợ về. Địa điểm: chợ,

Chiều rồi đi chợ em về

một nơi gặp gỡ giao lưu quen thuộc của các chàng trai cô gái Tày, một không

Lời chưa nhắn hết đã thì chia tay

gian nảy sinh những mối tình thắm thiết nhưng cũng là nơi những đôi tình

Lên nhà phờ phạc tỉnh say

nhân phải từ biệt nhau ra về. Nhân vật “em” là nhân vật chính của câu


Nhai cơm như nhá trầu cay nhọc nhằn

chuyện, cũng là người kể chuyện, là nhân vật trữ tình của bài ca. Như vậy

Dậy múc nước lã về chan

những chi tiết trong câu chuyện kể đã được cụ thể hoá và cá biệt hoá rất cao.

Bát ăn chưa hết đặt bàn ngần ngơ

Đó là một trong những lý do khiến bài lượn cất lên sinh động và hấp dẫn.

Dối cha: thiếu thịt cơm thừa

Hai câu đầu hoàn thành xuất sắc trong vai trò là lý do để dẫn đến một

Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và
Thực thì nhớ nghĩa hai ta

chuỗi hành động liên tiếp được kể ra trong sáu câu:
Lên nhà phờ phạc tỉnh say
Nhai cơm như nhá trầu cay nhọc nhằn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Dậy múc nước lã về chan

Sau tất cả những lời kể lể, tường thuật thì điều muốn nói cũng được nói

Bát ăn chưa hết đặt bàn ngần ngơ

ra trực tiếp. Cái mãnh liệt của tình yêu khiến cô gái không thể giấu mãi lòng

Dối cha: thiếu thịt cơm thừa

mình. Từ “thực ra” đứng đầu đã thay cô thừa nhận tất cả.

Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và
Những hành động: lên nhà phờ phạc, nhai cơm như nhá trầu cay nhọc
nhằn, dậy múc nước lã về chan, bát ăn chưa hết đặt bàn ngẩn ngơ… đã nói lên
tất cả các nỗi nhớ niềm thương của người con gái đang yêu.

Bài ca kết thức ở đây là hợp lý và hoàn hảo. Với cách kể từ xa đến gần,
từ giao tiếp đến trực tiếp, theo một trật tự thời gian nhất quán, bài ca đã mang
trong mình dáng dấp một câu chuyện, tuy còn đơn giản những khá chặt chẽ.
Những bài có có xuất hiện cốt truyện đơn giản còn xuất hiện khá nhiều

Cái tâm trạng "ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng" khiến cô

trong chùm những bài hát than thân của những người đi ở, những người

chỉ muốn tìm người để sẻ chia giãi bày tâm sự. Nhưng mặt khác, cái kín đáo,


nghèo khổ, của những người vợ, những cô gái bị ép duyên... những nhân vật

e lệ của một người con gái đang yêu khiến cô không thể cất lên những lời

trữ tình mà mới nghe đến họ, ta đã có thể hình dung bao sự kiện và nỗi niềm

đang giấu kín trong đáy lòng mình. Cho nên muốn trò chuyện nhưng ý tứ còn

chất chứa.

e ngại, ngập ngừng. Cô chỉ dám kể lại những hành động từ lúc chia tay với

Thông thường những lời ca than thân được hát lên theo phong cách trữ

người cô yêu dấu. Và càng như mọi cô gái khác dối nỗi e thẹn, ngượng ngùng

tình trực tiếp. Có nghĩa người hát dùng lời ca trực tiếp nói lên nỗi đau khổ của

buộc cô phải nghĩ ra lý do dối cha dối mẹ. Và cô đã kể lại:

mình (hoặc của những người cùng cảnh ngộ) qua đó họ tâm sự,, bày tỏ thái độ

Dối cha: thịt thiếu cơm thừa

và các sắc thái tình cảm của mình. Nhưng cũng có khi vì một lý do gì đó, có

Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và

thể là để nói lên tâm tình của mình một cách ý nhị hơn, hoặc muốn tìm sự


Đến đây ngoài những tiếp nối của sự việc, còn xuất hiện lời thoại của

cảm thông qua những lời kể lể chi tiết, họ đã dùng “sự” để thay “tình” nói lên

nhân vật, lời thoại tuy ít, dung lượng ngắn nhưng đã làm phong phú thêm cho

tất cả. Và lúc đó ta sẽ có một bài ca than thân đậm sắc thái tự sự. Chẳng hạn

câu chuyện. Đồng thời cùng góp thêm một nhân tố trong việc giúp cô gái kín

bài ca chàng trai nghèo muộn vợ. Toàn bài ca như sau:

đáo giãi bày tình cảm.

Hăm tám tết người ta rửa lá

Những tưởng cô gái sẽ kể tiếp để người nghe tế nhị mà thầm cảm thông

Rỗng tuyếch nhà vẫn đói nghèo

chia sẻ với cô.Nhưng dường như nỗi nhớ càng nén càng nồng, càng giấu lại

Ba mươi người thịt gà với vịt

càng lộ, những muốn chia sẻ ngay nhưng còn ngại ngùng, nên ý tứ phải nói xa

Nhà ta con trẻ khóc ỉ eo

rồi mới dám nói gần :


Xào thịt, chảo người reo tựa pháo
Thực thì nhớ nghĩa hai ta

Ốc ruộng ta xào chảo cũng reo
Tháng riêng vác ô chuồn biền biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Bàn thờ hương khói lạnh đêm ngày

Câu chuyện lại được tiếp tục bằng thời điểm tháng giêng trong không

Nhà người thắp đèn lại thắp nến

khí ngày tết, càng tô đậm hơn cảnh khốn cùng của chàng trai nghèo.

Nhà ta đom đóm bay lập loè

Tháng giêng vác ô chuồn biền biệt

Nhà người đã gà lịa thêm vit

Bàn thờ hương khói lạnh đêm ngày


Nhà ta tôm tép cũng không hay

Nhà người thắp đèn lại thắp nến
Nhà ta đom đóm bay lập loè

Gà gáy o o, gà gáy thật

Nhà người đã gà lại thêm vịt

Nhà trên nhà dưới dậy tới nơi

Nhà ta tôm tép lại không hay.

Người ta có vợ thay chồng dậy

Ngày tết, người ta gặp gỡ vui chơi thì chàng trai nghèo lại “chuồn biền

Không vợ sai nhờ tự động thôi

biệt”, người ta thắp những nén hương tưởng nhớ đến tổ tiên, tìm sự ấm áp

Nghe bên chị có nhiều gái goá

thanh tịnh trong cõi lòng thì chàng trai nghèo đến nỗi “bàn thờ hương khói

Phiền chị manh mối giúp một người

lạnh đêm ngày”, người ta thắp đèn thắp nến để mong xua đi cái bóng tối thì


Lựa chọn thời điểm trước tết, người kể đã thể hiện rất rõ dụng ý kể lể,

chàng trai nghèo âm thầm làm bạn với ánh sáng của đom đóm. Trong cái sự

miêu tả trạng thái gia cảnh nhà mình. Người Kinh có câu: "...chẳng giàu thì

chân thực và cụ thể của lời kể, những cái gì gọi là cảnh nghèo, cảnh khổ đã

nghèo - chiều ba mươi tết thịt treo trong nhà". Nhưng với chàng trai nghèo

được phơi bày tường tận và chi tiết.

này thì gia cảnh được kể và tả lại thật thảm hại, đáng thương :
Hăm tám tết, người ta rửa cá

Nỗi khổ không chỉ bởi gia cảnh nghèo khổ, mạch chuyện còn được nối
tiếp bởi những dòng kể về cảnh muộn vợ:

Rỗng tuếch nhà ta vẫn đói nghèo

Gà gáy o o, gà gáy thật

Ba mươi người thịt gà với vịt

Nhà trên nhà dưới dậy tới nơi

Nhà ta trẻ con khóc ỉ eo

Người ta có vợ thay chồng dậy


Xào thịt chảo người reo tựa pháo

Không vợ sai nhờ tự dậy thôi

Ốc ruộng ta xào chảo cũng reo

Nếu như cảnh nghèo khó được diễn giải bằng một loạt hành động, tình

Khác với những bài ca trên, ở đây từng chi tiết từng hành động được kể

tiết, sự việc thì cảnh muộn vợ lại chỉ được diễn tả trong một hành động

và tả lại luôn đặt trong sự so sánh và đối chiếu với cảnh giàu sang của kẻ

“không vợ sai, nhờ, tự dậy thôi”. Nhưng chỉ một hành động đấy cũng đủ để

khác. Từng cặp câu đặt trong thế đối ngẫu khiến cả đoạn thơ cứ dội đi dội lại

thấy mọi lời nói về cái cô đơn trống vắng, lạnh lẽo của căn nhà thiết bàn tay

mãi cái mỉa mai, chua chát cái cảnh nghèo khổ, cùng cực.

của người phụ nữ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Như vậy, yếu tố tự sự đã mô tả một cảnh ngộ nặng nề của một con

Mùa xuân vừa hết ong xao xác

người nghèo khổ. Mười sáu câu đầu không hề có chất trữ tình vui tươi, sáng

Tháng năm tháng sáu bận mùa công

sủa. Thay thế vào đó là xâu chuỗi các hành động chi tiết u ám. Bài ca vì thế

Tháng bảy tháng tám dệt đầy hoa

mà buồn bã. Nỗi buồn không được trực tiếp nói ra qua bất cứ lời kể nào

Tháng chín tháng mười bạn gặt mùa

nhưng lại hiện hữu gián tiếp thông qua một loạt lời kể. Những tưởng bài ca sẽ

Tháng một tháng chạp hoa rụng hết

kết lại trong các dư vị đắng cay chua xót. Nhưng ngay khi không khí mười
sáu câu đầu khép lại trong nỗi bi quan u ám thì hai câu cuối lại ánh lên một
ánh sáng của lòng lạc quan vô bờ:

Mười hai tháng vận chuyển lại qua.
Sắp xếp theo trình tự thời gian vốn là dạng kết cấu mang tính truyền
thống trong văn học nói chung và trong văn học dân gian nói riêng. Trong văn


Nghe bên chị có nhiều gái goá

học dân gian, kết cấu này sử dụng rộng rãi khi tổ chức sắp xếp các sự kiện của

Phiền chị mối manh giúp một người

thể loại tự sự như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…Trong loại hình trữ tình

Như vậy, bài ca trên, một mặt, qua phần “sự” làm cho ta thấy được
thêm phần bị vùi dập, khổ đau trong xã hội cũ, mặt khác qua cốt lõi trữ tình

dân gian, cụ thể là trong dân ca sinh hoạt, kết cấu này khá phổ biến trong
những bài ca về nghề nghiệp. Bài ca trên là một trong số đó.

ẩn sâu bên trong, những bài hát cũng đã gây được lòng cảm mến trước tinh

Cấu tứ bài ca được xây dựng theo trình tự thời gian, dấu ấn từng tháng

thần lạc quan, tin tưởng của họ. Với dung lượng dàn trải trong mười tám dòng

và công việc trong năm. Ba dòng đầu là những lời ta phác thảo đặc trưng

thơ bài ca đã tạo nên một mô hình cốt truyện tuy còn mờ nhạt nhưng khá trọn

thiên nhiên nơi vùng núi tây bắc. Bốn dòng tiếp theo đã làm nhiệm vụ kể khái

vẹn. Sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở đây đã tạo được sự cộng hưởng cao độ

quát công từ tháng năm đến tháng mười. Câu thứ bảy lại quay về với việc


với mạch trữ tình thấm đượm trong mỗi dòng thơ kể lể xót xa.

miêu tả thiên nhiên trong tháng mười một. Bài ca kết lại ở dòng thứ tám,

Hợp thành dạng thức biểu hiện của cốt truyện đơn giản, bên cạnh

trong cái triết lý về sự tuần hoàn của thời gian. Trên cái nền tự sự, theo cái

những bài ca trên còn phải kể đến một số bài thuộc về chủ đề nông sự. Cùng

mạch thời gian, từ cảnh thiên nhiên đến sinh hoạt đã hiện lên ngắn gọn mà rõ

chung kết cấu với những bài lượn mười hai tháng nhưng xét về nội dung,

nét, đơn giản mà cụ thể.

những bài ca này ngắn gọn hơn, sơ lược hơn rất nhiều. Ở chúng xuất hiện đầy

Xu hướng xây dựng nên những cốt truyện đơn giản làm nền cho cảm

đủ yếu tố kể và tả nhưng lại chưa đủ dữ liệu để đẩy lên cấp độ cao hơn. Do đó

xúc trữ tình mạnh mẽ ngân lên khá phổ biến trong dân ca Tày. Và ở mỗi

chúng tôi xếp vào dạng những bài ca có cốt truyện đơn giản.

mảng đề tài đều có nhiều đặc trưng kết cấu biểu hiện sắc nét. Nhưng có thể

Chỉ vài câu mộc mạc mà hiện lên cả một lịch trình về canh tác và thời

vụ của những cư dân sử dụng ngôn ngữ Tày. Bài ca sau là một ví dụ cụ thể:
Tháng giêng tháng hai hoa đua nở

nói ở nhiều bài lượn sách, tự sự xuất hiện dưới hình thức cốt truyện đơn giản
có những biểu hiện sắc nét hơn cả. Bài lượn sử “Tống Trân” là một ví dụ.
Khác với bài lượn “Lương Sơn Bá – Trúc Anh Đài” ở trên, bài lượn này chỉ

Tháng ba tháng tư ong hội động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×